Thứ Bảy Ngày 09/03/2013
\Tuần III Mùa Chay Năm C
BÀI ĐỌC I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Đây
Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm Ta.
"Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ
tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày Người
cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và chúng ta
sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết
Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa
thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi
Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương
các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên
tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt
các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy
lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 18-19.
20-21ab
Đáp: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ
(Hs 6, 6).
1) Lạy Chúa, nguyện thương con
theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt
gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh
lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là
tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Đáp.
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với
Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con
sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những hy sinh với lễ toàn thiêu. - Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM:
Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng
thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công
chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một
người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện
rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất
công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và
dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa,
không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương
xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn
người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai
hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Người Thu Thuế Ra Về Ðược Khỏi Tội
Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: "Nơi Thiên
Chúa khóc". Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách
hại tại Ðông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc
cầu nguyện như sau:
Tôi cùng với một số người Ðức bị đưa đi đày xa quê hương
từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại
một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng
tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung
với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định
hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để
đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng
đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có
Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy
niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước
khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng
tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái
huynh đệ.
Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới
tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi
buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội
tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh
Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.
Anh chị em thân mến!
Lời cầu
nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời
cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng
đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được
mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Ðức
cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách "Ðường Hy
Vọng":
Dù con
có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng
của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản
phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc
con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.
Người
biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại
trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe
khoang với Chúa và gây chia rẽ: "Con không phải như người thu thuế, tôi
lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại
tình..." Ðó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích
cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại,
người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi
mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở
về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Ðức cố
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy
Vọng" đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba
người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng
nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn
cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử
thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con
hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời
ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con
vững tâm: "Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con".
Vậy,
tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Ðức Mẹ và các thánh
không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa
Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên
hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: "Phêrô, Madalena, Simon phong
cùi, Giakêu... Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu
thuế và người tội lỗi".
Quyền
năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người
Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm
tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.
Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin
Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về
với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.
(Veritas
Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần III MC
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải
biết Thiên Chúa và biết mình
Để dễ sống hòa hợp với người khác, chúng ta
cần biết họ là ai và mình là ai, tương quan của chúng ta với họ, những điểm
tương đồng và dị biệt giữa chúng ta với họ, những gì họ thích, không thích…
Tương tự như vậy khi chúng ta đến với Thiên Chúa, chúng ta cần phải biết Thiên Chúa
là ai và mình là ai, điều khác biệt giữa Thiên Chúa và mình; những gì Ngài
thích hay không thích. Có như vậy, mối liên hệ hai bên mới tốt đẹp, tránh những
gì làm phiền lòng nhau, và gặt hái được những kết quả mong muốn.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con
người sống mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, con người tưởng có thể
qua mặt Thiên Chúa bằng lối sống hời hợt bên ngòai như dâng các lễ vật hy sinh
để đền bù tội lỗi, rồi sau đó cứ tha hồ phạm tội. Con người có biết đâu Thiên
Chúa thấu suốt tâm can, Ngài đâu cần những lễ vật vì mọi sự trong trời đất
thuộc quyền của Ngài. Điều Thiên Chúa muốn, Ngài tỏ cho con người biết rõ ràng:
“Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là
được của lễ toàn thiêu.” Trong Phúc Âm, hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một
người Biệt-phái và một người thu thuế. Người Biệt-phái tưởng Thiên Chúa không
có trí nhớ, nên ông nhắc lại cho Ngài nhớ những việc ông đã làm; tưởng Thiên
Chúa không đủ khôn ngoan nên ông giúp Chúa bằng cách so sánh giữa cuộc sống của
ông với của người thu thuế. Còn người thu thuế biết Thiên Chúa là Đấng thấu
suốt mọi sự nên chỉ biết đấm ngực ăn năn: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con
là kẻ tội lỗi.” Hậu quả được Chúa Giêsu tuyên bố: “người thu thuế, khi trở xuống
mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Biệt-phái thì không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa muốn tình yêu và được con
người nhận biết.
1.1/ Lợi ích của hình phạt: Hình phạt không cần
thiết cho những người con luôn biết nghe lời cha mẹ; nhưng kinh nghiệm thực tế
cho thấy, con cái không luôn biết vâng lời cha mẹ vì ham chơi, nên phải có hình
phạt để sửa dạy. Hình phạt được ví như thuốc thang cho người bệnh, tuy đắng khi
vào miệng, nhưng sẽ mang lại sức khỏe cho họ. Trường hợp của dân tộc Israel
cũng thế, Thiên Chúa dạy dỗ họ nhiều điều; nhưng họ không chịu nghe và tuân
giữ; nên như một người Cha, Thiên Chúa phải sửa phạt bằng cách cho họ chịu đau
khổ, để giúp họ trở nên tốt hơn.
(1) Sửa phạt rồi lại xót thương: Sửa phạt con cái là
vì thương, chứ không phải vì ghét bỏ, như lời tục ngữ Việt-nam: “thương cho roi
cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.” Làm cha mẹ mà không chịu giáo dục con cái là
đẩy chúng tới cõi chết. Con cái buồn sầu và tức giận khi bị sửa phạt, nhưng sau
khi hồi tâm suy nghĩ, chúng sẽ nhận ra lỗi lầm của chúng và nhận ra tình thương
của cha mẹ. Israel
cũng thế, họ nhận ra tội của họ và tình thương Thiên Chúa trong Thời Lưu Đày và
khuyến khích nhau: “Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân
chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại
băng bó vết thương.”
(2) Làm cho chết rồi lại làm cho sống: “Sau hai ngày, Người
sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và
chúng ta sẽ được sống trước nhan Người.” Chủ đề được lãnh nhận ơn cứu độ trong
ngày thứ ba xảy ra thường xuyên trong Cựu Ước (x/c Gen 42:18, Exo 19:10-11, Jos
3:2, Hos 6:2, Jon 2:1, Ezr 8:15, Est 5:1, Luk 13:32). Chúa Jesus xác tín niềm
tin này bằng cách sống lại vinh hiển từ cõi chết trong ngày thứ ba.
1.2/ Hai điều căn bản Thiên Chúa muốn nơi con
người:
(1) Phải ra sức học biết Thiên Chúa: Con người thường biếu
quà cáp quí giá cho cha mẹ, vì họ nghĩ cha mẹ sẽ hài lòng vì những quà tặng
này. Nhưng điều cha mẹ hài lòng hơn là con cái phải biết giữ đạo, yêu thương
cha mẹ, và ăn ở hòa thuận với mọi người. Tiên tri Hosea dạy: “Chúng ta phải
biết Đức Chúa, phải ra sức nhận biết Người; như hừng đông mỗi ngày xuất hiện, chắc
chắn thế nào Người cũng đến. Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa
xuân tưới gội đất đai." Phải học biết Thiên Chúa thì con người mới biết
Thiên Chúa muốn gì, trước khi con người có thể làm đẹp lòng Ngài. Không học
biết về Thiên Chúa, con người không thể làm đẹp lòng Ngài. Chính Thiên Chúa xác
nhận: “Ta thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.”
(2) Phải hết sức yêu mến Người: Thiên Chúa yêu mến
con người, đó là lý do duy nhất Ngài dựng nên, dạy dỗ, và chuẩn bị mọi sự cho
con người. Một điều duy nhất con người có thể trả ơn Thiên Chúa là yêu mến và
vâng nghe những gì Ngài dạy. Không một thứ quà cáp nào thay thế được tình yêu
mà Thiên Chúa mong muốn nơi con người: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy
lễ.”
2/ Phúc Âm: Hai thái độ khi cầu nguyện
Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Con
người cần biết Thiên Chúa là ai và những gì Thiên Chúa thích; đồng thời con
người cũng cần biết mình là ai và những gì mình ao ước. Vì thế, cần chuẩn bị
tâm hồn và có thái độ xứng đáng trước khi cầu nguyện. Để dẫn chứng thái độ
thích đáng khi cầu nguyện, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào
cho mình là công chính mà khinh chê người khác:
(1) Thái độ của người Pharisee: Người Pharisee đứng
thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như
bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn
chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Có
nhiều điều sai trong cách cầu nguyện này: Hành vi bên ngòai biểu lộ tâm hồn bên
trong. Cách đứng thẳng biểu lộ ông cho mình là công chính; và nếu ông đã công
chính, ông đâu cần đến Thiên Chúa. Lời nói của ông cũng xác tín điều này, ông
so sánh mình với những lọai người tội lỗi, và nhận thấy ông quá tốt lành.
(2) Thái độ của người thu thuế: Còn người thu
thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm
ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Ông nhận ra Thiên Chúa là ai và ông là ai. Hành động và lời nói của ông chứng
tỏ ông là người tội lỗi và đang cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông
biết ông không cần phải nói nhiều vì Thiên Chúa đã thông suốt cả.
(3) Hậu quả của cuộc cầu nguyện là mục đích mà
cả hai người cùng nhắm tới: Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người
này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì
không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên." Người thu thuế đạt được mục đích, người Biệt-phái đã không đạt được
đích, lại còn lãnh thêm tội vào mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần cố gắng học biết về Thiên Chúa
để có thể sống đúng đắn mối liên hệ với Ngài; đồng thời sự hiểu biết sẽ giúp
chúng ta nhận ra những gì Ngài đã làm cho chúng ta, và sẽ giúp chúng ta yêu
Ngài hơn.
- Thiên Chúa sửa phạt vì yêu thương. Chúng ta
cần vượt qua tính tự ái và kiêu ngạo để nhận ra tội lỗi đã xúc phạm, và ăn năn
trở lại cùng Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thánh Phanxica Rôma, nữ tu
Lc 18, 9 - 14
1 Ghi nhớ: Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống
2 Suy niệm: Một hôm, chiếc giẻ gọi các vật khác đến và bắt đầu lớn giọng: Các anh biết công trạng của tôi lớn thế nào không ? Nhờ tôi mà các anh được sạch, được khô, được sáng được...Các vật khác chỉ biết cúi đầu thán phục.Nhưng một ngày nọ, chủ nhà đem ném chiếc giẻ vào sọt rác vì.... quá bẩn !
Những kẻ chỉ biết khoe công trạng mình cũng thế. Họ có thể có công lao không thể chối cãi, nhưng nếu không chấp nhận sự thật rằng: mình cũng có những khiếm khuyết, cũng cần phải sửa đổi để trở nên tốt hơn, hữu dụng hơn thì cuối cùng sẽ bị loại trừ.Chỉ những ai nhận ra yếu đuối lỗi lầm của mình mà cố gắng tẩy trừ thì mới mong có ngày được đón nhận.
3 Sống Lời Chúa : Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên
4 Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để tính kiêu căng khoác lác làm mờ mắt con.
09/03/13 THỨ BẢY TUẦN 3 MC
Th. Phanxica Rôma, nữ tu
Lc 18,9-14
Th. Phanxica Rôma, nữ tu
Lc 18,9-14
HÃY
TỰ HÀO TRONG CHÚA
“Người
Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng :’Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con
không như bao kẻ khác . . . Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một
phần mười thu nhập của con.’ Còn người thu thuế đứng từ đằng xa, vừa đấm ngực,
vừa thưa rằng :’Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.” (Lc 18,11-13)
Suy niệm: Thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu kể dụ
ngôn này nhắm đến những người tự hào cho mình là người công chính mà khinh
chê người khác. Ông Pharisêu ấy nghĩ rằng, ông được nên công chính nhờ
những việc ông làm, nên sinh ra kiêu ngạo mà coi khinh người khác (c.11). Nhưng
ông quên rằng con đường đích thực để nên công chính không phải là nhờ công
trạng của ông mà là nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa. Con đường này được Thiên
Chúa vạch ra và hoàn thành qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Người
ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô”
(Rm 3,22). Thế nên Chúa Giêsu khẳng định: người thu thuế, khi trở xuống mà
về nhà, thì được nên công chính; còn người Pharisêu thì không (c.14).
Mời Bạn:
Thánh Giacôbê bảo: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc
2,17). Việc làm ở đây không phải là điều kiện để được nên công chính,
mà là hoa trái trổ của ơn công chính đó, là dấu hiệu của đức tin đang
sống sung mãn. Vì thế, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Nếu ai tự hào
thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31).
Sống Lời Chúa:
Mỗi ngày dành thời gian xét mình xem: những việc tôi làm có phải là hoa trái
của đức tin mình đã lãnh nhận hay không.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
TỰ HÀO VÀ KHINH NGƯỜI
Không cần Thiên Chúa
và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở. Nên thánh không phải là chuyện
“tôi làm” mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi
Suy niệm:
Tự hào về sự đạo đức của mình và
khinh người khác, Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa. Đó là
chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn
này cho mình trong Mùa Chay thánh. Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau
trong dụ ngôn. Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan
Chúa. Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi. Nghe
lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ. Người Pharisêu không xin gì
cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa. Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm
như bao kẻ khác, hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c.
11). Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng mà ông đã
làm vượt quá những gì Luật đòi buộc. Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người
Do Thái tử tế phải thèm. Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu
xin cách đơn sơ : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ. Kết luận
của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng. Người thu thuế được Thiên Chúa
làm cho nên công chính, còn người Pharisêu thì không (c. 14). Thiên Chúa có bất
công không ? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không ? Thật ra, ông Pharisêu không
được gì vì ông đã không xin gì. Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về
mặt đạo đức. Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình. Có bao
nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông. Chúng ta tưởng ông mở ra khi
nói “con tạ ơn Thiên Chúa” nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm
nghía vẻ đẹp của mình. Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người
ông đến đòi nợ. Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay
trắng, lỗi tội.Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa. Ngài đã nghe
tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ. Không cần Thiên Chúa và coi thường
tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở. Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm” mà
là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi. Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của
mình, lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc
lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên
cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và
bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con
cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con
đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Người
thu thuế ra về được khỏi tội".
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên Tháng Ba
9
THÁNG BA
Trở Về
Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha
Thánh
Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài,
Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc
giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công
cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi
Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng
trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức
Kitô.
Trong
Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng
ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi công
bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là sứ
giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.
Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”
(2Cr 5,20).
Sứ
vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người
trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng
này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc
tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng,
hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11, số 7) cho thấy,
“Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của mình về công
cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng nơi Đức Kitô
Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời cũng như dưới
đất” (Cl 1,20).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Ngày
09-3
Thánh
Phanxica Rôma, nữ tu
Hs
6, 1-6; Lc 18, 9-14
LỜI
SUY NIỆM: Khi đứng trước những con người tự cho minh là người công chính mà
khinh chê người khác. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện hai người lên Đền Thờ cầu
nguyện một người đứng kể công với Chúa và một người sấp mình đấm ngưc xin lòng
hương xót của Chúa và Ngài đã kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: người này,
khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không.
Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
(Lc 18,14).
Điều
này giúp chúng ta khi cầu nguyện phải biết đặt đời sống mình bên cạnh của Chúa;
không những chỉ có thế, mà còn phải trình bày những nhu cầu của người thân cận.
Luôn ý thức, tất cả con người khi đến với
Chúa đều là tội nhân và bất xứng. Chúng ta chỉ biết quỳ gối, đấm ngực
mình kêu cầu lòng thương xót của Chúa để Ngài tha thứ, hầu trở nên xứng đáng
đón nhận những ân sủng của Ngài. Điều này, trong mọi Thánh lễ đều có nhắc cho
chúng ta, phải đấm ngực mình để sám hối: trước khi vào Thánh lễ; trước khi đón
nhận Lời Chúa và trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
09-03
Thánh
PHANCICA RÔMANA
Nữ
tu (1384 - 1440)
Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở
Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã
thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng
tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di
Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã
hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của
mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang
thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza,
người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm
trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp
đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận
dữ.
Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời: -
Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn
trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để
các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy
Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta
tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất,
lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện.
Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề
giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho
biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một
ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù
khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ
cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một
lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm
quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để
chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào
thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ
người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại
trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một
phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để
cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán
mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt
hơn.
Khi chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị
trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong
việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết
phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị
giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu.
Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường
lại nói:- Con làm gì thế ? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà
thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan
địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị
xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình,
Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista
ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì
này thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con
hiện ra báo tin mình đang ở giữa các thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa
em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn
đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ
cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp
phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài
hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng
liêng của vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc
giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một
nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng
những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ:
"Con hiến mình" thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở
lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài
tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ,
Ngài xin nhập dòng.
Gioan tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về
thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây
quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ
tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu
các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên
thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo
trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và trở nên góa bụa.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
09
Tháng Ba
"Hãy Làm Một Cái Gì
Ðẹp Cho Chúa"
Mẹ Têrêxa Calcutta
thường hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Sau tên cực
trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi chót lưỡi của Mẹ là
"tốt đẹp và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn của bài ca ngợi
khen của Ðức Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt đẹp và kỳ
diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy sinh và phục
vụ của Mẹ dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế giới...
Cách đây hơn 15 năm,
Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của đài BBC, đã cùng
với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng vấn về Mẹ
Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt xén và tháo
ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy làm tựa
đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại cuộc
phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu trên
đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm
chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta . Tốt đẹp và kỳ diệu thay! Khuôn mặt
đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được
thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Ngày nay, khi đi qua
một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc được bảng hiệu:
"Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy làm đẹp thành
phố". Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua đường về nghĩa
vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và đẹp đẽ.
Mỗi
người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ
thơm và làm sạch cho thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác
rưởi của những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt
đẹp và kỳ diệu để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy làm một cái
gì tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người Kitô thốt
lên khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy làm một cái
gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh trong những
công việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy
sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy làm một cái
gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng tha thứ
cho những người xúc phạm đến mình.
"Hãy làm một cái
gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy lạc quan và
vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...
(Lẽ Sống)
9-3
Thánh Frances ở Rôma
(1384 - 1440)
Ð
|
Sinh trong một gia đình giàu có, ngay từ thời niên thiếu
Khi bắt đầu quen biết với họ hàng nhà chồng,
Nhiều năm trôi qua, bà
Càng ngày bà
Khi tổ chức đã được thành lập, bà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét