Trang

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

KINH LẠY CHA CỦA LINH MỤC TRONG NĂM ĐỨC TIN


KINH LẠY CHA CỦA LINH MỤC TRONG NĂM ĐỨC TIN


Lời mở đầu


 Với tự sắc Porta fidei được ban hành vào ngày 11 tháng 10 năm 2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố việc cử hành Năm Đức Tin trong toàn thể Giáo Hội bắt đầu từ ngày 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng chung Vaticanô II, đồng thời cũng kỷ niệm 20 năm Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo.[1]

“Để hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo một trợ lực quí giá và không thể thiếu được. Sách này là một trong những thành quả quan trọng nhất của công đồng chung Vaticanô II... Năm Đức Tin phải biểu lộ sự dấn thân chung tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức tin ở trong Sách Giáo lý này, trong đó có một tổng hợp có hệ thống”.[2]

“Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin, nhất là những người quan tâm đến việc huấn luyện các tín hữu Kitô, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay”.[3]

Tự sắc Porta fidei được mở đầu như sau: “Cửa đức tin (x. Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa... Việc bước qua cửa ấy kèm theo sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu với bí tích rửa tội (x. Rm 6,4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha”.[4] Trong thư gửi các tín hữu Êphêxô, thánh Phaolô đã viết: “Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,5-6).

Vì thế, thật là thích hợp khi chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin bằng việc suy niệm kinh Lạy Cha, lời kinh của mọi Kitô hữu nói chung và của các linh mục nói riêng. Đó chính là lời kinh đi liền với kinh Tin Kính trong suốt Năm Đức Tin này, đặc biệt trong những cử hành phụng vụ và những cuộc hành hương. Cả hai kinh đều bắt đầu bằng lời tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Thánh Augustinô đã nói: “Dù chúng ta có đọc lời nào khác – những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng – chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp”.[5]

Chúng ta sẽ cùng nhau suy niệm lời kinh này dưới ánh sáng của công đồng Vaticanô II và Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo là hai nội dung chính của việc học hỏi và đào sâu đức tin trong Năm Đức Tin.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi


-------------------------------------------------------------------------------------


KINH LẠY CHA CỦA LINH MỤC TRONG NĂM ĐỨC TIN

Lời nguyện thứ I

“Lạy Cha chúng con ở trên trời,

chúng con nguyện danh Cha cả sáng”


“Lời nguyện đầu tiên này bao gồm tất cả các lời cầu xin khác, được đoái nhận nhờ lời cầu nguyện của Chúa Kitô, cũng như sáu lời cầu xin tiếp theo. Lời kinh dâng lên Chúa Cha là lời cầu nguyện của chúng ta, nếu được cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu (x. Ga 14,13; 15,16; 16,24.26). Chúa Giêsu đã cầu xin trong lời nguyện tư tế của Người: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha những người mà Cha đã ban cho con” (Ga 17,11)”.[6]

1. TIN VÀO DANH THIÊN CHÚA

Kinh Lạy Cha mở đầu bằng lời nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng”. “Trong các lời mạc khải, lời mạc khải về danh Thiên Chúa chiếm vị trí hàng đầu. Thiên Chúa bày tỏ danh Người cho những kẻ tin, mạc khải cho họ chính mầu nhiệm bản thân Người”.[7]

Việc Thiên Chúa mạc khải tên của Người là YHWH cho ông Môsê trên núi Khôrép ở bán đảo Xinai (x. Xh 3,13-15) có thể được coi như thời điểm trang trọng nhất trong toàn bộ lịch sử đức tin của dân Israel, là đỉnh cao của mạc khải Cựu Ước. Trước đó, Thiên Chúa chỉ được biết đến như là Thiên Chúa của các tổ phụ, Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp.

Danh xưng YHWH, “Ta là Đấng Ta là”, hàm chứa một mầu nhiệm và tự nó nói lên một cái gì con người không thể đạt tới được bằng lý trí và mời gọi con người đón nhận bằng đức tin. Tính cách huyền nhiệm của danh xưng này nói lên sự thánh thiện của Thiên Chúa, tức là siêu việt tính của Người. Thiên Chúa là Thánh (x. Is 6,3) và danh Người là thánh (x. Am 2,7; Lv 20,3; Is 57,15t). Nhưng danh xưng ấy cũng nói lên một sự hiện diện đầy ân cần, gần gũi và vô cùng sống động, vì theo cú pháp Hi-pri, “Ta là Đấng Ta là” cũng có nghĩa là “Ta là Đấng đang là”, hay “Ta là Đấng Hiện Hữu”, không phải hiện hữu cách đơn độc, nhưng hiện hữu giữa dân Người. Và do đó, “Ta là Đấng Hiện Hữu” cũng có nghĩa là “Ta là Đấng Hiện Diện”.

Mạc khải danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Hiện Hữu” tại bụi gai bốc cháy trên núi Khôrép đã được lặp lại trong bụi gai bốc cháy của thập giá trên núi Sọ, như Chúa Giêsu đã nói với người Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28).

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ biết tiếng diễn đạt hữu thể Thiên Chúa sâu sắc nhất là tiếng “Cha”. Người Cha ấy mà Chúa Giêsu là con (x. Mt 11,25-27) cũng rộng mở tình phụ tử của Người trên tất cả những ai tin vào Con của Người (x. Ga 20,17), như lời Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha” (x. Ga 17,6). Như thế, danh xưng “Ta là Đấng Hiện Diện” đã tìm thấy lối diễn tả vừa gọn gàng vừa dễ hiểu trong danh xưng Cha. Đó là đỉnh cao và mức độ hoàn hảo nhất của mạc khải về danh Thiên Chúa.

Bởi vì “Cha” là danh xưng của Thiên Chúa được mạc khải cuối cùng, nên tất cả những tên gọi khác chỉ có thể được dùng và được tôn kính trong mức độ chúng gợi hứng cho những tâm tình có liên quan đến danh xưng “Cha”, tức là tâm tình tôn kính và yêu mến. Danh thánh của Thiên Chúa được mạc khải cuối cùng và trọn vẹn nhất bởi chính Con của Người là danh “Cha”. Vì thế câu xưng hô đầu tiên của kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” gắn liền với cả 7 lời nguyện, nhưng cách đặc biệt với lời cầu nguyện đầu tiên: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng”.

Mạc khải danh Thiên Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước là việc Thiên Chúa tự trao ban chính Người cho con người và Người muốn con người đáp trả bằng đức tin. Tin vào danh Thiên Chúa tức là tin vào chính Người, vì tên chính là người. Khi mạc khải thánh danh YHWH, “Ta là Đấng Hiện Hữu”, “Ta là Đấng Hiện Diện”, Thiên Chúa muốn mời gọi ông Môsê tin vào danh Người là Đấng đang hiện diện với dân Người trong cơn đau khổ, để ông có thể nâng đỡ đức tin của dân và lãnh đạo dân. Ông đã tin và đã nhận lãnh sứ mạng. Đó cũng là niềm tin mà các linh mục phải có để lãnh đạo dân Chúa. Là những con người yếu đuối như Môsê, các linh mục cũng được mời gọi đặt trọn vẹn niềm tin vào danh Thiên Chúa và tin vào sự hiện diện gần gũi của Người, để có thể vững vàng trong việc lãnh đạo dân Người vượt qua mọi khó khăn thử thách.

Hình ảnh Đavit trong trận chiến chống lại Gôliat (x. 1Sm 17,32-54) cũng phải được tìm thấy nơi các linh mục, những người không cậy dựa vào sức mạnh nào khác ngoài thánh danh Thiên Chúa để lãnh đạo cuộc chiến chống lại tên thù địch khổng lồ là ma quỉ.

2. TÔN VINH DANH THIÊN CHÚA

Tên là để giúp chúng ta có thể gọi một ai đó. Như thế tên đóng vai trò quan trọng để tạo nên mối tương quan. Khi Ađam đặt tên cho thú vật thì không chỉ có nghĩa là để nói lên bản chất của chúng, mà còn để đưa chúng vào tương quan với con người.

Thiên Chúa cũng muốn xây dựng mối tương quan với chúng ta, khi ban cho chúng ta danh thánh Người. Người cho phép chúng ta bước vào tương quan với Người. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa sẵn sàng trao ban chính mình cho nhân loại. Khi chấp nhận bước vào tương quan với con người, Thiên Chúa sẵn sàng đi vào một cuộc phiêu lưu.

Thiên Chúa càng trao ban chính mình cho con người, thì con người càng có thể làm cho ánh sáng Chúa bị lu mờ đi. Thiên Chúa càng gần con người chừng nào, thì những hành động xấu xa của con người càng dễ làm cho khuôn mặt của Chúa mờ nhạt đi, và càng dễ xúc phạm đến danh thánh của Chúa.

Từ đó chúng ta có thể hiểu “nguyện danh Cha cả sáng” có nghĩa là gì. Bây giờ danh Thiên Chúa có thể bị lạm dụng và chính Thiên Chúa cũng có thể bị bôi nhọ. Vì tội lỗi của dân Israel mà danh thánh Chúa bị dân ngoại xúc phạm. Vì thế Người đã phán: “Ta sẽ làm cho danh thánh Ta được nhận biết giữa dân Ta và sẽ không để cho danh thánh của Ta bị xúc phạm nữa. Bấy giờ các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Đấng Thánh của Israel” (Ed 39,7).

Chúa Giêsu nguyện xin Chúa Cha tôn vinh danh Người (x. Ga 12,18) và mời gọi các môn đệ xin Người thánh hóa tên ấy: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng”. Đây là lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người dâng lên giữa lòng một thế giới đen tối, độc ác, xấu xa. Trong bóng đêm của cuộc đời, lời cầu xin cho chúng ta thấy rằng chỉ có Thiên Chúa là công chính, chỉ có Cha trên trời là thánh và là nguồn ánh sáng chiếu soi và sưởi ấm cuộc đời này.

Qua lời cầu xin này chúng ta xin Thiên Chúa tái lập căn tính đích thực của Người khỏi những méo mó do chúng ta gây nên. Lời cầu xin này đòi hỏi chúng ta phải tự vấn lương tâm: tôi đã sống với danh Thiên Chúa như thế nào?

Chúng ta có thể góp phần làm cho danh Cha trên trời được vinh hiển, khi chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cứu độ của Người. Hơn nữa, danh thánh của Thiên Chúa đặc biệt được vinh hiển qua chính cuộc sống thánh thiện của chúng ta.

3. LINH MỤC VÀ SỰ THÁNH THIỆN

“Chúng ta cầu xin để danh Thiên Chúa được thánh hóa trong chúng ta bằng hành động của chúng ta. Bởi vì nếu chúng ta sống tốt lành thì danh Thiên Chúa được chúc tụng; nếu chúng ta sống tệ hại thì danh Người bị phỉ báng...Vì vậy chúng ta cầu xin để danh Thiên Chúa là thánh bao nhiêu, thì chúng ta sống xứng đáng với sự thánh thiện của Người bấy nhiêu”.[8] Thánh thiện trước hết là ơn gọi của mọi Kitô hữu là những người đã được thánh hiến cho Chúa qua bí tích rửa tội.

Trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ”.[9]

Nếu sự thánh thiện nơi các Kitô hữu là điều cần thiết để cho danh Cha cả sáng trước mặt mọi người, thì các linh mục càng phải sống thánh thiện hơn nữa. Công đồng Vaticanô đã dạy: “Các chủ chăn coi sóc đoàn chiên Chúa Kitô phải là những người đầu tiên chu toàn thừa tác vụ của mình cách thánh thiện và hăng say, khiêm tốn và can đảm, noi gương vị Thượng Tế vĩnh cửu, vị Chủ Chăn và Giám Mục chăm sóc linh hồn chúng ta: làm như thế các ngài sẽ tìm thấy nơi thừa tác vụ của mình một phương thế tuyệt diệu để thánh hóa”.[10]

“Đành rằng ngay từ khi được thánh hiến nhờ phép rửa tội, như mọi Kitô hữu, các ngài đã lãnh nhận dấu tích và ân huệ của cả ơn gọi lẫn ơn sủng, để các ngài có thể và phải theo đuổi sự hoàn thiện. Nhưng các linh mục còn có lý do đặc biệt phải đạt tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận chức thánh là các ngài được thánh hiến cho Thiên Chúa theo một cách thức mới”.[11]

Sự thánh thiện là cốt lõi của đời sống linh mục. Linh mục được chọn để hành động nhân danh Chúa Kitô. Do đó, sự thánh thiện thuộc về căn tính của chức linh mục, và vì vậy linh mục chỉ có thể thi hành thánh chức cách hiệu quả trong chính sự thánh thiện mà thánh chức đòi hỏi. Hơn ai hết, linh mục phải là nơi mà sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ một cách rõ nét nhất, hoàn hảo nhất, bởi chức linh mục bắt nguồn từ Chúa Kitô.

Theo Pastores dabo vobis, số 47, linh mục là người của Thiên Chúa, là người thuộc về Thiên Chúa và làm cho người ta suy nghĩ về Thiên Chúa. Các Kitô hữu hy vọng gặp được nơi linh mục chẳng những một con người đón tiếp họ, bằng lòng lắng nghe họ, bày tỏ cho họ một mối thiện cảm nào đó, nhưng còn là và nhất là một con người giúp đỡ họ ngắm nhìn Thiên Chúa, tiến lên về phía Thiên Chúa.

Chính việc cử hành bí tích đòi hỏi linh mục phải có sự thánh thiện. Quả thế, mặc dù hiệu quả của bí tích phát sinh do hành động của Thiên Chúa, nhưng việc cử hành bí tích cũng đòi hỏi thừa tác viên phải mặc lấy sự thánh thiện, vì đây là hành vi thuộc lãnh vực thánh thiêng.

Sự thánh thiện của linh mục phát xuất từ việc các ngài được thánh hiến cho Thiên Chúa cách đặc biệt. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, thánh hiến có nghĩa là để dành riêng như của lễ dâng lên Thiên Chúa. Như thế, thánh hiến đồng nghĩa với của lễ hy sinh, được thực hiện bằng sự hy sinh. Gương linh mục hy sinh làm phát sinh Giáo Hội thánh thiện. Vì thế Chúa đã phải đóng ấn sức truyền bá của Người bằng thánh giá. Những linh mục nặng óc thế tục làm cản trở bước tiến của Giáo Hội. Khi linh mục sống thua kém giáo dân, Giáo Hội sẽ bị thoái hóa.

Các linh mục là những kẻ bầu cử thế lực, là muối đất, là ánh sáng trần gian. Thiếu những tâm hồn thánh thiện, thế gian sẽ bị hư thối và sống trong tối tăm. Các linh mục nên thánh cho toàn thể dân Chúa chứ không phải chỉ cho riêng mình.


CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Giữa một thế giới đầy đau khổ, thiếu vắng tình thương như hiện nay, làm thế nào để mọi người có thể khám phá khuôn mặt và sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa là Cha và tin vào danh Người?

2. Những hành vi, cách sống nào của chúng ta có thể làm cho danh thánh Chúa bị phủ nhận hoặc bị xúc phạm bởi những người không có đức tin?

3. Thiên Chúa Cha là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất. Danh xưng “cha”của linh mục cũng phát xuất từ đó. Ngày nay có nhiều người đặt lại vấn đề về cách gọi này đối với các linh mục. Chúng ta nghĩ sao và phải làm gì?

4. Tại nhiều nước Âu Mỹ, linh mục được coi như một công chức làm việc ăn lương. Dân chúng không cần biết đến đời sống thánh thiện cá nhân của linh mục, miễn là ngài chu toàn những nhiệm vụ mục vụ đối với họ. Đâu là những lý do đưa đến tình trạng này và Giáo Hội tại Việt Nam phải làm gì để khỏi rơi vào tình trạng đó?

[1] Xem BÊNÊĐICTÔ XVI, Tự sắc Porta fidei về Năm Đức Tin (11-10-2011), số 4.
[2] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 11.
[3] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 12.
[4] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 1.
[5] Trích thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơ-rô-ba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335.
[6] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2010, số 2815.
[7] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2143.
[8] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2814.
[9] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 13.
[10] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Lumen gentium, số 41.
[11] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 12.


Tác giả bài viết: + GM Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Nguồn tin: Gpquinhon.org


Lời nguyện thứ II

“Nước Cha trị đến”


“Theo giáo huấn của Chúa Giêsu (x. Mt 6,10.33; Lc 11,2.13), trọng tâm lời kinh cầu xin của Kitô giáo là sự khao khát và tìm kiếm Nước Chúa đang đến. Vì thế cần phải có một trật tự trong lời cầu xin: trước tiên là Nước Chúa, rồi đến những gì cần thiết cho chúng ta để đón nhận và cộng tác cho Nước Chúa trị đến. Việc cộng tác như vậy vào sứ vụ của Đức Kitô và của Chúa Thánh Thần, nay là sứ vụ của Hội Thánh, là đối tượng cầu xin của cộng đoàn thời các tông đồ (x. Cv 6,6; 13,3)”.[1]

Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, 24 tháng 11 năm 2013, như một lời mời gọi mọi thành phần dân Chúa cầu nguyện và tích cực góp phần làm cho Nước Chúa trị đến bằng đời sống đức tin và đức ái.

1. TIN VÀO MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI

Chúa Giêsu đến trần gian là để thực thi thánh ý ngàn đời của Chúa Cha là hủy diệt sự chết và tái lập vương quốc của sự sống, vương quốc mà Thiên Chúa đã thiết lập cho con người, để trong đó họ được gặp gỡ thân mật với Đấng Tạo Hóa. Vương quốc ấy được trình bày qua hình ảnh vườn địa đàng trong sách Sáng Thế 1,15. Có thể coi vườn địa đàng là vương quốc của Thiên Chúa, bởi chính nơi đây Thiên Chúa ngự trị.

Vương quốc của Thiên Chúa hay Nước Trời không phải là một không gian quyền lực như vương quốc trần gian, nhưng đó là một con người, là chính Đức Kitô. Xin cho Nước Cha trị đến tức là chúng ta cầu xin cho mình trở nên giống như Đức Kitô (Gl 2,20), được sống theo tinh thần của Người.

“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21), câu này vừa ám chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu là hiện thân của Nước Chúa giữa trần gian, vừa cho thấy Nước Chúa ngự trị cách cơ bản trong nội tâm con người. Chính Origenes khai mở cách chú giải này. Cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến tức là cầu nguyện cho Nước Chúa vốn đã hiện diện trong chúng ta được mang lại hoa trái và đạt tới viên mãn.

Trong suốt ba năm rao giảng, Chúa Giêsu không ngừng nói về Nước Trời và kêu gọi mọi người hoán cải và tin để có thể bước vào Nước Trời. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chưa là thời điểm dứt khoát để Nước Trời hiển trị, nhưng mới chỉ là khởi điểm của sự qui tụ mọi người vào Nước Trời.

Nước Trời là một huyền nhiệm, một lời mời gọi, một ân huệ tuyệt hảo của Thiên Chúa, vì thế con người chỉ có thể đáp lại và đón nhận bằng đức tin (x. Gl 5,21; Ep 5,5). Đó là tin vào vương quyền của Thiên Chúa, là chấp nhận sự thống trị của Người trên cuộc đời của mỗi người, với một niềm vui sướng như tác giả thánh vinh 33 đã reo lên: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33,12).

Cách riêng chúng ta là những linh mục của Chúa, những người được sai đi rao giảng Nước Trời, chúng ta càng phải đặt tất cả niềm tin vào Nước Trời mà chúng ta rao giảng và luôn sống trong niềm hân hoan và biết ơn đối với Đức Kitô, vì “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,5-6).

Tin vào mầu nhiệm Nước Trời cũng là tin vào sức mạnh nội tại, sức sống, sức phát triển và những lợi ích cao cả của Nước Trời đối với con người. Hình ảnh hạt cải và tấm men trong dụ ngôn Tin Mừng đã nói lên điều đó (x. Lc 13,18-21).

2. TÌM KIẾM VÀ XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA

Với lời cầu xin thứ hai này chúng ta công nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Lời này tạo nên một trật tự ưu tiên cho hành động con người, cho thái độ hằng ngày của chúng ta.

Trong kinh Lạy Cha, vấn đề chủ yếu là việc Nước Thiên Chúa đến cách chung cuộc lúc Đức Kitô trở lại (x. Tt 2,13), trong cảnh trời mới đất mới. “Tuy nhiên, sự trông đợi một thế giới mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một số hình ảnh nào đó của kỷ nguyên mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với việc mở rộng vương quyền Chúa Kitô, vẫn phải nhìn nhận rằng chính những tiến bộ này cũng có giá trị đối với Nước Thiên Chúa trong mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn”.[2]

Để Nước Thiên Chúa được triển nở, Chúa đã chọn một nhóm 12 như là nòng cốt cho việc khai sinh Nước này. Ngày nay sứ mệnh xây dựng Nước Trời trên trần gian của Giáo Hội được ủy thác cách đặc biệt cho các linh mục. Linh mục được Chúa chọn để làm cho Thiên Chúa hiện diện giữa loài người và làm cho Nước Chúa hiển trị theo thánh ý Chúa Cha. Vì thế, việc rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ chính yếu của linh mục.

Tuy nhiên Nước Trời là một thực tại huyền nhiệm, người ta sẽ không cảm nghiệm được nó nếu linh mục không là dấu chỉ của nó. Nói cách khác, người ta phải nhìn thấy sự hiện diện của Nước Trời nơi người linh mục như là “vương quốc chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và ân phúc, vương quốc công bình, yêu thương và hòa bình”.[3] Vì thế có thể nói lời cầu xin này liên quan đến sứ vụ ngôn sứ của linh mục.

Ngoài ra, người linh mục chỉ có thể xây dựng Nước Trời theo cách thức và đường lối của Chúa, chứ không bằng cách thức của loài người. Đó là cách thức của người tôi trung, của người phục vụ trong khiêm hạ. Bằng cách này Thiên Chúa đã giải thoát con người khỏi vương quyền của Satan.

Lời cầu xin thứ hai này của kinh Lạy Cha giúp chúng ta chỉnh đốn đời sống và hành động của mình theo trật tự của Thiên Chúa. Khi thế giới ở trong trật tự của Thiên Chúa thì Nước Trời hiện diện. Ngoài ra chúng ta cần ý thức rằng con người chúng ta không có khả năng xây dựng Nước Trời, mà chúng ta chỉ có thể cộng tác với Chúa trong công trình đặc biệt này.

3. LINH MỤC VÀ SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO

Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mệnh rao truyền và thiết lập Nước Trời trong mọi dân tộc; Giáo Hội là mầm mống và khai nguyên của Nước ấy trên trần gian.[4]

Xã hội hiện đại với các đặc tính duy thế tục, duy vật chất, lãnh đam tôn giáo, tự do phóng túng, hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, chủ trương tương đối hóa về luân lý và tôn giáo, đang tạo ra những khó khăn rất lớn cho việc rao giảng Nước Trời. Đứng trước thực trạng đó, từ những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Giáo Hội đã phát động một công cuộc Tân Phúc Âm Hóa trên toàn thế giới.

Để mở đầu Năm Đức Tin, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI triệu tập vào tháng 10 năm 2012 với đề tài “Tân Phúc Âm Hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”. Đó là một dịp thích hợp để dẫn đưa toàn thể Giáo Hội tiến vào một thời điểm để đặc biệt suy tư và tái khám phá đức tin..[5] Trong tông huấn Pastores dabo vobis, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định “sự cần thiết tuyệt đối phải làm cho công cuộc Phúc Âm hóa có được những ‘nhà Phúc Âm hóa mới’, đầu tiên là các linh mục”.[6]

Một nét mới mẻ trong giáo lý của công đồng Vaticanô II về chức vụ và đời sống linh mục là nhấn mạnh việc loan báo Tin Mừng như nhiệm vụ hàng đầu của linh mục. Loan báo Tin Mừng chứ không phải là cử hành thánh lễ và các bí tích. Đó là một khẳng định quan trọng, về mặt lý thuyết thì không mới lạ lắm, nhưng về mặt thực tế và mục vụ có những hậu quả rất lớn. Giáo Hội đã tìm lại được tính năng động và di động của thời Công vụ Tông đồ.

Có lẽ đa số các linh mục chúng ta trong thực tế vẫn coi việc rao giảng Tin Mừng là rao giảng cho cộng đoàn các tín hữu thôi, còn việc rao giảng cho người ngoài Kitô giáo là nhiệm vụ của một số người có ơn gọi đặc biệt. Nay thì công đồng dạy rất rõ ràng là tất cả mọi linh mục, do chức vụ của mình, đều “mắc nợ với mọi người về việc thông truyền chân lý Tin Mừng mà mình nhận được nơi Chúa”.[7]

Trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết: “ ‘Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2Cr 5,14): chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng”.[8] Bao giờ linh mục cũng phải ấp ủ trong lòng thao thức rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Họ phải nói như thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9,16). Rao giảng như thế nào, bằng cách nào, đó là vấn đề khác.

Ngay cả đối với các tín hữu, họ cũng cần được nghe rao giảng chứ không phải chỉ lãnh bí tích là đủ. Vả lại công đồng còn dạy rằng chính thừa tác vụ Lời Chúa cũng không thể thiếu đối với thừa tác vụ bí tích. Sở dĩ thế “vì đây là những bí tích đức tin, mà đức tin lại được phát sinh và nuôi dưỡng bằng lời giảng dạy..., đặc biệt trong phần phụng vụ Lời Chúa của thánh lễ”.[9]

Giáo Hội phải rao giảng Tin Mừng như Chúa Giêsu, nghĩa là không phải chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, không phải chỉ xướng lên sứ điệp cứu độ mà còn thực hiện nó và sống chết vì nó. Phải rao giảng từ kinh nghiệm sống, từ xác tín sâu xa của mình.

Đời sống của chúng ta phải là dấu hiệu làm cho lời rao giảng trở nên đáng tin đối với người nghe. Lời Chúa không hiển nhiên, vì đó là lời nhập thể vào ngôn ngữ loài người.

Đó là một hạn chế mà Thiên Chúa đã chấp nhận khi đến với loài người. Vì thế con người phải có lòng tin mới chấp nhận được. Người rao giảng phải giúp cho lòng tin đó được dễ dàng hơn nhờ đời sống thánh thiện của mình. Giáo huấn của Giáo Hội phong phú và đẹp đẽ biết bao, nhưng vẫn chỉ là chữ chết nếu không có những vị thánh mang lại cho giáo huấn ấy một sự khả tín.

Chỉ linh mục thánh thiện mới có thể trở thành một chứng nhân trong suốt của Đức Kitô, của Tin Mừng trong một thế giới ngày càng thế tục hóa. Người ta, nhất là người trẻ đang chờ những kẻ dẫn đường. Linh mục chỉ có thể làm người dẫn đường và thầy dạy trong mức độ ngài trở thành chứng nhân chân chính.

Chứng tá đời sống còn cần hơn bao giờ hết đối với con người thời nay. Ngày nay người ta không thích lý thuyết nhưng đòi thực tế và hiệu năng, do đó họ dễ nghe theo chứng nhân hơn thầy dạy. Đừng để cho cuộc sống, hành động và tác phong chúng ta mâu thuẫn với điều chúng ta giảng dạy. Người ta càng kính trọng các linh mục thì họ càng dễ thất vọng khi chúng ta sống quá tầm thường.

Vì thế, trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã khẳng định: “Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng tá đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng trong tâm trí, có khả năng mở tâm trí của bao nhiêu người mong ước Thiên Chúa và sự sống chân thực, sự sống không tàn lụi”.[10] Thiết tưởng lời khẳng định này đặc biệt nhắm đến các linh mục.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Ngày nay người ta đề cao những giá trị của khoa học và kỹ thuật, xem đó như tiêu chuẩn của tiến bộ. Làm cách nào để giúp anh chị em giáo dân xác tín vào những giá trị của Nước Trời mà Giáo Hội đang rao giảng?

2. Chúa dạy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, nhưng cuộc sống hiện nay khiến người ta có nhiều lựa chọn ưu tiên khác. Làm thế nào để giữ được nấc thang giá trị theo Tin Mừng Nước Trời trong các lựa chọn hằng ngày?

3. Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo lớn đã ăn sâu vào văn hóa và cuộc sống của người dân. Đó là một thách đố lớn đối với công cuộc truyền giáo. Trong hoàn cảnh đó, đâu là những khó khăn mà các linh mục gặp phải khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng?

4. Tân Phúc Âm Hóa là rao giảng Tin Mừng với nhiệt tình mới, bằng những phương pháp mới và với những cách diễn tả mới. Đâu là những phương pháp và cách diễn tả mới để rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay?

[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2632.
[2] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Gaudium et spes, số 39.
[3] Sách lễ Rôma, Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.
[4] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Lumen gentium, số 5.
[5] Xem BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 4.
[6] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 2.
[7] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 4.
[8] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 7.
[9] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 4.
[10] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 15.


Lời nguyện thứ III

“Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”


Lời cầu xin này liên hệ với lời cầu xin cho Nước Cha trị đến. Có thể nói: Nước Trời thực sự đến khi thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn. “Bởi thế, để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai nguyên Nước Trời nơi trần gian, mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm của Người và thực hiện việc cứu thế bằng sự vâng phục Chúa Cha”.[1] “Nhờ cầu nguyện, chúng ta có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa (x. Rm 12,2; Ep 5,17) và kiên nhẫn để thi hành ý Người (x. Dt 10,36). Chúa Giêsu dạy chúng ta vào Nước Trời không phải bằng lời lẽ, nhưng bằng việc thi hành ‘ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời’ (Mt 7,21)”.[2]

1. TIN VÀO THÁNH Ý THIÊN CHÚA

Trong bản chất, thánh ý Thiên Chúa đồng nhất với ý định của Người: “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Như thế mọi hình thức biểu lộ thánh ý Thiên Chúa qua dòng lịch sử đều được điều hợp trong ý định khôn ngoan theo một chương trình bao quát. Tuy nhiên mỗi một hình thức đều liên hệ đến một biến cố riêng biệt, và chính để chấp nhận quyền làm chủ của Thiên Chúa trên biến cố đó mà con người cầu xin cho “ý Cha thể hiện”. Như vậy lịch sử đã qua mạc khải ý định của Thiên Chúa và khi phục tùng thánh ý Thiên Chúa con người tin tưởng hướng về tương lai, vì họ biết trước tương lai được Chúa quan phòng điều khiển.

Khi liên hệ đến con người, thánh ý Thiên Chúa mang một hình thức đặc biệt, vì con người phải vâng theo từ nội tâm và phải thực hiện trong tự do. Thánh ý Thiên Chúa không tỏ ra cho con người như một số mệnh, nhưng như một lời mời gọi con người chấp nhận bằng niềm tin. Không chối bỏ lý trí, nhưng dựa trên niềm tin sâu xa vào sự công chính của Thiên Chúa, dựa trên sự hiểu biết về lời răn dạy, về ý định, về sự khôn ngoan, đó là những yếu tố chi phối việc thi hành ý Chúa.

Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Nơi Đức Giêsu Kitô vừa có bản tính Thiên Chúa vừa có bản tính con người, vừa có trời vừa có đất. Vì thế, nơi Người ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của con người gặp gỡ nhau, nơi Người ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời cách tuyệt vời nhất.

Đức Kitô đã thực hiện ý Cha dưới đất cũng như trên trời. Do đó, khi xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời tức là chúng ta xin cho chúng ta hoàn toàn trở nên giống Chúa Kitô, để luôn vâng phục thánh ý Cha như Người đã vâng phục. Điều này chính Đức Maria đã đi trước và làm gương cho chúng ta bằng niềm tin trọn vẹn được diễn tả qua hai tiếng ‘xin vâng’, như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô trong tự sắc Porta fidei: “Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ”.[3] Có thể nói, không ngày nào ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời cho bằng ngày Truyền tin.

Từ khi thánh ý Chúa Cha được thể hiện nơi Đức Giêsu, dưới đất cũng như trên trời, người Kitô hữu có thể chắc chắn được nhậm lời khi đọc kinh Lạy Cha. Vì là môn đệ đích thực của Đức Kitô, họ cũng phải nhận biết và đem ra thực hành thánh ý Chúa Cha. Khi chúng ta cầu xin “cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, thì không có gì khác với lời nguyện của thánh vinh: “Xin Chúa dạy con thực thi ý Chúa” (Tv 143,10). Đó là lời cầu nguyện của đức tin. Tin, đối với Kitô hữu là biến đổi cuộc đời mình thành lời xin vâng.

“Lời cầu nguyện của đức tin không hệ tại ở chỗ thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng là sẵn lòng thi hành thánh ý của Chúa Cha (x. Mt 7,21). Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Người đem vào lời cầu nguyện (x. Mt 9,38; Lc 10,2; Ga 4,34) sự quan tâm cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa.[4]

Linh mục phải tuyên xưng đức tin bằng đời sống tín thác như Mẹ Maria. Sự tín thác này được biểu lộ qua đời sống vâng phục. Là thầy dạy đức tin, linh mục nêu cao đời sống vâng phục thánh ý, cho dẫu thánh ý xem ra như chén tràn đầy đắng cay. Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Linh mục được thánh hiến và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, mời gọi mọi người vâng phục đức tin”.[5]

Khi tuyên xưng “tôi tin” là lúc biểu tỏ thái độ vâng phục Thiên Chúa và sẵn sàng thực thi những huấn lệnh của Người. Sự vâng phục Kitô giáo vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là hành động thể hiện đức ái, bởi “tin, tín thác và tình yêu chỉ là một” (J. Ratzinger). Có thể nói ba nhân đức nền tảng của đời sống Kitô hữu: tin, cậy, mến, đều đâm chồi nẩy lộc trên nền tảng vâng phục. Vì vậy cũng có thể nói, sự vâng phục thuộc về căn tính của đời linh mục. Không thể chu toàn sứ vụ linh mục ở ngoài sự vâng phục, bởi người được chọn làm linh mục không phải để tìm kiếm ý riêng mình, nhưng tìm kiếm ý Đấng đã sai mình (x. Ga 4,34; 5,30; 6,38).

2. TÌM KIẾM THÁNH Ý THIÊN CHÚA

Người ta thường nói về một sự tìm kiếm của đức tin hay đức tin như một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa và thánh ý của Người.

“Chúng ta không xin Thiên Chúa thực hiện điều Người muốn, nhưng xin cho chúng ta có sức thi hành điều Thiên Chúa muốn. Bởi chưng ai dám ngăn cản không cho Thiên Chúa hành động như Người muốn? Nhưng vì ma quỉ ngăn cản không cho tâm hồn và hành vi của chúng ta tuân phục Thiên Chúa trong mọi sự, nên chúng ta mới cầu xin khẩn nguyện cho ý của Thiên Chúa thể hiện nơi chúng ta. Nhưng muốn cho ý Thiên Chúa được thể hiện nơi chúng ta, thì lại cần có ý của Người, tức là cần có sức mạnh và sự che chở của Người”.[6]

Chúa Giêsu, “dầu là Con Thiên Chúa, đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8), phương chi chúng ta là những thụ tạo và là những tội nhân, đã được nhận làm nghĩa tử trong Người. Chúng ta cầu xin Chúa Cha cho ý muốn của chúng ta được kết hợp với ý muốn của Chúa Con, để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Trong công việc này chúng ta hoàn toàn bất lực, nhưng nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta có thể phó dâng cho Chúa Cha ý muốn của chúng ta và quyết định chọn điều Chúa Giêsu luôn luôn chọn: đó là làm đẹp lòng Cha (x. Ga 8,29).[7]

Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Trong những đức tính cần thiết hơn cả cho chức vụ linh mục, phải kể đến thái độ này là bao giờ cũng sẵn sàng tìm ý muốn của Đấng đã sai mình chứ không phải tìm ý riêng (x. Ga 4,34; 5,30; 6,38)”.[8]

“Các linh mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các ngài theo gương Chúa Kitô trong việc chu toàn tác vụ: lương thực của Người là làm theo ý muốn của Đấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình (x. Ga 4,34)... Để có thể thực hiện sự thống nhất đời sống cách cụ thể, các ngài phải xét đoán mọi hoạt động của mình cho biết rõ đâu là ý muốn của Thiên Chúa (x. Rm 12,2), nghĩa là biết rõ những hoạt động đó có thích hợp với những tiêu chuẩn của sứ mệnh Tin Mừng của Giáo Hội hay không”.[9]

“Dưới ánh sáng đức tin được nuôi dưỡng bằng việc đọc sách thánh, các ngài có thể tận tâm tìm kiếm những dấu hiệu của thánh ý Chúa và những thúc đẩy của ơn thánh Người trong những biến cố khác nhau của đời sống, và như thế ngày càng trở nên dễ dàng vâng phục sứ mệnh đã nhận lãnh trong Chúa Thánh Thần hơn. Các ngài luôn tìm thấy gương mẫu lạ lùng về sự vâng phục đó nơi Đức Trinh Nữ Maria, người được Chúa Thánh Thần dẫn dắt đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người (x. LG 65)”.[10]

3. LINH MỤC VÀ ĐỨC VÂNG PHỤC

Khi chúng ta đọc: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, là chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta chính sự tuân phục, để nhờ đó thánh ý của Người được thể hiện nơi chúng ta như vẫn được các thiên thần của Người thi hành trên thiên quốc.

Vâng phục có lẽ là nhân đức dễ diễn tả nhất, nhưng thực hành nó thật khó. Chính trong sự vâng phục chứ không phải sự độc thân, mà linh mục ngày nay đi ngược lại trào lưu văn hóa nhất. Bởi lẽ chúng ta sống trong một thế giới thần thánh hóa ý muốn, cho rằng chỉ có hạnh phúc thật khi được phép làm bất cứ điều gì, bất cứ kiểu cách nào, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào mình muốn.

Sở dĩ có sự nghịch lý đó là vì chúng ta là dấu chỉ của chân lý sâu xa hơn: chính trong sự vâng phục Thiên Chúa mà chúng ta có sự tự do trọn vẹn nhất, và sự bình an lâu dài chỉ đạt được khi chúng ta được dẫn dắt không phải bởi ý muốn của chúng ta, nhưng bởi thánh ý Thiên Chúa.

“Nhưng vì chức vụ linh mục là chức vụ của chính Giáo Hội, nên chức vụ đó chỉ có thể được chu toàn trong sự thông công phẩm trật của toàn Thân Thể. Vậy đức ái mục vụ thôi thúc các linh mục đang hoạt động trong mối hiệp thông này biết hy sinh ý riêng mình, qua việc vâng lời phục vụ Chúa và anh em, bằng cách lấy tinh thần đức tin mà lãnh nhận và tuân theo những gì được Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục của mình, cũng như các bề trên khác truyền dạy và khuyên bảo, bằng cách hoàn toàn sẵn lòng tự hiến và tự hiến hết mức trong bất cứ chức vụ nào đã được trao phó cho mình dù là thấp kém và nghèo hèn”.[11]

Sự vâng phục đầu tiên và hiển nhiên nhất là vâng phục Đức Giám Mục của chúng ta. Yếu tố then chốt để hiểu chức linh mục triều là sự vâng phục mà chúng ta mắc nợ Đức Giám Mục. Trong nghi thức phong chức phó tế cũng như linh mục, ngài hỏi tiến chức: “Con có hứa tôn kính và vâng phục cha cùng các đấng kế vị cha không?”

Sự vâng phục của linh mục không chỉ được thể hiện trong tương quan đối với giám mục mà còn đối với linh mục đoàn: “Linh mục phải tập làm quen để đừng quá gắn bó với những sở thích và quan điểm riêng của mình... Sự vâng phục của linh mục là một sự vâng phục liên đới”.[12]

Không những chúng ta vâng phục Đức Giám Mục, mà còn vâng phục chức linh mục. Nói thế có nghĩa là chúng ta trung thành với ơn gọi linh mục, quảng đại vâng phục những gì Giáo Hội mong đợi nơi chúng ta, hằng ngày nuôi dưỡng và kiện cường căn tính linh mục. Phải “vâng phục dài ngày” chức linh mục của chúng ta, vì đây không chỉ là một chức năng, một nghề nghiệp, một công việc, nhưng là một ơn gọi, một đời sống đòi hỏi sự vâng phục lâu dài. Tiếp đến là vâng phục dân Chúa, họ là chủ của chúng ta, chúng ta phục vụ họ. Chúa không ban cho chúng ta chức linh mục để chúng ta được thoải mái, được lợi nhuận, nhưng để phục vụ dân Người.

Sau cùng là vâng phục đau khổ. Thư gửi tín hữu Do-thái nhắc chúng ta: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Sự vâng phục đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng rốt cuộc điều quan trọng không phải là những gì chúng ta làm với tư cách linh mục, không phải nơi chúng ta làm, mà là con người linh mục của chúng ta khi làm điều đó. Chính vào lúc đau khổ nhất của cuộc đời trần thế, mà Đức Giêsu đã hoàn thành tất cả. Nếu mục đích của chúng ta là đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thì sự vâng phục là con đường dẫn tới đó.
Sự vâng phục là nhân đức trung gian nhờ đó mà có các nhân đức khác; chúng ta theo đuổi sự thánh thiện, khiêm nhường, khiết tịnh, nghèo khó và bác ái, vì chúng ta lưu tâm đến ý Chúa, vâng phục kế hoạch của Người, và chúng ta biết đây là điều Người muốn. Người có chương trình cho chúng ta và chúng ta cộng tác.

Tóm lại, sống thánh ý Thiên Chúa là sống tinh thần vâng phục, là tự nguyện đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa như Đức Maria và thánh Giuse, là sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng, để cho ý Chúa chiếm lấy cuộc đời của mình và kéo mình theo, không phải một sự vâng phục miễn cưỡng, nhưng đầy tươi vui của con cái Thiên Chúa.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Chấp nhận và thi hành thánh ý Thiên Chúa là một hành vi đức tin, đặc biệt trong những lúc gặp đau khổ, thất bại. Có phương thế nào giúp chúng ta đón nhận ý Chúa trong những trường hợp như thế?

2. Để có thể hướng dẫn các tín hữu tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày, các linh mục nên dùng những phương pháp nào?

3. Trong khi thi hành sứ vụ linh mục, chúng ta cũng có những sáng kiến và tự do. Làm thế nào để hòa hợp sáng kiến và tự do của chúng ta với đức vâng phục Đức Giám Mục?

4. Vâng phục có nghĩa là lắng nghe và chia sẻ trách nhiệm mục tử với Giám mục bằng sự cộng tác chân thành. Đâu là những khó khăn khiến nhiều lúc chúng ta không thể thực hiện điều đó?


[1] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Lumen gentium, số 3.
[2] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2826.
[3] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 13.
[4] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2611.
[5] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 26.
[6] Trích khảo luận của thánh Siprianô, giám mục tử đạo, về kinh Lạy Cha, trong Kinh sách, III, tr. 310-311.
[7] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2825.
[8] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 15.
[9] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 14.
[10] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 18.
[11] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 15.
[12] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 28.

Lời nguyện thứ IV

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”


Lời cầu xin thứ tư trong kinh Lạy Cha có lẽ là lời cầu xin mang tính nhân bản nhất trong các lời cầu xin: Đức Kitô, Đấng giúp chúng ta nhìn vào điều chính yếu, vào “một điều cần thiết mà thôi”, cũng biết đến nhu cầu trần thế của chúng ta và công nhận chúng. Người nói với các môn đệ: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc” (Mt 6,25), bây giờ lại mời chúng ta cầu xin lương thực và trao ưu tư của chúng ta vào tay Chúa Cha. Bánh là hoa quả của trái đất và công lao của con người, nhưng trái đất sẽ không mang lại hoa trái nào, nếu không đón nhận mặt trời và mưa từ trên cao.

Đức Kitô đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Như thế tấm bánh mà chúng ta tìm kiếm cũng là thánh ý Thiên Chúa. Ở đây chúng ta thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa lời cầu xin này với lời cầu xin cho “ý Cha thể hiện”.

1. TIN VÀO SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lời cầu xin thứ tư này mở đầu cho những lời cầu xin ở phần thứ hai của kinh Lạy Cha, nhằm đến những nhu cầu của thể xác và linh hồn của con người. Đối với các Kitô hữu ngày xưa, lương thực hằng ngày là một thí dụ rất sống động để nói lên những ân huệ Thiên Chúa ban cho con người.

Đây là một lời nguyện bày tỏ niềm tin vào sự quan phòng chăm sóc của Cha trên trời. Chúng ta tin như thế là vì chính Chúa Giêsu đã dạy như thế (x. Mt 6,25-34; Lc 12,22-31). Và Người còn thêm: “Cha anh em biết rõ anh em cần gì trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,8), điều đó cho thấy rằng Chúa Cha luôn quan tâm đến mọi nhu cầu của chúng ta, Người chăm sóc chúng ta còn hơn chúng ta chăm sóc chính mình, Người biết rõ điều chúng ta cần hơn là chúng ta, vì chính Người đã tạo dựng nên chúng ta.

“Đẹp thay lòng tin tưởng của con cái trông chờ Cha ban mọi sự... Chúa Giêsu dạy chúng ta lời cầu xin này: đây là lời tôn vinh Cha chúng ta, bởi vì lời cầu xin này nhận biết Cha là Đấng quá tốt lành, vượt xa mọi lòng tốt.[1]

Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng tín thác con thảo, cùng cộng tác với sự quan phòng của Cha chúng ta (x. Mt 6,25-34). Người không muốn chúng ta làm biếng (x. 2Tx 3,6-13), nhưng muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi lo âu và bận tâm. Đó là sự phó thác đầy tình hiếu thảo của con cái Thiên Chúa.

Ngoài ra, con người gồm xác và hồn, vừa cần đến lương thực cho cuộc sống trần thế, vừa cần đến lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, lương thực mà chúng ta tin tưởng cầu xin trong kinh Lạy Cha không chỉ là của ăn vật chất, nhưng còn là của ăn thiêng liêng.

Các giáo phụ đều đồng ý xem lời cầu xin thứ tư này là lời cầu xin bí tích Thánh Thể. Trong nghĩa này kinh Lạy Cha được xem như lời kinh cầu nguyện nơi bàn tiệc Thánh Thể. Điều này không có nghĩa là người ta bỏ qua ý nghĩa trần thế của lời cầu xin của các môn đệ, theo ý nghĩa trực tiếp của bản văn.

Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng cộng đoàn những kẻ tin trên đường tiến về Nước Trời. Cử hành thánh lễ đối với linh mục là một hành vi nói lên sự mong chờ Nước Trời mau hiển trị. Trong ý nghĩa đó lời cầu xin lương thực hằng ngày gắn liền với lời cầu xin cho Nước Cha trị đến.

Cùng với bí tích Thánh Thể, lương thực hằng ngày của người Kitô hữu là Lời Chúa. Khi rao giảng về sự đói khát Lời Chúa, ngôn sứ Amos (8,11) so sánh bánh với lời. Isaia cũng thế (x. Is 55,1-3). Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, bánh biểu tượng Lời của Thiên Chúa mà nhờ đó người ta phải sống mỗi ngày (x. Mt 4,4). Là lương thực cần thiết và ân huệ Chúa ban, bánh mà người tín hữu xin Chúa mỗi ngày với đà phát triển của đức tin có thể biểu thị Lời Thiên Chúa và chính Ngôi Lời chịu hiến tế (x. Ga 6,32.35.51).

Trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nhắn nhủ: “Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo Hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Sự Sống, được trao ban để nâng đỡ các môn đệ của Chúa (x. Ga 6,51). Thực vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay cũng như trước đây: ‘Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi’ (Ga 6,27)”.[2]

2. LINH MỤC VÀ ĐỨC KHÓ NGHÈO

Trong ngày cuối cùng của tuần tĩnh tâm năm, các linh mục thường lặp lại lời tuyên hứa: “Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con chính Ngài nắm giữ” (Tv 16,5).

Theo thánh Cyprianô, ai cầu xin hôm nay cho có lương thực, thì người đó là người nghèo. Lời cầu xin giả thiết sự nghèo khó của các môn đệ. Trong Hội Thánh phải luôn có những người dám từ bỏ tất cả để bước theo Chúa, những người con hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa Cha.

Mọi Kitô hữu đều phải có tinh thần nghèo khó, huống chi là người linh mục của Chúa. Tuy sống giữa thế gian nhưng các ngài phải biết rằng mình không thuộc về thế gian (x. Ga 17,14-16). Các ngài sử dụng của cải trần gian như không sử dụng (x. 1Cr 7,31), và như thế các ngài được tự do, được giải thoát khỏi mọi lo lắng hỗn loạn để có thể ngoan ngoãn nghe theo tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày. Từ sự tự do và ngoan ngoãn đó sẽ nảy sinh khả năng biện biệt thiêng liêng để nhờ đó tìm ra thái độ đúng đắn đối với thế gian và của cải trần thế. Các ngài phải phân biệt dưới ánh sáng đức tin tất cả những gì các ngài gặp thấy, để một đàng biết sử dụng một cách thích đáng những của cải theo ý muốn của Thiên Chúa, đàng khác biết gạt bỏ những gì phương hại đến sứ mệnh của mình.

Vì nhận Chúa là ‘phần gia nghiệp’ của mình (Ds 18,23), nên các linh mục chỉ được sử dụng những của cải trần gian vào những mục đích mà giáo lý Chúa Kitô và qui luật của Giáo Hội ấn định. Người ta vẫn thường nói: linh mục tốt sống ơn gọi của mình, linh mục ham của sống bằng ơn gọi ấy.

Hơn nữa, các linh mục được mời gọi tình nguyện sống nghèo khó để nên giống Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn và tận tụy hơn với chức vụ thánh. Thật vậy, dù giàu có, Chúa Kitô đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên giàu có (x. 2Cr 8,9). Nhờ noi gương và sống gắn bó với Đức Kitô, thánh Phaolô đã có thể nói: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,12-13).

Và tác giả thư Do-thái đã dạy: “Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!” (Dt 13,5).

“Vì thế, các linh mục cũng như giám mục... phải tránh tất cả những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo khó, và hơn các môn đệ khác của Chúa Kitô, các ngài phải loại bỏ mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở thế nào để không ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để không ai dù nghèo hèn đến đâu phải sợ hãi không bao giờ dám lui tới”.[3]

Thời giờ cũng có thể là đối tượng của tính hà tiện cũng như những tài sản khác. Nhân đức khó nghèo không chỉ giới hạn nơi tiền bạc, vì thời giờ cũng là vàng bạc, người ta thường nói như vậy. Chúa Giêsu luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ kẻ khác ngay cả khi Người cần nghỉ ngơi hay đang mệt.

3. LINH MỤC: TẤM BÁNH ĐƯỢC BẺ RA CHO MỌI NGƯỜI

Bánh không phải chỉ là một nhu cầu sinh tồn, nó phải được chia sẻ. Nó là dấu chỉ của sự hiệp thông, của bác ái huynh đệ. Thánh Phaolô đã dạy: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2Cr 8,14-15).

“Thảm kịch đói khát trên thế giới mời gọi các Kitô hữu đang cầu nguyện trong chân lý, phải có trách nhiệm hữu hiệu đối với các anh em, trong các hành động cá nhân của họ, cũng như trong sự liên đới của họ với gia đình nhân loại. Lời cầu xin này trong kinh Lạy Cha không được tách biệt với các dụ ngôn anh Ladarô nghèo khó (x. Lc 16,19-31) và cuộc phán xét chung (x. Mt 25,31-46)”.[4]

“Đối tượng cầu xin là lương thực của “chúng con”: “một” điều cho “tất cả”. Tinh thần khó nghèo theo các mối phúc là nhân đức chia sẻ: nó thúc đẩy thông chia và phân phát những của cải vật chất cũng như tinh thần, không vì cưỡng bách nhưng do tình yêu, ngõ hầu sự dư thừa của người này bù đắp sự túng thiếu của những người khác (x. 2Cr 8,1-15)”.[5]

Ý nghĩa đặc thù Kitô giáo của lời cầu xin thứ tư này liên quan đến Bánh trường sinh: đó là Lời Chúa được đón nhận trong đức tin, và Mình Thánh Chúa Kitô được lãnh nhận trong bí tích Thánh Thể (x. Ga 6,26-58). Vì thế có thể nói lời cầu xin lương thực hằng ngày hướng về sứ vụ ngôn sứ và tư tế của linh mục, bởi Lời Chúa và Thánh Thể liên quan chặt chẽ với chức linh mục.

Được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, linh mục phải sống theo Lời Chúa và đem chia sẻ cho kẻ khác để nuôi dưỡng đức tin của họ. Linh mục cũng phải trở nên con người của Thánh Thể, phải sống theo khuôn mẫu của Thánh Thể, sẵn sàng để cho mình bị ăn. Khi đọc “Này là Mình Thầy”, “này là chén Máu Thầy”, linh mục không lặp lại một cách máy móc lời của Chúa trong bữa tiệc ly, nhưng phải hiểu đây là một hành động chịu đóng đinh, chịu đâm thủng của linh mục, một sự tự hiến chính mình. Do đó, linh mục cũng trở nên lương thực mà kinh Lạy Cha dạy phải kêu cầu.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Phải trình bày cho giáo dân về sự quan phòng của Thiên Chúa như thế nào để họ vừa khỏi rơi vào thái độ ỷ lại lười biếng, vừa không quá lo lắng đến những nhu cầu vật chất?

2. Trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa hưởng thụ như tại Việt Nam hôm nay, đâu là ý nghĩa và tầm quan trọng của đức khó nghèo nơi các linh mục?

3. Tại các giáo phận chúng ta, đâu là mức sống vừa phải mà các linh mục cần có để có thể sống xứng đáng và chu toàn nhiệm vụ của mình?

4. Những phương thế nào hữu hiệu và thích hợp để các linh mục trong giáo phận có thể tương trợ lẫn nhau, nhất là giúp đỡ các linh mục đang sống trong hoàn cảnh khó khăn hoặc đang phục vụ tại những giáo xứ nghèo nàn thiếu thốn?


[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2828.
[2] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 3.
[3] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Presbyterorum ordinis, số 17.
[4] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2831.
[5] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2833.

Lời nguyện thứ V

“Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”


Chúng ta cầu xin sự tha thứ của Chúa Cha, bởi vì chúng ta phạm tội trong tư cách là những người con của Thiên Chúa, chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa trong tư cách là Cha. Không có tội nếu giữa Thiên Chúa và con người không có mối tương quan phụ tử, cho dù người ta không nhận biết. Mỗi lần con người phạm tội là họ phủ nhận, không biết tới, hoặc chống lại tình hiền phụ của Thiên Chúa. Chúa nói với chúng ta trong lời cầu xin này: lỗi lầm chỉ có thể vượt qua nhờ sự tha thứ. Thiên Chúa là Thiên Chúa tha thứ, vì Người yêu thương con người. Nhưng sự tha thứ của Người chỉ có thể đến và hoạt động trong những ai biết tha thứ cho anh em.

1. TIN VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ SỰ THA THỨ CỦA CHÚA

“Xin tha nợ chúng con”. Lời cầu xin này trước hết là một lời tuyên xưng niềm tin vào lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Tội lỗi không chỉ là sự lỗi phạm của một thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa, mà còn là sự xúc phạm đến tình yêu của một người Cha. Thiên Chúa tự mặc khải chính mình như Thiên Chúa nhân hậu và từ bị. Các ngôn sứ trình bày một Thiên Chúa nhân từ, tha hết mọi nợ nần, xóa sạch mọi tội lỗi, thanh tẩy toàn vẹn con người. Sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa lớn hơn tất cả những tội lỗi của con người. Đức Giêsu đã đặt Thiên Chúa làm khuôn mẫu của lòng thương xót (x. Lc 6,35) cho những ai nhận Người làm Cha và phải bắt chước Người để trở thành con cái đích thực của Người (x. Mt 5,44-45.48).

“Lời cầu xin của chúng ta bắt đầu bằng ‘việc xưng thú’, qua đó chúng ta vừa thú nhận sự khốn cùng của chúng ta và đồng thời vừa tuyên xưng lòng thương xót của Người. Niềm hy vọng của chúng ta thật vững chắc, bởi vì trong Con của Người, ‘chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi’ (Cl 1,14; x. Ep 1,7). Chúng ta gặp được dấu chỉ hữu hiệu và chắc chắn về ơn tha thứ của Người trong các bí tích của Hội Thánh Người (x. Mt 26,28; Ga 20,23)”.[1]

Qua lời cầu nguyện này, tội nhân không đến với Thiên Chúa trong sự sợ sệt. Động từ “xin tha” được đặt ở đầu lời cầu xin, bởi vì ơn tha thứ là cái gì đi trước và mang tính nhưng không, tình phụ tử của Thiên Chúa đi trước tội lỗi và không bị tội lỗi xóa bỏ. Con người tiếp cận một ơn tha thứ đã có đó, như đứa con hoang đàng phó mình cho người cha đang chờ đón nó.

“Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nhiều nhà chú giải cho rằng sự tha thứ của Thiên Chúa được gắn liền với sự tha thứ của con người. Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa tha thứ theo mức độ tha thứ của chúng ta, bởi vì sự tha thứ của Chúa thì vô cùng lớn lao. Điều ấy chỉ muốn nói rằng tội lỗi khiến con người đóng kín trên chính mình và do đó chỉ có thể được tha thứ khi con người tự mở ra với đức ái. Con người không thể đón nhận tình yêu của Thiên Chúa mà đồng thời khép kín tình yêu đối với tha nhân bằng sự không tha thứ. Con người phải cộng tác vào sự tha thứ của mình.

Nếu ơn tha thứ của Thiên Chúa là nhưng không, thái độ đầu tiên phải có là cầu xin sự tha thứ như một ơn thuần túy của Thiên Chúa, chứ chúng ta hoàn toàn không xứng đáng, và chúng ta cũng không thể mua được cho dầu chúng ta có tha thứ cho anh em. Nhiều lúc chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ mà vẫn chưa có khả năng để tha thứ cho nhau. Điều quan trọng là sự mở rộng cho tình yêu của Thiên Chúa bằng ước muốn tha thứ cho nhau. Và dấu hiệu duy nhất của ước muốn ấy là cầu nguyện cho kẻ thù.

Chúa Giêsu không những dạy chúng ta cầu xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi chúng ta, nhưng chính Người còn đứng ra bàu chữa cho chúng ta trước mặt Cha Người. Trên thánh giá Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất đức tin” (Lc 22,32). Nói như thế cũng có nghĩa là: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để tội lỗi của anh được tha”. Thực ra chúng ta không xa lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho thánh Phêrô. Quả thế, xin cho khỏi mất đức tin hay xin cho tội lỗi được tha, cũng như nhau, bởi vì tội lỗi luôn phát sinh từ sự yếu kém hay mất đức tin.

2. LINH MỤC VÀ SỰ SÁM HỐI

Cầu xin ơn tha thứ là động thái đầu tiên của lời kinh cầu xin, như lời người thu thuế: “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Đó là bước đi đầu tiên để có thể cầu nguyện cách đúng đắn và tinh tuyền. Lòng khiêm tốn đầy tin tưởng phó thác đặt chúng ta vào trong ánh sáng của sự hiệp thông với Chúa Cha và Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và hiệp thông với nhau (x. Cv 6,6; 13,3): khi đó “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho” (1Ga 3,22). Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ trước khi cử hành thánh lễ, cũng như trước khi cầu nguyện riêng.[2]

Lòng thương xót của Thiên Chúa không có giới hạn, nhưng ai cố tình từ chối đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc sám hối, thì người đó cũng khước từ ơn tha thứ tội lỗi cho mình và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban tặng. Nghe lời Chúa khuyên dạy mà nhớ mình là kẻ tội lỗi, điều đó cần thiết biết bao, hợp lẽ khôn ngoan và ích lợi dường nào!

Trong tự sắc Porta fidei, số 6, ĐTC Bênêđictô XVI đã nói: “Năm Đức Tin là năm mời gọi sám hối và canh tân cách chân thực và mới mẻ, để trở về với Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất”. Sau đó, trong số 13, ngài viết: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi... Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha, Đấng đến gặp tất cả mọi người”.

Các linh mục thường giảng dạy và kêu gọi các tín hữu sám hối, nhưng nhiều lúc các ngài không biết tự mình sám hối. Thay vì nhìn vào lỗi lầm của mình để sám hối, nhiều khi các linh mục lại tự phụ vì đã không phạm những lỗi khác. Thay vì sánh mình với những người tốt hơn, các ngài lại tự sánh mình với những người tầm thường.

Chúa muốn đừng ai trong chúng ta tự mãn như chẳng có tội lỗi gì, rồi tự cao tự đại mà hư hỏng thêm, nên đã dạy chúng ta biết là ngày nào chúng ta cũng phạm tội và truyền cho chúng ta ngày nào cũng phải xin ơn tha thứ. Thánh Gioan cũng khuyên dạy chúng ta trong thư của Người: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta” (1Ga 1,8-9). Lời cầu xin tha thứ buộc chúng ta phải canh tân hằng ngày. Lời cầu xin nhắc chúng ta nhớ đến Đấng phải trả giá cho việc tha thứ bằng cách bước vào đau khổ và cái chết. Lời cầu xin này kêu gọi chúng ta phải biết ơn và cùng với Người chiến đấu và gánh chịu điều xấu bằng tình yêu.

3. LINH MỤC VÀ SỰ THA THỨ CHO NHAU

Lời cầu xin này hết sức quan trọng, đến nỗi đây là lời cầu xin duy nhất mà Chúa phải nhắc lại và triển khai thêm trong Bài giảng trên núi: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Và thánh Phaolô cũng đã nhắn nhủ các tín hữu: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32)

Tha thứ có cái giá của nó, nhưng trước tiên cho chính người tha thứ: người đó phải lướt thắng điều xấu đã đến với mình, điều làm cho mình ray rứt và bây giờ sẽ cố gắng cùng với người phạm lỗi đi vào một tiến trình chuyển đổi và thanh tẩy nội tâm và cả hai phải cùng đau khổ vì điều xấu và lướt thắng nó. Ngay ở điểm này chúng ta gặp được mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô: Chúa phải trả giá bằng cái chết để đem lại cho chúng ta ơn tha thứ, Người mang lấy thương tích để chúng ta được chữa lành (x. Is 53,4-6).

 “Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Câu trả lời của Đức Kitô thật thú vị! Ta hãy làm một con tính: lấy 1440 phút của một ngày chia cho 490 lần là kết quả của 70 lần 7, thì trong một ngày cứ 3 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế tha thứ cho nhau là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Tha thứ không “quen” số lượng và không biết đến “chấm hết”. Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ.

Ngạn ngữ Đức có câu: “Nếu Chúa không khoan dung, thiên đàng sẽ trống rỗng”. Là những linh mục, mặc dù cùng chung một lý tưởng, một nền giáo dục, một chương trình đào tạo rất kỹ lưỡng và rất lâu dài, lâu hơn nhiều ngành nghề ở ngoài xã hội, nhưng chúng ta cũng vẫn là những con người xác thịt, không hoàn hảo, vẫn có những lời gây thương tích, có khi vô tình, có khi cố ý, những ác cảm tự nhiên, những tình huống trong đó các tính tự ái va chạm nhau. Nếu Đức Kitô đã thường xuyên đòi hỏi chúng ta phải tha thứ những xúc phạm, hẳn nhiên đó là vì Người nhìn thấy nơi sự tha thứ lý chứng vững chắc nhất của tình huynh đệ chân thật

Tha thứ là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu thường dạy cho nhóm môn đệ của Người. Có thể nói đó là một nét đặc trưng của giáo huấn Tin Mừng, phát xuất từ gương mẫu của Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu, cũng như từ bản chất của Hội Thánh là một cộng đoàn yêu thương huynh đệ. Nếu sự tha thứ là một bổn phận của các Kitô hữu đối với nhau, thì nó càng là bổn phận giữa hàng linh mục là những anh em với nhau trong chức thánh.

Tha thứ là tìm kiếm một cái nhìn mới về các mối tương quan giữa anh em với nhau. Sự tha thứ bao gồm một ý muốn sáng tạo, hay đúng hơn là tái tạo. Sáng tạo là tạo ra một cái gì mới từ cái không có. Cái không có mà từ đó phát xuất sự tha thứ chính là cái thiếu thốn hay cái trống rỗng mà lầm lỗi đã đem vào trong mối tương quan giữa ta với anh em. Tha thứ không phải chỉ là được giải thoát khỏi gánh nặng đau đớn của mình, nhưng cũng chính là giải thoát người khác khỏi gánh nặng của phán đoán nghiêm khắc mà ta có về họ, là khôi phục trong mắt ta phẩm giá của họ. Thế nhưng tha thứ quả là một hành động liều lĩnh, vì kẻ xúc phạm có thể khước từ sự tha thứ của ta, và như thế ta bị xúc phạm thêm một lần nữa. Sự tha thứ đích thực đòi hỏi một sự chiến thắng trên nỗi lo sợ bị xúc phạm thêm một lần nữa.

Ngoài ra, ta cũng phải loại bỏ mọi thứ kiêu căng tinh tế khi tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ không phải với thái độ trịch thượng, nhưng Người tỏ ra giản dị, khiêm tốn và cảm thông. Cùng với sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu cũng chấp nhận những khuyết điểm của con người. Người chấp nhận Phêrô mặc dù tính ông bốc đồng và hấp tấp. Người yêu Tôma dù ông cứng lòng tin. Để có thể tha thứ cho anh em thì trước hết chúng ta phải có kinh nghiệm được tha thứ. Chúng ta phải biết nhận ra rằng mình cũng có những khuyết điểm, bất toàn, tội lỗi, và cần được tha thứ. Đồng thời chúng ta cũng dễ dàng đón nhận cách khiêm tốn sự tha thứ và giúp đỡ của kẻ khác. Đừng bao giờ giành độc quyền tha thứ, nhưng hãy biết để kẻ khác tha thứ cho mình.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Giữa một xã hội đầy hận thù và bất khoan dung, làm thế nào để mọi người có thể nhìn thấy nơi linh mục hình ảnh sống động của một vị Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ?

2. Các linh mục có thể làm gương cho giáo dân về sự sám hối như thế nào? Việc xưng tội của linh mục nên được tổ chức cách nào cho thích hợp nhất?

3. Trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử, các linh mục có thể gặp những hiểu lầm, những xúc phạm từ phía giáo dân, cũng như chính linh mục làm cho giáo dân bị xúc phạm. Đâu là cách tốt nhất để thực hiện sự tha thứ và để được tha thứ?

4. Giữa anh em linh mục với nhau cũng có lúc không vừa ý, nhất là giữa cha xứ và cha phó. Phải làm hòa với nhau như thế nào để thể hiện tình huynh đệ linh mục và để tránh gây gương xấu cho giáo dân?

[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2839.
[2] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2631.

Lời nguyện thứ VI

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”


“Lời cầu xin này xuất phát từ điều trước, vì tội lỗi của chúng ta là kết quả của sự ưng theo cám dỗ... ‘Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Người cũng không cám dỗ ai’ (Gc 1,13), trái lại Người muốn giải thoát chúng ta khỏi cơn cám dỗ. Chúng ta cầu xin Người đừng để ta đi vào con đường dẫn đến tội lỗi”.[1] Khi chúng ta đọc: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, chúng ta tự nhủ mình xin điều đó, kẻo vì thiếu ơn Người trợ giúp, chúng ta hoặc bị lừa mà chiều theo cơn cám dỗ, hoặc vì sầu khổ mà chịu thua.

1. VỮNG TIN TRONG THỬ THÁCH

Trần gian mà chúng ta đang sống thường được coi như xa vời với những gì đức tin tuyên xưng; những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về những bất công và cái chết, dường như mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có thể làm cho đức tin bị nao núng và trở thành một cám dỗ đối với đức tin. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết phân định đâu là thử thách, vốn cần thiết để con người nội tâm tăng trưởng (x. Lc 8,13-15; Cv 14,22; 2Tm 3,12) và nhằm “thử thách nhân đức” (x. Rm 5,3-5), và đâu là cám dỗ dẫn đến tội lỗi và sự chết (x. Ga 1,14-15). Chúng ta còn phải biết phân định giữa “bị cám dỗ” và “thuận theo cám dỗ”. Con người cần được thử thách để trưởng thành. Thiên Chúa cho phép ma quỉ cám dỗ con người để thử thách họ và thanh luyện họ.

Sở dĩ Thiên Chúa để chúng ta bị cám dỗ là để phạt chúng ta vì những lỗi phạm, để chỉnh đốn sự kiêu ngạo của chúng ta, để chúng ta khám phá sự yếu kém của đức tin, của hy vọng và tình yêu của chúng ta, và để ngăn cản chúng ta khỏi những ảo tưởng cho rằng chúng ta vĩ đại nhờ vào những phương tiện của chúng ta.

“Cám dỗ cũng có cái lợi. Ngoại trừ Thiên Chúa, không ai biết được những gì tâm hồn chúng ta đã lãnh nhận, kể cả chính chúng ta, những điều đó được bộc lộ ra nhờ các cơn cám dỗ, kẻo chúng ta vẫn không biết mình cách đúng đắn, nhưng khi đã biết mình, chúng ta sẽ nhận ra tình trạng tệ hại của mình, và chúng ta phải tạ ơn Chúa vì những ơn lành được bộc lộ ra cho chúng ta nhờ các cơn cám dỗ”.[2]

Chúng ta không xin cho khỏi bị cám dỗ. Cám dỗ có một mục đích sư phạm: nó khiến chúng ta cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Có thể nói chính ma quỉ dạy ta cầu nguyện. Tuy nhiên, bị cám dỗ cũng là một trong những thử thách của con người. Đời sống chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế không thể không có thử thách. Phải qua thử thách ta mới tiến bộ, và không bị thử thách thì chẳng ai biết mình. Thử thách là điều kiện để được sống trong Đức Kitô (2 Tm 3,12), để đức tin tăng trưởng và trở nên vững mạnh, để biết khiêm nhượng (x. 1Cr 10,12), và để chân lý được biểu lộ (x. 1Cr 11,19),. Tắt một lời, đó là quãng đường của cuộc Vượt Qua nội tâm.

Trong lời cầu xin thứ sáu này, một mặt chúng ta nói lên sự sẵn sàng đón nhận gánh nặng của những thử thách vừa sức chúng ta. Mặt khác chúng ta cầu xin Thiên Chúa đừng để chúng ta bị thử thách quá sức và đừng để chúng ta lìa xa bàn tay từ ái của Người. Chúng ta nói lên lời cầu xin này trong sự tin tưởng mà thánh Phaolô đã động viên chúng ta: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10,13).

Trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết: “Những lời thánh Phêrô tông đồ chiếu dọi một tia sáng cuối cùng trên đức tin: ‘Trong thời ấy anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự’ (1Pr 1,6-7)”.[3]

2. LINH MỤC VÀ NHỮNG CÁM DỖ

“Thư gửi tín hữu Do-thái khẳng định rõ ràng bản tính con người nơi thừa tác viên của Thiên Chúa: từ loài người mà đến và phục vụ loài người, noi gương Chúa Giêsu Kitô là Đấng ‘đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội’ (Dt 4,15)”.[4]

Cám dỗ là sự xúi giục của kẻ thù nhằm tách lìa chúng ta khỏi Chúa Cha, mặc dù tên cám đỗ không nói rõ như thế. Trong hoang địa ma quỉ không cám dỗ Chúa Giêsu vi phạm một điều luật nào đặc biệt. Nó chỉ muốn tách Người khỏi Cha Người, khỏi sứ mệnh mà Cha Người đã giao. Trong vườn cây dầu Chúa cũng không bị cám dỗ lẩn tránh cái chết, nhưng bị cám dỗ không tuân hành ý muốn của Chúa Cha. Ma quỉ không cám dỗ Chúa Giêsu làm điều xấu, vì như thế là quá vụng về thô thiển. Nó chỉ cám dỗ Người làm điều tốt theo kiểu trần gian, chứ không theo ý Chúa Cha và không phù hợp với sứ mạng của Người.

Đó là những cám dỗ mà Đức Giêsu đã trải qua với tư cách là Đấng Mêsia, là người lãnh đạo. Chúng thường được gặp thấy nơi các cám dỗ mà các linh mục gặp phải trên con đường thi hành sứ vụ mà Đức Kitô đã giao phó. Chúng ta thử xem xét các cơn cám dỗ tiêu biểu của các linh mục theo lược đồ các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca (x. Lc 4,1-13).

Cám dỗ thứ nhất: thi hành sứ vụ thiên sai bằng cách chỉ quan tâm đến các nhu cầu vật chất của con người và tìm hưởng thụ cá nhân. Trong thông điệp Centesimus annus, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Ước muốn có một cuộc sống tốt hơn không phải là xấu, nhưng điều xấu chính là lối sống tự cho là tốt hơn khi nó hướng tới ‘cái có’ (như của cải, tiện nghi, phương tiện máy móc), thay vì hướng tới ‘cái là’ (như nhân phẩm, lương thiện, trách nhiệm, tình bạn, tình liên đới) và khi người ta muốn có nhiều hơn không phải để ‘là’ nhiều hơn, nhưng là để hoàn thành cuộc sống bằng hưởng thụ, coi đó như mục đích của cuộc đời”.[5]

Trong tông huấn Pastores dabo vobis ngài cũng viết: “Quan niệm ‘sống thoải mái’ hiểu theo nghĩa vật chất có khuynh hướng trở thành lý tưởng độc nhất của cuộc đời, một lối ‘sống thoải mái’ phải đạt được với bất cứ điều kiện nào và với bất cứ giá nào. Hậu quả là từ chối mọi hy sinh, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những giá trị tinh thần và tôn giáo”.[6]

Theo thánh Gioan Maria Vianney, không thể có chuyện linh mục làm việc cầm chừng, làm việc vừa đủ với bổn phận thôi, để đời sống được dễ dãi thoải mái. Cám dỗ bằng lòng với cái tối thiểu là cám dỗ rất nguy hiểm, nó hạ thấp lý tưởng linh mục, làm nguội nhiệt tình và người linh mục rảnh rỗi dễ bị sa vào những điều không tốt.

Cám dỗ thứ hai: thực hiện sứ vụ thiên sai bằng con đường quyền bính theo kiểu chính trị các nước. Độc đoán, chuyên quyền, có lẽ là cám dỗ lớn đối với hàng linh mục, bởi vì quyền bính của các ngài còn mang thêm một hào quang thần thánh. Các ngài dễ bị cám dỗ đưa cả quyền bính thiêng liêng vào những lĩnh vực không có gì liên quan đến quyền bính đó, để rồi dễ dàng áp đặt ý kiến và sở thích của mình cho giáo dân.

Trong 1Tm 5,1-2, thánh Phaolô đã nhắn nhủ môn đệ mình: “Đừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha, hãy coi các thanh niên như anh em, các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em với tấm lòng hoàn toàn trong sạch”.

Cám dỗ thứ ba: thi hành sứ vụ thiên sai bằng con đường ngoạn mục, bằng những hành động nổi trội để được tiếng khen. Đây cũng là cám dỗ của chủ nghĩa duy hoạt động: “Cám dỗ đưa thừa tác vụ của mình đến chỗ lấy chủ trương duy hoạt động làm cùng đích, để cho thừa tác vụ bị xâm chiếm một cách vô ngã bởi đủ loại sự việc, cho dẫu có thiêng liêng và linh thánh đến đâu, hoặc còn giản lược thừa tác vụ thành một thứ việc làm của công chức phục vụ cho tổ chức giáo sĩ”.[7] Người theo chủ nghĩa duy hoạt động sẽ không biết đến cầu nguyện. Trong các cám dỗ, cám dỗ không cầu nguyện là căn bản và đáng sợ nhất.

3. NHỮNG PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

1. Cầu nguyện

Phương thế tốt nhất để khỏi sa chước cám dỗ là cầu nguyện, tức là gắn bó với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong vườn cây dầu: “Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (Mt 26,41). “Đối với các môn đệ, cầu nguyện là một cuộc chiến đấu trong sự hiệp thông với Thầy mình, và chính nhờ tỉnh thức trong cầu nguyện mà ta không sa chước cám dỗ (x. Lc 22,40-46)”.[8]

Thiếu cầu nguyện là lý do hàng đầu xét theo thời gian cũng như tầm quan trọng trong việc sa ngã của Phêrô và của các linh mục. Đời sống thiêng liêng của linh mục sa sút thì thế nào hành động cũng đến thay thế việc cầu nguyện. Phêrô không cầu nguyện mà chỉ biết tuốt gươm, một việc mà Chúa Giêsu không khen chút nào.

2. Hãm mình

Khi bỏ việc hãm mình và chỉ biết thỏa mãn những sở thích, cảm xúc, tiện nghi, linh mục sẽ dần dần xuống dốc và rồi sẽ rơi vào tình trạng nguội lạnh. Phêrô tìm một chỗ ấm áp gần bếp lửa, lúc đầu ông còn đứng, sau ông ngồi (Mc 14,54).

3. Trung thành với nhiệm vụ

Linh mục sẽ sa ngã hoàn toàn nếu ngài để mình rơi từ chểnh mảng này đến chểnh mảng khác: lôi thôi trong đời sống kinh nguyện, xa dần Chúa Giêsu Thánh Thể, không đề phòng dịp tội và sau cùng đem tạo vật vào thế chỗ của Chúa Kitô.

4. Khôn ngoan

Cám dỗ là một sự lừa dối của ma quỉ. Để chiến thắng, cần có sự khôn ngoan.

5. Sức mạnh của trái tim

Để khỏi sa chước cám dỗ, cần phải có một sự cương quyết của trái tim. “Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý”.[9]

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Ngoài những cám dỗ làm điều xấu mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra và tránh được, nhiều lúc chúng ta cũng bị cám dỗ làm điều tốt theo ý mình. Những cám dỗ loại ấy thường xuất hiện dưới hình thức nào? Phương thế thắng vượt?

2. Cám dỗ về đức khiết tịnh mặc dù chỉ là một trong những cám dỗ mà ai ai cũng gặp phải, tuy nhiên các tín hữu Việt Nam thường khó chấp nhận các linh mục sa ngã trong lãnh vực này. Vì vậy các linh mục cần phải làm gì để có thể giữ mình trong sạch?

3. Khi một linh mục sa ngã hay mang tiếng xấu về một vấn đề nào đó, chúng ta phải giúp đỡ hoặc đối xử với người ấy như thế nào cho phù hợp với tình huynh đệ linh mục?

4. Ngoài những chước cám dỗ, đâu là những thử thách lớn trong cuộc đời linh mục? Làm cách nào để vượt qua?

[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2846.
[2] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2847.
[3] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 15.
[4] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 5.
[5] GIOAN PHAOLÔ II, Centesimus annus, số 41.
[6] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 8.
[7] GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 72.
[8] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2612.
[9] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 1808.

Lời nguyện thứ VII

“Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”


Lời cầu xin này được bao hàm trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15). Với lời cầu xin cuối cùng này chúng ta trở lên với ba lời cầu xin đầu: khi chúng ta cầu xin được giải thoát khỏi quyền lực của sự ác, cuối cùng chúng ta cũng cầu xin cho vương quyền của Thiên Chúa mau đến, cho chúng ta được hợp nhất với ý muốn của Thiên Chúa và xin thánh hóa danh thánh Người. Lời cầu xin này mời gọi chúng ta cộng tác với quyền lực của Thiên Chúa để phá vỡ quyền lực của sự dữ đang hoành hành trong thế giới.

1. TIN VÀO QUYỀN NĂNG VÀ SỰ TOÀN THẮNG CỦA THIÊN CHÚA

Lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha lấy lại lời cầu xin thứ sáu và triển khai theo chiều hướng tích cực, vì thế cả hai lệ thuộc lẫn nhau. Nếu trong lời cầu xin thứ sáu, thuật ngữ “đừng” nổi bật, thì trong lời cầu xin này chúng ta đến với Cha bằng hy vọng chính yếu của đức tin: “Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34,20). Đây là lời cầu xin ơn giải thoát, ơn cứu độ.

Chúng ta mong được giải thoát khỏi điều gì? Bản dịch mới của kinh Lạy Cha nói về sự dữ không phân biệt giữa “cái xấu” và “kẻ xấu”, “sự dữ” và “ác thần”. Thực ra cả hai không thể tách rời nhau được.

Theo Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, “trong lời cầu xin này, sự dữ không phải là một điều trừu tượng nào đó, nhưng là một cá vị, là Satan, là ác thần, là thiên thần đã chống lại Thiên Chúa. Ma quỉ (tiếng Hy-lạp là dia-bolos) là “kẻ phá ngang” kế hoạch của Thiên Chúa và “công trình cứu độ” của Người được thực hiện trong Đức Kitô”.[1]

Trong kinh Lạy Cha, lời nguyện “xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ” nối tiếp lời nguyện “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Do đó sự dữ ở đây chính là tên cám dỗ, là ác thần hay ma quỉ. Chước cám dỗ nhằm tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa và chương trình tình yêu của Người. Trong sách Sáng thế, chính ma quỉ đã cám dỗ tổ tông loài người đứng độc lập với Thiên Chúa. Chính Đức Kitô cũng cầu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ác thần và luôn gắn bó với Thiên Chúa: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng...Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,11-12.15).

“Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Cuộc chiến thắng trên “thủ lãnh thế gian này” (Ga 14,30) đã hoàn tất một lần cho mãi mãi vào giờ Chúa Giêsu tự nguyện nộp mình chịu chết để ban cho chúng ta sự sống của Người. Đó là lúc phán xét thế gian này và thủ lãnh thế gian này “bị tống ra ngoài” (Ga 12,31; Kh 12,10).

Người ta không thể không để ý đến hoạt động xấu xa của ác thần, bởi vì Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện để khỏi rơi vào quyền lực của nó, cho dù người ta không thể xác định hay định vị sự hiện diện của nó. Điều thiết yếu là phải tin rằng ác thần không làm gì được những kẻ tin. Sức mạnh của nó tỉ lệ nghịch với sức mạnh của đức tin.

Hơn ai hết, thánh Phaolô đã cảm nghiệm được sự che chở của Thiên Chúa và Người đã nói lên xác tín của mình trong Rm 8,31-39. Người muốn truyền đạt sự xác tín ấy cho các tín hữu khi viết: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?... Nhưng trong mọi thử thách ấy chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 9,31.37). Thiên Chúa quyền năng có thể biến sự dữ nên sự lành cho những kẻ yêu mến Người.

Khi xin được giải thoát khỏi ác thần, chúng ta cũng xin được cứu khỏi mọi sự dữ trong hiện tại, quá khứ và tương lại, do ma quỉ là thủ phạm hay kẻ chủ mưu. Trong lời cầu xin cuối cùng này, Hội Thánh mang đến trước Chúa Cha mọi nỗi khốn cùng của trần gian. Trong thánh lễ, sau lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha, Hội Thánh tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn, đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con”.

Trong tự sắc Porta fidei, Đức Thánh Cha Benêđictô XVI đã đại diện cộng đồng dân Chúa tuyên xưng trong Năm Đức Tin: “Chúng ta mạnh mẽ tin chắc rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Với niềm tín thác chắc chắn ấy, chúng ta tín thác nơi Người: Chúa hiện diện giữa chúng ta, chiến thắng quyền lực của ác thần (x. Lc 11,20)”.[2]

2. LINH MỤC VÀ CUỘC CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ ÁC

“Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán (x. Mt 24,13; 13,24-30.36-43). Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của Chúa”.[3]

Sự dữ là nguyên nhân gây ra sự chết, sứ vụ của linh mục là tiếp tục công trình của Chúa Kitô: mang lại sự sống cho nhân loại. Do đó, việc chiến thắng sự dữ là yếu tố cần thiết quan trọng của đời linh mục. Chúa đã trao cho các tông đồ quyền trừ quỉ, chà đạp rắn rết bọ cạp.

Yếu tố giúp linh mục chiến thắng sự dữ chính là việc kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô là phương thế duy nhất để linh mục sống trọn vẹn căn tính của mình, một căn tính đâm chồi nẩy lộc trong sự thánh thiện.

Người ta kể lại rằng trong cuộc chiến tranh chiến hào (guerre des tranchées) thời đệ nhất thế chiến, lính bộ binh bị trọng pháo đối phương nã vào liên tục, chỉ còn một giải pháp là chạy trốn về phía trước. Đó là điều thánh Phaolô gọi là: không chịu thua sự ác, nhưng lấy sự lành thắng sự ác (Rm 12,21). Phải tìm một lối thoát bằng cách tăng thêm đức tin và đức cậy, bằng một đời sống thánh thiện hơn, hãm mình hơn, dâng hiến hơn. Không có lối thoát nào khác.

Là thầy dạy đức tin, các linh mục phải chiến thắng ác thần bằng đức tin, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần” (Ep 6,16), bởi lẽ đức tin giúp chúng ta gắn bó với Đức Kitô là Đấng đã chiến thắng ác thần qua cái chết và cuộc Phục sinh của Người. Thánh Phêrô cũng có một lời khuyên tương tự: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9).

3. LINH MỤC VÀ ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

Linh mục lãnh đạo cuộc chiến chống lại sức mạnh và sự tàn phá của ác thần. Thế nhưng linh mục vẫn chỉ là một con người tội lỗi và yếu đuối. Vì thế linh mục cần phải có đức khiêm nhường, để nhìn nhận những yếu đuối bất toàn của mình và hoàn toàn cậy dựa và sức mạnh của Thiên Chúa. Đặc tính và cũng là điểm yếu của ma quỉ là sự kiêu ngạo. Vì thế chỉ có đức khiêm nhường mới giúp ta thắng được ma quỉ.

 “Khi chúng ta đọc: ‘Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ’, chúng ta bảo mình phải nghĩ rằng chúng ta chưa ở trong tình trạng hoàn hảo khiến chúng ta không còn phải chịu sự dữ nào nữa. Lời cầu xin này được đặt ở cuối kinh Lạy Cha hiển nhiên là để giúp người tín hữu khi gặp bất cứ cơn khốn khó nào, cũng biết dùng câu này mà than thở, mà khóc lóc; biết bắt đầu cầu nguyện từ câu đó, dừng lại trong đó và kết thúc ở đó”.[4]

Chắc chắn mỗi người trong hàng linh mục chúng ta cũng đã nhiều lần cảm thấy thấm thía sự kém cỏi và bất lực của mình trước nhiệm vụ cao cả mà Chúa giao phó. Trước hết, linh mục vẫn mang thân phận con người yếu đuối, hậu quả của việc nguyên tổ nghe theo thần dữ. Chúng ta được thánh hiến trong chức linh mục, nhưng chúng ta chẳng phải là những siêu nhân, những thánh sống, mà chỉ là những con người bình thường, những con người mà người ta có thể gặp thấy trong đám đông quần chúng, nghĩa là vừa tốt vừa xấu.

Ngày xưa, do hoàn cảnh xã hội, chúng ta có thể vượt xa đám đông người đời. Ngày nay số người vượt trội chúng ta ngày càng nhiều trên nhiều lãnh vực: chẳng những lãnh vực văn hóa, khoa học, kỹ thuật, mà cả về đạo đức và nhiệt tình tông đồ. Ngay như kiến thức về thần học và kinh thánh, chúng ta cũng không còn độc quyền nữa, một số giáo dân ngày nay còn hơn chúng ta. Ở Tây phương, các linh mục thường cảm thấy thừa thãi, vô ích, lạc lõng, vì ít ai cần tới mình.

Ngày xưa Chúa đã không chọn những người xuất sắc để làm tông đồ. Chúa đã chọn những người tầm thường về học thức, ngay cả về đạo đức nữa. Chúa thường chọn những cái yếu hèn trước mặt thế gian. Chính thánh Phaolô đã rút ra qui luật này từ kinh nghiệm bản thân của Người (x. 1Cr 1,28; 2Cr 11,30; 12,5).

Khi ta cảm nghiệm sự bất lực của mình cách chân thành và thấm thía nhất, thì lòng tin của ta nơi Chúa và sức mạnh của Người sẽ được nên tinh tuyền hơn. Chính trong nỗi thất bại và yếu đuối mà chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn hơn. Trái lại, khi mọi sự đều được như ý, khi chúng ta gặp nhiều thành công, thì có lẽ chúng ta sẽ lấy làm hài lòng mà nghĩ rằng mình đã làm việc nhiều cho Chúa, trong lúc thực ra có lẽ chúng ta chỉ làm việc cho mình, chỉ tìm kiếm vinh quang cho mình.

Sự bất cân đối giữa thực lực của chúng ta và sứ mạng cứu thế mà Chúa giao phó được bù đắp bởi lòng nhân từ và quyền năng vô hạn của Chúa, nhưng nó được bù đắp nhiều hay ít tùy theo mức độ lòng tin của chúng ta. Hãy nhìn vào Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta, hơn là nhìn vào sức riêng hay cậy dựa vào cái gì khác, chúng ta sẽ giữ được niềm tin và nghị lực để tiến bước.

Giáo Hội chúng ta hiện nay có lẽ gần với Giáo Hội thời các tông đồ, và đó là một điều may mắn cho chúng ta. Chúng ta như bị đẩy dần vào thế phải tin cậy vào Chúa Thánh Thần hơn. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy Thánh Thần luôn có mặt trong những lúc khó khăn và vào những thời điểm quyết định.

ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

CÁC ĐỂ TÀI THẢO LUẬN

1. Hiện nay tại Việt Nam có nhiều hiện tượng “quỉ nhập”. Chúng ta phải lý giải như thế nào và làm cách nào để giúp các tín hữu khỏi lo sợ và nao núng đức tin?

2. Ngày nay sự ác đang lan tràn trong xã hội và len lỏi vào đời sống các tín hữu. Các linh mục phải có những biện pháp nào để giúp họ nhận ra và chống lại các sự ác ấy?

3. Một trong những sự ác đang hoành hành tại Việt Nam là nạn phá thai. Chúng ta phải làm cách nào để giúp giáo dân ý thức về tính nghiêm trọng của nó và tìm được những phương thế khả thi để chống lại nó?

4. Linh mục vừa cao cả vừa yếu hèn, vừa là cha vừa là tôi tớ phục vụ mọi người. Từ đó các linh mục phải cư xử thế nào cho thích hợp với giáo dân thuộc mọi lứa tuổi và với những người ngoài công giáo?


 Thay lời kết


Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược. Chúng ta đã cùng nhau đọc xuôi, bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.

Giờ đây chúng ta cùng đọc ngược kinh Lạy Cha, để đi lại lộ trình đức tin của dân Do-thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:

1. Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ.

Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai-cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.

2. Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ.

Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, dân Do-thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do-thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.

3. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi  tội lỗi của chúng ta.

Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do-thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.

4. Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta.

Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do-thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.

5. Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện.

Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do-thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

6. Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta.

Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.

7. Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời.

Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do-thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”.
ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi

[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2851.
[2] BÊNÊĐICTÔ XVI, Porta fidei, số 15.
[3] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Gaudium et spes, số 37.
[4] Trích thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơ-rô-ba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335.

Tác giả bài viết: + GM Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Nguồn tin: Gpquinhon.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét