Trang

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

09-03-2013 : THỨ BẢY TUẦN III MÙA CHAY


Thứ Bảy Ngày 09/03/2013
\Tuần III Mùa Chay Năm C


BÀI ĐỌC I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".

 Trích sách Tiên tri Hôsê.
Đây Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm Ta. "Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. Đó là lời Chúa.

 ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab

Đáp: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Đáp.
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những hy sinh với lễ toàn thiêu. - Đáp.

 CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

 PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Người Thu Thuế Ra Về Ðược Khỏi Tội

Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: "Nơi Thiên Chúa khóc". Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Ðông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:
Tôi cùng với một số người Ðức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.
Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.

Anh chị em thân mến!

Lời cầu nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách "Ðường Hy Vọng":
Dù con có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.
Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: "Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình..." Ðó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con vững tâm: "Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con".
Vậy, tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Ðức Mẹ và các thánh không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: "Phêrô, Madalena, Simon phong cùi, Giakêu... Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu thuế và người tội lỗi".
Quyền năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.
Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần III MC


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải biết Thiên Chúa và biết mình

Để dễ sống hòa hợp với người khác, chúng ta cần biết họ là ai và mình là ai, tương quan của chúng ta với họ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng ta với họ, những gì họ thích, không thích… Tương tự như vậy khi chúng ta đến với Thiên Chúa, chúng ta cần phải biết Thiên Chúa là ai và mình là ai, điều khác biệt giữa Thiên Chúa và mình; những gì Ngài thích hay không thích. Có như vậy, mối liên hệ hai bên mới tốt đẹp, tránh những gì làm phiền lòng nhau, và gặt hái được những kết quả mong muốn.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người sống mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, con người tưởng có thể qua mặt Thiên Chúa bằng lối sống hời hợt bên ngòai như dâng các lễ vật hy sinh để đền bù tội lỗi, rồi sau đó cứ tha hồ phạm tội. Con người có biết đâu Thiên Chúa thấu suốt tâm can, Ngài đâu cần những lễ vật vì mọi sự trong trời đất thuộc quyền của Ngài. Điều Thiên Chúa muốn, Ngài tỏ cho con người biết rõ ràng: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Trong Phúc Âm, hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người Biệt-phái và một người thu thuế. Người Biệt-phái tưởng Thiên Chúa không có trí nhớ, nên ông nhắc lại cho Ngài nhớ những việc ông đã làm; tưởng Thiên Chúa không đủ khôn ngoan nên ông giúp Chúa bằng cách so sánh giữa cuộc sống của ông với của người thu thuế. Còn người thu thuế biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự nên chỉ biết đấm ngực ăn năn: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Hậu quả được Chúa Giêsu tuyên bố: “người thu thuế, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Biệt-phái thì không.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa muốn tình yêu và được con người nhận biết.

1.1/ Lợi ích của hình phạt: Hình phạt không cần thiết cho những người con luôn biết nghe lời cha mẹ; nhưng kinh nghiệm thực tế cho thấy, con cái không luôn biết vâng lời cha mẹ vì ham chơi, nên phải có hình phạt để sửa dạy. Hình phạt được ví như thuốc thang cho người bệnh, tuy đắng khi vào miệng, nhưng sẽ mang lại sức khỏe cho họ. Trường hợp của dân tộc Israel cũng thế, Thiên Chúa dạy dỗ họ nhiều điều; nhưng họ không chịu nghe và tuân giữ; nên như một người Cha, Thiên Chúa phải sửa phạt bằng cách cho họ chịu đau khổ, để giúp họ trở nên tốt hơn.
(1) Sửa phạt rồi lại xót thương: Sửa phạt con cái là vì thương, chứ không phải vì ghét bỏ, như lời tục ngữ Việt-nam: “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.” Làm cha mẹ mà không chịu giáo dục con cái là đẩy chúng tới cõi chết. Con cái buồn sầu và tức giận khi bị sửa phạt, nhưng sau khi hồi tâm suy nghĩ, chúng sẽ nhận ra lỗi lầm của chúng và nhận ra tình thương của cha mẹ. Israel cũng thế, họ nhận ra tội của họ và tình thương Thiên Chúa trong Thời Lưu Đày và khuyến khích nhau: “Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương.”
(2) Làm cho chết rồi lại làm cho sống: “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người.” Chủ đề được lãnh nhận ơn cứu độ trong ngày thứ ba xảy ra thường xuyên trong Cựu Ước (x/c Gen 42:18, Exo 19:10-11, Jos 3:2, Hos 6:2, Jon 2:1, Ezr 8:15, Est 5:1, Luk 13:32). Chúa Jesus xác tín niềm tin này bằng cách sống lại vinh hiển từ cõi chết trong ngày thứ ba.

1.2/ Hai điều căn bản Thiên Chúa muốn nơi con người:
(1) Phải ra sức học biết Thiên Chúa: Con người thường biếu quà cáp quí giá cho cha mẹ, vì họ nghĩ cha mẹ sẽ hài lòng vì những quà tặng này. Nhưng điều cha mẹ hài lòng hơn là con cái phải biết giữ đạo, yêu thương cha mẹ, và ăn ở hòa thuận với mọi người. Tiên tri Hosea dạy: “Chúng ta phải biết Đức Chúa, phải ra sức nhận biết Người; như hừng đông mỗi ngày xuất hiện, chắc chắn thế nào Người cũng đến. Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai." Phải học biết Thiên Chúa thì con người mới biết Thiên Chúa muốn gì, trước khi con người có thể làm đẹp lòng Ngài. Không học biết về Thiên Chúa, con người không thể làm đẹp lòng Ngài. Chính Thiên Chúa xác nhận: “Ta thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.”
(2) Phải hết sức yêu mến Người: Thiên Chúa yêu mến con người, đó là lý do duy nhất Ngài dựng nên, dạy dỗ, và chuẩn bị mọi sự cho con người. Một điều duy nhất con người có thể trả ơn Thiên Chúa là yêu mến và vâng nghe những gì Ngài dạy. Không một thứ quà cáp nào thay thế được tình yêu mà Thiên Chúa mong muốn nơi con người: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ.”

2/ Phúc Âm: Hai thái độ khi cầu nguyện

Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Con người cần biết Thiên Chúa là ai và những gì Thiên Chúa thích; đồng thời con người cũng cần biết mình là ai và những gì mình ao ước. Vì thế, cần chuẩn bị tâm hồn và có thái độ xứng đáng trước khi cầu nguyện. Để dẫn chứng thái độ thích đáng khi cầu nguyện, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:

(1) Thái độ của người Pharisee: Người Pharisee đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Có nhiều điều sai trong cách cầu nguyện này: Hành vi bên ngòai biểu lộ tâm hồn bên trong. Cách đứng thẳng biểu lộ ông cho mình là công chính; và nếu ông đã công chính, ông đâu cần đến Thiên Chúa. Lời nói của ông cũng xác tín điều này, ông so sánh mình với những lọai người tội lỗi, và nhận thấy ông quá tốt lành.

(2) Thái độ của người thu thuế: Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông nhận ra Thiên Chúa là ai và ông là ai. Hành động và lời nói của ông chứng tỏ ông là người tội lỗi và đang cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông biết ông không cần phải nói nhiều vì Thiên Chúa đã thông suốt cả.

(3) Hậu quả của cuộc cầu nguyện là mục đích mà cả hai người cùng nhắm tới: Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Người thu thuế đạt được mục đích, người Biệt-phái đã không đạt được đích, lại còn lãnh thêm tội vào mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần cố gắng học biết về Thiên Chúa để có thể sống đúng đắn mối liên hệ với Ngài; đồng thời sự hiểu biết sẽ giúp chúng ta nhận ra những gì Ngài đã làm cho chúng ta, và sẽ giúp chúng ta yêu Ngài hơn.
- Thiên Chúa sửa phạt vì yêu thương. Chúng ta cần vượt qua tính tự ái và kiêu ngạo để nhận ra tội lỗi đã xúc phạm, và ăn năn trở lại cùng Ngài.

 Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


THỨ BẢY TUẦN III MÙA CHAY
Thánh Phanxica Rôma, nữ tu
Lc 18, 9 - 14

1 Ghi nhớ: Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống

2 Suy niệm:  Một hôm, chiếc giẻ gọi các vật khác đến và bắt đầu lớn giọng: Các anh biết công trạng của tôi lớn thế nào không ? Nhờ tôi mà các anh  được sạch, được khô, được sáng được...Các vật khác chỉ biết cúi đầu thán phục.Nhưng một ngày nọ, chủ nhà đem ném chiếc giẻ vào sọt rác vì.... quá bẩn !

Những kẻ chỉ biết khoe công trạng mình cũng thế. Họ có thể có công lao không thể chối cãi, nhưng nếu không chấp nhận sự thật rằng:  mình cũng có những khiếm khuyết, cũng cần phải sửa đổi để trở nên tốt hơn, hữu dụng hơn thì cuối cùng sẽ bị loại trừ.Chỉ những ai nhận ra yếu đuối lỗi lầm của mình mà cố gắng tẩy trừ thì mới mong có ngày được đón nhận.

3 Sống Lời Chúa :  Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên

4 Cầu nguyện:  Lạy Chúa, xin đừng để tính kiêu căng khoác lác làm mờ mắt con.


09/03/13 THỨ BẢY TUẦN 3 MC
Th. Phanxica Rôma, nữ tu
Lc 18,9-14

HÃY TỰ HÀO TRONG CHÚA
“Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng :’Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác . . . Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ Còn người thu thuế đứng từ đằng xa, vừa đấm ngực, vừa thưa rằng :’Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.” (Lc 18,11-13)
Suy niệm: Thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu kể dụ ngôn này nhắm đến những người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác. Ông Pharisêu ấy nghĩ rằng, ông được nên công chính nhờ những việc ông làm, nên sinh ra kiêu ngạo mà coi khinh người khác (c.11). Nhưng ông quên rằng con đường đích thực để nên công chính không phải là nhờ công trạng của ông mà là nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa. Con đường này được Thiên Chúa vạch ra và hoàn thành qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô” (Rm 3,22). Thế nên Chúa Giêsu khẳng định: người thu thuế, khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính; còn người Pharisêu thì không (c.14).
Mời Bạn: Thánh Giacôbê bảo: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm ở đây không phải là điều kiện để được nên công chính, mà là hoa trái trổ của ơn công chính đó, là dấu hiệu của đức tin đang sống sung mãn. Vì thế, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Nếu ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31).
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành thời gian xét mình xem: những việc tôi làm có phải là hoa trái của đức tin mình đã lãnh nhận hay không.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.

TỰ HÀO VÀ KHINH NGƯỜI
Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở. Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm” mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi
Suy nim:

Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác, Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa. Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh. Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn. Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa. Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi. Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ. Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa. Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác, hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11). Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc. Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm. Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13). Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ. Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng. Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính, còn người Pharisêu thì không (c. 14). Thiên Chúa có bất công không ? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không ? Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì. Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức. Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình. Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông. Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa” nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình. Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ. Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa. Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ. Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở. Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm” mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi. Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình, lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".


Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba
9 THÁNG BA

Trở Về Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha

Thánh Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài, Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).

Cuộc giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô.

Trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20).

Sứ vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc tha thứ các tội lỗi của họ.

Nhưng, hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11, số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời cũng như dưới đất” (Cl 1,20).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 09-3
Thánh Phanxica Rôma, nữ tu

Hs 6, 1-6; Lc 18, 9-14


LỜI SUY NIỆM: Khi đứng trước những con người tự cho minh là người công chính mà khinh chê người khác. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện hai người lên Đền Thờ cầu nguyện một người đứng kể công với Chúa và một người sấp mình đấm ngưc xin lòng hương xót của Chúa và Ngài đã kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).

Điều này giúp chúng ta khi cầu nguyện phải biết đặt đời sống mình bên cạnh của Chúa; không những chỉ có thế, mà còn phải trình bày những nhu cầu của người thân cận. Luôn ý thức, tất cả con người khi đến với  Chúa đều là tội nhân và bất xứng. Chúng ta chỉ biết quỳ gối, đấm ngực mình kêu cầu lòng thương xót của Chúa để Ngài tha thứ, hầu trở nên xứng đáng đón nhận những ân sủng của Ngài. Điều này, trong mọi Thánh lễ đều có nhắc cho chúng ta, phải đấm ngực mình để sám hối: trước khi vào Thánh lễ; trước khi đón nhận Lời Chúa và trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa.

Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân

Ngày 09-03

Thánh PHANCICA RÔMANA
Nữ tu (1384 - 1440)


Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu.
Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:- Con làm gì thế ? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: "Con hiến mình" thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và trở nên góa bụa.

(Daminhvn.net)

++++++++++++++++++

09 Tháng Ba

"Hãy Làm Một Cái Gì Ðẹp Cho Chúa"

Mẹ Têrêxa Calcutta thường hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Sau tên cực trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn của bài ca ngợi khen của Ðức Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt đẹp và kỳ diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy sinh và phục vụ của Mẹ dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế giới...
Cách đây hơn 15 năm, Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của đài BBC, đã cùng với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng vấn về Mẹ Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt xén và tháo ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy làm tựa đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại cuộc phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu trên đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta. Tốt đẹp và kỳ diệu thay! Khuôn mặt đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Ngày nay, khi đi qua một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc được bảng hiệu: "Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy làm đẹp thành phố". Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua đường về nghĩa vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và đẹp đẽ.

Mỗi người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ thơm và làm sạch cho thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác rưởi của những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt đẹp và kỳ diệu để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người Kitô thốt lên khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh trong những công việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy lạc quan và vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...

(Lẽ Sống)
9-3

Thánh Frances ở Rôma

(1384 - 1440)

Ð
ời sống Thánh Frances bao gồm các khía cạnh của đời thường và đời tu trì. Là một người nội trợ tận tụy và duyên dáng, ngài ước ao một đời sống cầu nguyện và phục vụ, do đó ngài tổ chức một nhóm phụ nữ để chăm sóc người nghèo ở Rôma.
Sinh trong một gia đình giàu có, ngay từ thời niên thiếu Frances đã cảm thấy mình yêu mến đời sống tu trì. Nhưng cha mẹ ngài chống đối và một thanh niên quý tộc đã được chọn để làm vị hôn phu.
Khi bắt đầu quen biết với họ hàng nhà chồng, Frances khám phá rằng cô em dâu của mình cũng ước ao một đời sống phục vụ và cầu nguyện. Do đó, cả hai người, Frances và Vannozza, với sự ưng thuận của các ông chồng, họ bắt đầu luyện tập đời sống tâm linh bằng cách siêng năng tham dự Thánh Lễ, thăm viếng kẻ tù đầy, phục vụ trong các bệnh viện, giúp đỡ người nghèo và thành lập một nhà nguyện bí mật trong ngôi tháp bỏ hoang để cùng nhau cầu nguyện.
Nhiều năm trôi qua, bà Frances sinh hạ hai trai và một gái. Với trách nhiệm của một đời sống gia đình, bà đã dành nhiều thời giờ để lo cho chồng con. Gia đình bà trở nên phát đạt dưới sự quán xuyến của bà, nhưng chỉ được vài năm, trận dịch hạch đã càn quét cả nước Ý và cướp đi đứa con trai thứ hai của bà. Ðể giúp vơi bớt đau khổ của các nạn nhân trận dịch, bà dùng tiền của và tài sản để cung ứng cho các nhu cầu của bệnh nhân. Khi mọi nguồn tài chánh đều cạn kiệt, bà Frances và Vannozza đã đi xin từng nhà. Về sau, khi cô con gái qua đời, bà Frances đã biến một phần căn nhà thành bệnh viện.
Càng ngày bà Frances càng tin tưởng rằng một đời sống cho tha nhân thì cần thiết cho thế gian. Với sự hậu thuẫn của đức lang quân, bà Frances bắt đầu thành lập một tổ chức xã hội dành cho các phụ nữ, được gọi là Hiến Sĩ của Ðức Maria (không có lời khấn). Họ chỉ dâng mình cho Chúa và cho sự phục vụ người nghèo.
Khi tổ chức đã được thành lập, bà Frances không sống trong cơ sở của cộng đoàn mà sống ở nhà với chồng trong bảy năm. Cho đến khi người chồng từ trần, bà sống quãng đời còn lại với cộng đoàn để phục vụ những người bần cùng trong xã hội.

Lời Bàn

Nhìn vào đời sống gương mẫu -- trung tín với Thiên Chúa và tận tụy với tha nhân -- của Thánh Frances nhắc chúng ta nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Ngài nhìn thấy Ðức Giêsu Kitô trong lời cầu nguyện cũng như trong người nghèo. Cuộc đời của Thánh Frances mời gọi chúng ta đừng chỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, mà hãy tận tụy với Ðức Kitô đang sống động trong sự đau khổ của thế giới. Thánh Frances cho chúng ta thấy, một cuộc đời vì tha nhân không nhất thiết chỉ gò bó trong những giới hạn của lời khấn.

Lời Trích

Mẹ Têrêsa có lần nói về người nữ tu trong cộng đoàn của ngài: "Hãy để Ðức Kitô toả sáng và sống động trong và qua người nữ tu khi họ đến các khu tồi tàn. Hãy giúp người nghèo mỗi khi nhìn thấy các nữ tu thì họ được thu hút đến Ðức Kitô và mời Ngài vào trong nhà họ và cuộc đời họ." Thánh Frances ở Rôma nói: "Một phụ nữ đã lập gia đình mà còn đạo đức thì thật đáng khen ngợi, nhưng họ đừng bao giờ quên rằng mình là người nội trợ. Và đôi khi, họ phải để Thiên Chúa ở bàn thờ mà về với ông chồng trong công việc hàng ngày."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét