CHÚA NHẬT 10/03/2013
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY năm C
(Phần II)
SỐNG
LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT
IV MÙA CHAY
(Lc 15,1-3.11-32)
Dẫn
Chúa là Người Cha nhân hậu, giàu lòng lòng
yêu thương, cảm thông và sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta, một khi
chúng ta nhận ra sai lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống. Đó là nội dung của sứ
điệp lời Chúa hôm nay gởi đến chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu
của Chúa mà quyết tâm từ bỏ tội lỗi, quay về sống trong ân sủng của Người.
Chia sẻ
Người đời thường nói: con cưng là con hư.
Nếu cưng không đúng cách sẽ làm hư hỏng con cái.
Nhưng con đã hư rồi thì liều thuốc duy nhất
để chữa là tình thương.
Tin mừng hôm nay, không trình bày cho chúng
ta biết trước khi hai người con hư, người cha đã yêu thương chúng như thế nào.
Nhưng chỉ cho ta biết, người cha đã dùng tấm lòng yêu thương tha thiết để cảm
hóa hai đứa con sau khi chúng đã ra hư đốn.
Người con thứ: Nhẫn tâm cắt đứt tình cha và
sẵn sàng bỏ nghĩa anh em, gom lấy nữa phần gia sản gia đình ra đi phiêu lưu tìm
cảm giác lạ.
Từ nay thay vì ngủ nhà cha, anh ngủ nhà
trọ. Thay những bữa cơm đơn sơ ở nhà cha bằng những bữa tiệc linh đình nơi nhà
hàng sang trọng. Thay vòng tay yêu thương chân tình của cha già, bằng những
vòng tay ân ái gian trá của các kiều nữ trẻ trung xinh đẹp.
Nhưng khách sạn dù có thoải mái, cơm nhà
hàng dù có sang trọng đặc biệt, và nằm trong vòng tay của các kiều nữ chân dài
dù êm ái, thì rồi anh cũng chẳng thấy bình an và hạnh phúc. Kết quả của phiêu
lưu tìm cảm giác lạ trong thác loạn đã làm anh tan gia bại sản, thân xác tiều
tụy và đau khổ, kiếp sống không ra con người.
Dẫu thế tình cha vẫn ấm áp như ngày nào.
Vui mừng chào đón người con như thượng khách. Sẵn sàng tha thứ, yêu thương.
Tình yêu vẫn nguyên vẹn tha thiết và nồng nàn như xưa.
Người con cả cũng chẳng hơn gì đứa em hư
hỏng. dù cần cù lam lũ, không hề bất tuân lệnh cha. Nhưng trong đầu anh lại có
nhiều toan tính, lòng anh còn đầy ích kỷ và ghen tỵ. Trong khi mọi người vui
mừng vì em mình "đã chết nay sống lại đã mất nay tìm thấy". Vậy mà
anh lại kể công và phân bì với em mình cùng cha già. Trong khi người cha không
hề coi anh là người ngoài thì chính anh lại xem mình là kẻ xa lạ vì không thừa
nhận mình là con cha và là người anh của đứa con thứ: “ Cha coi đã bao năm con
hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ Cha cho lấy một con bê con để ăn mừng với bạn
bè. Còn thằng con cha kia ( không phải là em con), sau khi nuốt hết của cải của
cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.
Thấu hiểu hết lòng con, người cha ra năn nỉ
con vào chia sẻ niềm vui và ân cần giải thích cho con hiểu rằng: nó là em con
và con là con cha. Cha muốn con vui trong phận làm con và làm anh và hãy vui
mừng và hãnh diện vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hình ảnh của hai đứa con trong dụ ngôn có
lúc cũng hiện diện nơi mỗi chúng ta. Có lúc ta cũng muốn chối bỏ Chúa, bỏ đạo,
bỏ nhà thờ. Có lúc chúng ta cũng muốn phiêu lưu tìm cảm giác lạ quá độ của bia
rượu, thuốc lá, cà phê, trai gái, bất trung và sa đoạ như đứa con thứ. Cũng lắm
lúc chúng ta sống trong ít kỷ tham lam toan tính, tìm lợi mình, muốn hại người.
nuông chiều và nuôi dưỡng lòng ghanh tị. Cảm thấy khó chiụ khi ai đó giàu hơn
chúng ta, giỏi hơn chúng ta, đạo đức hơn chúng ta, được nhiều người thương mến
hơn chúng ta.
Chúa Người Cha thấu hiểu lòng của mỗi chúng
ta. Nhưng Chúa cũng là Đấng giàu lòng yêu thương tha thứ, mong muốn ta nhận ra
lầm lỗi mà sửa đổi. Mùa chay là mùa trở về, xin cho chúng ta biết bỏ đi con
đường đi hoang tội lỗi mà can đảm quay về nhà Cha để cảm nhận tình của Cha yêu
ta là dường nào. Nhờ thế ta quyết tâm đổi mới đời sống mỗi ngày nên tốt hơn,
hầu xứng đáng với tình yêu của Cha dành cho chúng ta.
Giáo
Lý Phúc Âm - CHÚA NHẬT IV MÙA
CHAY NĂM C - ngày 10.3.2013
Sách
Giôsuê 5, 9a, 10-12; Thư II Thánh Phaolô gửi Côrintô II Cor.5,17-21
và Phúc
Âm Luca 15, 1- 3, 11-32
I. Giáo Huấn P.Â.:
Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ và hay tha thứ.
Tội lỗi là bất hạnh, là xa rời tình thương Chúa như người con hoang bỏ nhà ra
đi.
Tội lỗi đưa con người vào cảnh đói khổ, rách rưới, nô lệ và bị bỏ rơi cô đơn
trần trụi.
Sám
hối có nghĩa là quay về với Chúa là Cha. Chỉ có nơi Chúa, nơi nhà Cha mới có
tình thương, có hạnh phúc và có tương lai. Đứa con hoang được vui mừng đón nhận,
phục hồi quyền làm con: đeo nhẫn, mang giày mới và tương lai thừa kế gia
sản.
Ai cũng có tội. Ai cũng có lúc bỏ nhà Cha và đi hoang. Xin luôn nhớ: Không
có ai bằng Chúa, không đâu bằng nhà Cha mình. Nơi Chúa, nơi nhà Cha, người ta
được hưởng tình yêu thương và tương lai được thừa hưởng hạnh phúc thiên đàng.
II. Vấn nạn P.Â.
“Những người thu thuế và những người tội
lỗi thường đến gần Chúa Giêsu mà nghe Người” Họ như thế nào trong xã hội? Tại
sao Chúa lại thích gần gũi với họ?
Những người thu thuế thường cũng được gọi
là publicans. Ngữ nguồn từ tiếng La-tinh publicus, có nghĩa là người trông nom
những nơi công cộng như quán rượu, nhà cửa, dinh thự công cộng. Trong Kinh
Thánh Tân Ước và trong thế kỷ đầu công nguyên, người thu thuế là người làm việc
cho đế quốc La Mã. Họ được xếp vào hạng người bất chính và tội lỗi. Bất chính
vì làm việc cho đế quốc La Mã, chuyên thu thuế bóc lột dân nghèo. Tội lỗi vì
thường lấy thuế quá luật qui định, gian tham để có cuộc sống sung túc trên
xương máu của người khác.
Nên chúng ta thấy Phúc Âm hôm nay nói:
“Những người thu thuế và những người tội lỗi” coi như
là một hạng người. Hay nói khác đi: Thu thuế là tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy rõ cái nhìn nầy nơi Phúc Âm Luca 18:9-14 tường thuật
câu chuyện người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi lên đến thờ cầu
nguyện. Nhìn nhận mình là tội nhân nến người thu thuế đứng cuối nhà thờ âm thầm
cầu nguyện, đấm ngực xin ơn tha tội. Còn người Pharisêu tự cho mình là công
chính, đứng giữa nhà thờ lớn tiếng kể công và đòi phần thưởng.
Luca 5,27-32 thuật lại câu chuyện chúa kêu
gọi Lêvi đang hành nghề thu thuế. Ông bỏ mọi sự, mời Chúa
về nhà dùng bữa và theo làm tông đồ Chúa. Matthêu, Tông Đồ
và thánh sử. Luca chương 19 tường thuật chuyện Ông Giakêu, viên thu thuế
giàu có, tò mò leo lên cây cao để nhìn trộm Chúa. Chúa phát hiện, đến trọ ở nhà
Ông. Ông tự nguyện phân phát của cải cho người nghèo và đền bù cân xứng cho
những ai bị bóc lột. Chúa đã tuyên bố “Ơn cứu độ đã đến với nhà nầy” Phúc Âm
cũng không quên tường thuật chi tiết là người Do Thái sầm xì vì Chúa đến dùng
bữa nơi nhà người thu thuế tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đối với họ, “thật chướng
mắt vì Chúa đồng bàn với phường tội lỗi!”
Nhưng Chúa Giêsu lại thích qua lại và làm
bạn với những người bị coi là tội lỗi. Vì đó là sứ mệnh của Chúa Giêsu:
Chúa được sai đến với chiên lạc nhà Israel như trong Phúc Âm
Matthêu 15, 24
Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải người công chính
như trong Luca 5, 32 và trong Phúc Âm Gioan 3,17.
Chúa như người chủ chiên nhân hậu sẵn sàng bỏ 99 con chiên không
lạc để băng rừng vuợt suối tìm cho được con chiên lạc và khi tìm được thì vác
trên vai … như trong Matthêô 18:12-14 và Luca 15:3-7
Những người tội lỗi, thu thuế và đỉ điếm… nếu biết sám hối sẽ vào Nước Thiên
Chúa trước những người tự cho mình là công chính hay tự hào mình thuộc dòng dõi
Abraham như trong Matthêô 21:28-32 hay trong Matthêô 7, 21
Những thợ làm vườn nho cũ bất trung và sát nhân đã bị thay thế
bằng dân tộc mới, dân của thời đại Tân Ước như trong Luca 20, 9-19.
Mọi người được kêu gọi vào dự tiệc cưới, được mời gọi chung hưởng hạnh
phúc nước trời trong Luca 14,12-24
“Hoang đàng tức bỏ nhà đi. Bỏ nhà đi có nghĩa là bỏ cả Cha Mẹ. Sao trong
Phúc Âm chỉ nói đến cha mà không nói đến mẹ? Không lẽ chỉ có Cha mới tỏ lòng
nhân hậu mong con hoang trở về? Còn người Mẹ của đứa con hoang thì sao? Chúa
không có phái tính nhưng lại hay so sánh với người Cha?
Dụ ngôn thường được định nghĩa là một
câu chuyện giả tưởng nhưng lại rất gần với thực tế cuộc sống. Dụ ngôn được dùng
để làm cho thính giả hay đọc giả hiểu được dễ dàng những sự thật luân lý hay
tôn giáo mà tác giả muốn trình bày.
Người ta đếm được tới 37 dụ ngôn
trong Tân Ước được Chúa Giêsu dùng để diễn đạt chân lý đức tin hay luân lý
mà Chúa muốn truyển đạt cho dân chúng thời bấy giờ. Phúc âm nói rõ là dân chúng
hiểu chúa nhắm ai trong dụ ngôn Chúa kể. Trong dụ ngôn những tá điền bất trung,
Mt 21:33-46; Mk 12:1-12; Lk 20:9-19, người Biệt Phái hiểu là Chúa muốn chỉ
trích họ.
Dụ ngôn con trai hoang đàng không
là chuyện thật. Sự thật mà Chúa muốn trình bày qua dụ ngôn
là Thiên Chúa nhân hậu và giàu lòng thương xót. Chúa như Cha
Mẹ luôn muốn điều tốt đẹp cho con mình, sẵn sàng tha thứ và trả lại cho
con mình những gì đã bị mất mát do lỡ dại đi hoang hay do sa ngã phạm tội. Câu
nói “Chúa như Cha Mẹ” không có ý xác định Chúa là cặp vợ chồng có phái tính nam
và nữ. Khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người con trai hoang đàng và người Cha nhân
hậu, không có nghĩa là Chúa phớt lờ vai trò của người Mẹ. Nhưng đây là cảnh mà
người ta thấy xảy ra trong cuộc sống: Người Cha là chủ gia đình, điều khiển gia
đình và có trách nhiệm tạo lập gia sản và phân chia gia sản cho con cái. Đương
nhiên có vai trò của người Mẹ, của phụ nữ, nhưng rất mờ nhạt theo phong tục
thời bấy giờ. Thí dụ Phúc Âm Marcô 6, 34-44 nói: Chúa hoá bánh ra nhiều nuôi
năm ngàn người ăn no, không kể đàn bà và trẻ con.
Người Do Thái thời Chúa Giêsu, sống dưới
ách đô hộ của đế quốc La Mã, chắc chắn họ không tránh khỏi ảnh
hưởng của văn hoá và tập tục Roma. Người La Mã nỗi tiếng về trật tự xã hội và
quyền lãnh đạo. Quyền tối thượng của đế quốc là nơi hoàng đế La Mã. Quyền tối
thượng trong mỗi gia đình là nơi người Cha gọi là paterfamilias và người Cha có
quyền tề gia, gọi là Patria potestas. Chỉ có người Cha là gương mặt nỗi bật
trong mỗi gia đình. Ông có toàn quyền xếp đặt việc học, việc làm, việc cưới hỏi
và việc thừa hưởng gia sản cho con cái ông. Vai trò người phụ nữ hoàn mờ nhạt.
Phụ nữ thời ấy sống trong âm thầm và tùng phục.
So sánh Chúa như người Cha nhân hậu
hay gọi Chúa là Cha như trong Kinh Lạy Cha, hay Chúa Giêsu cầu
nguyện trong vườn cây dầu, nói “Xin Cha cất chén đắng nầy xa con…” hay trong
cơn hấp hối trên cây Thánh Giá, Chúa thều thào “Cha ơi, sao Cha bỏ con…” Tất cả
là Cha chứ không có mẹ. Dù gọi Thiên Chúa Cha là Cha, nhưng Chúa Giêsu
không có ý nói Cha mình là đàn ông. Vả lại Thiên Chúa vô hình thì làm sao có
phái tính? Chúng ta là những người theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa
là Cha và dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha. Chúng ta không có cách
chọn lựa nào khác. Nên sẽ rất sai lầm khi có người cầu nguyện “Lạy Cha Mẹ chúng
con ở trrên trời…” để gọi là bốc thơm phụ nữ trong xã hội Lady First nầy.
Dụ ngôn là chuyện không
có thật, nhưng gần với cuộc sống, được dùng để diễn đạt một chân
lý tôn giáo có thật. Từ thời đó cho tới nay ai cũng hiểu dụ
ngôn người con hoang đàng và người Cha nhân hậu theo lối dùng dụ ngôn của Chúa
Giêsu. Nên nếu chúng ta để cập đến phái tính tức phải có cả Cha lẫn mẹ thì sẽ
là hình ảnh rất xa lạ với cuộc sống thời ấy. Nếu thế, Phúc Âm sẽ phải nói là:
Xin Cha Mẹ chia gia tài cho con…thì sẽ thành chuyện không thể có trong cuộc
sống thời đó. Cũng như Chúa phải dùng dụ ngôn con trai hoang đàng chứ không thể
có dụ ngôn con gái hoang đàng. Vì không thể có chuyện con gái đi hoang trong xã
hội thời bấy giờ.
Ý nghĩa của việc “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay,
xỏ dép vào chân cậu, rồi bắt bê béo làm thịt ăn mừng vì…?
“Người Cha đã chia của cải…Ít ngày sau,
người con thứ thu xếp tất cả và trảy đi phương xa..”
Người ta thắc mắc và đổ thừa cho người Cha: Biết con trai mình sắp rời
khỏi nhà đi hoang, tại sao không cản mà còn chia phần gia tài…người Cha có
lỗi trong việc con trai mình đi hoang.
Không đúng!
Phúc âm nhằm trình bày một quyết định đầy tự do của người con trai
thứ. Chính anh chọn con đường xa rời nhà Cha mình để đi theo con đường mình
hoạch định. Một hành động xấu chỉ thành tội khi chúng ta tự do chọn làm điều
xấu. Nên khi người con hoang quay về đã thú tội “con thật đắc tội với Trời
và với Cha!”
Khi
chọn xa rời nhà cha mình với phần gia sản được chia, người con trai
đã chính thức cắt đứt quan hệ phụ tử tình thâm với Cha
già và tự khai trừ mình khỏi gia đình. Nên khi quay về, anh ta
chỉ mong được làm đầy tớ, tức người không còn phần thừa tự gia sản.
Mặc áo đẹp, xỏ nhẫn vào ngón
tay, mang dép mới, giết bê béo ăn mừng… là những
cử chỉ không chỉ để chưng diện cho đứa con hoang tã tơi.
Giết bê béo ăn mừng không chỉ là bữa tiệc chia vui với xóm giềng. Tất cả là một
nghi thức chính thức tái tạo tình phụ tử và quyền thừa kế cho người con đi
hoang “Vì con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” Chỉ có
con cái trong nhà, nhất là con trai thừa tự mới được mặc áo đẹp, mới được đeo
nhẫn… Người Cha phục hồi địa vị làm con cho đứa con hoang “không đáng gọi là
con”
Người con cả không chịu vào nhà,
vì tính ích kỷ, hẹp hòi… nhưng anh cũng có phần công bằng. Ác
giả ác báo! Gieo gió phải gặt bão! Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ. Quan niệm luân
lý tự nhiên. Thật bực mình vì anh không thể đo lường được lòng nhân hậu quá lớn
của người Cha: Phục hồi quyền làm con, quyền thừa tự một cách quá dễ dàng cho
“thằng mất dạy!”, việc làm vượt ngoài ức đoán của đứa con hoang và của tất cả
mọi người (đựa vào giải thích
của L.M. Hồng Phúc, DCCT trong quyển Suy Niệm Lời Chúa Năm C trang 53-54)
Khi phạm tội là rời
bỏ nhà Cha, là chúng ta bỏ Chúa.
Khi phạm tội, con người
tự chọn cho mình con đường không có Chúa, mất ân thánh sủng.
Khi phạm tội, con người chối từ phần
gia tài dành sẵn cho mình trên Trời.
Khi sám hối và xưng tội:
Quay về nhà Cha
Được hoàn trả mọi ân huệ nhất
là quyền làm con và phần thưởng nước thiên đàng.
Cả triều thần thánh vui
mừng.
Lòng nhân hậu của Chúa vượt xa
mọi ức đoán của con người:
Ôm chầm lấy đứ con hoang.
Không một lời phiền trách hay
nhắc đến tội đã phạm.
Không ra một hình phạt nào.
Nhưng ban ân huệ, ban sự phục hồi địa vị làm con.
Chúa luôn sẵn sàng tha thứ
III. Thực hành P.Â.:
Lòng nhân ái và tình thương tha thứ có sức
chinh phục người khác.
Tại
sao người con hoang quay về với Cha già?
Vì đói khát, đau khổ, bất hạnh…hay vì lòng nhân hậu vô bờ bến của người
Cha.
Đến Roma, đứng ở quảng trường Thánh Phêrô đối diện với đến thờ, chúng ta
thấy gần bên tay phải khoảng giữa giữa có một viên gạch vuông khác màu so với
những đá lót khác. Người ta đánh dấu nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị
Ahmed Ali Agca bắn trọng thương ngày 13.5.1981. Viên đạn quyết tử, nhắm tim,
nhưng Ali tránh đứa bé gái mà ĐGH vừa bế lên, nên Ngài còn sống. Viên đạn đó đã
được mang đặt ở nhà chầu, trước Vương Cung Thánh Đường Fatima, bên cây sối to,
nơi Đức Mẹ hiện ra cho 3 trẻ: Lucia, Jacinta và Phanxicô năm 1917. Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tận nhà tù của thăm Ali. Ngài hoàn toàn tha thứ.
Ali bị cảm hoá bời lòng nhân hậu của Đức Giáo Hoàng. Hay tin Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô mất ngày mất 2 tháng 4 năm 2005, anh đã xin đi dự lễ an táng
Ngài.
Đơn xin không được chấp thuận,
nhưng lòng anh đã khắc sâu hình ảnh con người nhân hậu đã sẵn sàng tha thứ cho
người ám sát mình. Lòng nhân hậu được ghi nhớ muôn đời.
Tháng 2 năm 2000, ĐGH Gioan Phaolô II đi hành hương thánh địa Do Thái. Một
người đàn bà Do Thái tên Edith Wier đã đến xin diện kiến Đức Thánh Cha và tường
thuật cho cả thế giới về lòng nhân hậu của một linh mục trẻ, tên Karol
Voitija,
Gần 50 mươi năm trước, bà còn là một
thiếu nữ trẻ vừa được thả khỏi trại giam của Đức Quốc Xã trên đất Ba Lan gần
giáo xứ của Cha Karol Voitija. Bị giam lâu ngày, khi được thả ra, bà đói lã ngã
gục trên đường rời trại. Bỗng có một linh mục trẻ, tướng cao và đẹp trai xuát
hiện. Linh mục mang cho cô bé nầy bánh, nước và khăn lau. Sau đó vị linh mục đã
cõng cô bé gái trên lưng, vượt hơn 3 cây số đến trạm xe lửa để cô ta có thể trở
vế nguyên quán. Gần cả đời mình, bà Edith vẫn nhớ hình ảnh giàu lòng thương xót
và từ tâm của linh mục Karol. Bà đã được gặp lại vị ân nhân từ tâm. Bà đã toại
nguyện khi được ca ngợi lòng nhân hậu của Đức Thánh Cha cho cả thế giới
biết.
Lòng nhân hậu và tình yêu thương tha
thứ là lời kêu gọi mạnh nhất để hoán cải, để quay
về nhà Cha. Chúng ta quên nhiều chuyện, nhưng thường chúng ta
khó quên những ánh mắt nhân hậu, những con người giàu lòng thương xót
và từ tâm. Hay quay lại với Chúa là Đấng nhân hậu và hãy làm cho
người khác nhớ đến mình vì mình nhân hậu và từ tâm.
Lectio: Chúa Nhật IV Mùa Chay (C)
Chúa
Nhật, 10 Tháng 3, 2013
Dụ Ngôn
Người Con Hoang Đàng
Lc 15:1-3,11-32
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện mở đầu:
·
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy mặc khải cho chúng con mầu nhiệm của Chúa
Cha và Chúa Con được hiệp nhất trong tình yêu. Xin
hãy cho chúng con có thể thấy được ngày trọng đại của Thiên Chúa, rực rỡ với ánh sáng: buổi rạng
đông của một thế giới mới được sinh
ra trong máu của Đức Kitô. Người con
hoang đàng trở về nhà,
người mù
được nhìn
thấy ánh
sáng, kẻ trộm lành
được tha
tội xóa
tan nỗi sợ hãi cổ
xưa. Khi chết treo
trên thập giá,
Đức Kitô
đã chiến thắng cái
chết; cái
chết mang
lại sự sống,
tình yêu chiến thắng nỗi sợ hãi
và tội lỗi tìm
kiếm sự thứ tha. Amen.
·
b) Phúc
Âm
1 Khi ấy, những người thu
thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa
Giêsu để nghe
Người giảng; 2 thấy vậy, những người biệt phái
và luật sĩ lẩm bẩm rằng:
"Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng".
3 Bấy giờ Người phán
bảo họ dụ ngôn
này:
11 "Người kia
có hai con trai. 12 Đứa em thưa với cha
rằng:
'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. 13 Ít ngày sau, người em
thu nhặt tất cả của
mình, trẩy đi
miền xa
và ở đó ăn
chơi xa xỉ phung
phí hết tiền của. 14Khi nó tiêu hết tiền của thì
vừa gặp nạn đói
lớn
trong miền đó,
và nó bắt đầu cảm thấy túng
thiếu. 15 Nó vào giúp việc cho
một người
trong miền, người này
sai nó ra đồng
chăn heo. 16 Nó muốn ăn
những đồ cặn bã
heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. 17Bấy giờ nó hồi tâm
lại và tự nhủ: 'Biết bao
người làm
công ở nhà
cha tôi được ăn uống dư
dật, còn
tôi, tôi ở đây
phải chết đói. 18 Tôi muốn ra
đi trở về với cha
tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, 19 con không đáng được gọi là
con cha nữa, xin
cha đối xử với con
như một người làm
công của
cha" '. 20 Vậy nó ra đi và trở về với cha
nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động
lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. 21 Người con
trai lúc đó thưa rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha,
con không đáng được gọi là con cha nữa'. 22Nhưng
người cha
bảo đầy tớ: 'Mau
mang áo đẹp nhất ra đây
và mặc cho
cậu, hãy
đeo nhẫn vào
ngón tay cậu, và
xỏ giầy vào
chân cậu. 23 Hãy bắt con
bê béo làm thịt để chúng
ta ăn mừng: 24 vì con ta đây đã chết, nay
sống lại, đã
mất, nay
lại tìm
thấy'. Và
người ta bắt đầu ăn uống
linh đình.
25 "Người con
cả đang ở ngoài
đồng.
Khi về gần đến nhà,
nghe tiếng đàn
hát và nhảy múa,26 anh gọi một tên
đầy tớ để hỏi xem
có chuyện gì. 27 Tên đầy tớ nói:
'Đó là em cậu đã
trở về, và
cha cậu đã
giết bê
béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khỏe'. 28 Anh liền nổi giận và
quyết định không
vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. 29 Nhưng anh trả lời:
'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con
bê nhỏ để ăn mừng với
chúng bạn. 30 Còn thằng con
của cha
kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó'. 31 Nhưng người cha
bảo: 'Hỡi con,
con luôn ở với cha,
và mọi sự của cha
đều là của con. 32 Nhưng phải ăn
tiệc và
vui mừng, vì
em con đã chết nay
sống lại, đã
mất nay
lại tìm
thấy'".
c) Giây phút cầu nguyện
trong thinh lặng:
Để Lời Chúa
có thể thấm nhập vào
lòng và soi sáng đời sống chúng ta.
2.
Suy Gẫm
a) Ý chính của bài
đọc:
Dante cho rằng
Luca là “người ghi
chép sự dịu dàng của Chúa
Kitô” (scriba mansuetudinis Christi). Thật vậy, ông
là vị Thánh
Sử thích
nhấn mạnh đến lòng
thương xót của Thầy Chí
Thánh đối với những kẻ tội lỗi và
cho chúng ta thấy những hình ảnh của sự tha thứ (Lc 7:36-50; 23:39-43). Trong
Tin Mừng của
thánh Luca, lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng
ta có thể nói rằng Đức
Giêsu là hiện thân
lòng thương xót của Thiên Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. “Anh
em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc
6:36). Luca tập
trung vào hình ảnh Thiên Chúa đã mặc khải
trong Cựu Ước (Hc
34:6), nhưng đáng tiếc thay, điều đó dường như đã bị bác bỏ bởi các Kinh Sư và người Biệt Phái
là những kẻ muốn nhấn mạnh đến hình
ảnh
Thiên Chúa “Đấng ghé
thăm tội lỗi của các
người cha
trên con cái” (Hc 34:7). Thật vậy, những người Biệt Phái
và Kinh Sư tự hào
là công chính trong mắt của Thiên Chúa bởi vì họ đã không vi phạm Lề Luật. Chúa
Giêsu chỉ trích
thái độ này
trong lời giảng dạy của Người và
qua hành động của Người. Đức Kitô, “Đấng
Công Chính” của
Thiên Chúa (1Pr 3:18), “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Hãy
nghĩ về bài dụ ngôn
người thu
thuế khi từ Đền Thờ trở về nhà
thì đã được nên
công chính tương phản với người Biệt Phái tự khen ngợi mình trước mặt Thiên Chúa trong khi phê phán người bên
cạnh
mình (Lc 18:9-14). Chúa
Giêsu chỉ ra
cho chúng ta thấy rằng đường lối suy nghĩ và hành động của
Thiên Chúa thì hoàn toàn khác biệt với của
chúng ta. Thiên Chúa thì
khác biệt, và
tính siêu việt của Người được mặc khải
trong lòng thương xót tha thứ cho tội lỗi. “Trái tim
Ta thổn thức, ruột gan
Ta bồi hồi khi
nghĩ đến điều ấy. Ta sẽ không hành động
theo cơn nóng giận… vì Ta là
Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa
ngươi, Ta là Đấng Thánh và không có ý định tiêu diệt
ngươi” (Hs 11:8-9).
Dụ ngôn
“người con
hoang đàng” này sẽ đưa ra khía cạnh về Chúa Cha đầy lòng thương xót. Đó
là lý do tại sao
một số người đề cập đến câu
chuyện này
như là “dụ ngôn
người cha
của đứa con
hoang đàng với lòng
thương xót và tha thứ”. Đoạn Tin
Mừng là
một phần của một loạt ba dụ ngôn
về lòng
thương xót và có lời mở đầu để hướng dẫn chúng ta suy niệm về “những kẻ thu
thuế và tội lỗi” lui
tới với Đức
Giêsu để nghe
Người giảng dạy (Lc
15:1). Những điều này
được phản ảnh
trong thái độ của người con
thứ là kẻ hồi tâm
và tự nhủ về tình
trạng hiện tại của mình
và về những gì
anh ta đã đánh mất khi lìa bỏ nhà cha anh (Lc 15:17-20). Thật là thú vị khi để ý đến cách
dùng động từ “lắng
nghe”, mà nhớ lại cảnh của bà
Maria, em bà Máctha, “cứ ngồi bên chân Chúa và lắng
nghe lời Người giảng dạy” (Lc
10:39); hay là đám đông dân chúng “tuôn đến để nghe Người giảng và
để được chữa lành
bệnh tật” (Lc 6:18). Chúa Giêsu thừa nhận thân
nhân của
mình, không phải bằng quan hệ huyết thống, mà qua thái độ lắng
nghe của họ: “Mẹ ta và anh em Ta, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành” (Lc 8:21). Dường như
Luca đạt tầm quan
trọng về thái
độ lắng
nghe này. Đức
Maria, thân mẫu của Chúa
Giêsu, được ca
ngợi vì
có một thái
độ lắng
nghe chiêm niệm, bà
“hằng ghi
nhớ tất cả những điều này
trong lòng” (Lc 2:19,51). Bà
Isave tuyên xưng Đức Maria đầy diễm phúc bởi vì “bà đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì
Người đã
nói với bà”
(Lc 1:45), đã được mặc khải tại thời điểm Truyền Tin (Lc 1:26-38).
Lòng thương xót của người cha
nhân từ (Lc
15:20), thì trái ngược với thái độ khắt khe của người con cả, kẻ sẽ không chấp nhận mình có người em như thế, và là kẻ trong lời đối thoại với người cha, gọi người con thứ là: “còn thằng con
của cha
đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về…” (Lc 15:30). Trong
bài này, chúng ta có thể thấy thái độ của các Kinh Sư và người Biệt Phái
là những kẻ “lẩm bẩm” rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và
cùng ngồi ăn uống với
chúng". Họ không
kết giao
với “kẻ tội lỗi”, những kẻ mà họ cho
là ô uế, thà
là họ lánh
xa những kẻ ấy. Thái độ của Chúa
Giêsu thì lại khác
hẳn và,
trong mắt họ, đó
là chuyện ô nhục. Chúa thích giao tiếp với những kẻ tội lỗi và
thỉnh thoảng Người còn
nhận lời mời của họ vào
nhà để cùng
ăn uống với họ (Lc
19:1-10). Lời lẩm bẩm của các
Kinh Sư và người Biệt Phái đã khiến họ không lắng nghe được Lời Chúa.
Sự tương
phản giữa hai
anh em thì thật gợi lên
nhiều ý tưởng. Người em nhận ra sự khốn cùng
và tội lỗi của mình
và trở về nhà
mà nói rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha,
con không đáng được gọi là con cha nữa” (Lc 15:18-19,21). Người anh
thì lại có
thái độ kiêu
căng không chỉ đối với người em
mà còn cả đối với cha
mình nữa! Lời nhiếc móc
của người anh
thì hết sức
tương phản với sự dịu dàng
của người cha
là kẻ đã bước ra
khỏi nhà
và đi gặp người anh
cả để “van
nài” anh ta bước vào nhà (Lc 15:20,28). Đây
là hình ảnh của Chúa
Cha, Đấng mời gọi
chúng ta hoán cải, trở về với Người: “Trở về đi, hỡi
Israel phản bội – sấm ngôn
của Đức Chúa
– Ta sẽ không
nghiêm nét mặt với các
ngươi nữa, và
Ta giàu lòng xót thương – sấm ngôn của Đức Chúa – và Ta không giận dữ mãi
đâu. Có điều là tội ngươi, ngươi phải biết: ngươi đã xúc phạm đến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, khi lang bạt khắp các
nẻo đường tìm
kiếm ngoại kiều dưới mọi lùm
cây rậm; còn
tiếng Ta
gọi, các
ngươi chẳng
thèm nghe – sấm ngôn
của Đức
Chúa. Trở về đi, hỡi lũ
con phản bội – Sấm ngôn
của Đức Chúa
– vì Ta vẫn là
chủ các
ngươi” (Gr 3:12-14).
b) Một vài
câu hỏi
để quy
hướng cho
phần suy
gẫm và
thực hành
của
chúng ta.
i. Luca chú trọng vào
hình ảnh của
Thiên Chúa đã được mặc khải trong Cựu Ước (Hc 34:6), nhưng tiếc thay, dường như
điều này
đã bị lờ đi bởi các
Kinh Sư và người Biệt Phái là những kẻ thà nhấn mạnh về hình ảnh một Thiên Chúa “Đấng ghé thăm tội lỗi của các người cha trên con cái” (Hc 34:7). Tôi có hình ảnh gì
về Thiên
Chúa?
ii. Những người Biệt Phái
và Kinh Sư tự hào rằng họ là
người công
chính dưới mắt của
Thiên Chúa bởi vì họ không
phạm giới. Chúa Giêsu chỉ trích
thái độ của họ trong
lời giảng huấn của Người và bằng
hành động của Người. Người, “Đấng
Công Chính” của
Thiên Chúa (1Pr 3:18), “đón tiếp phường tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Tôi
có tự coi
mình là công chính hơn những người khác không, có lẽ bởi vì
tôi cố gắng giữ các
điều răn
của Chúa
chăng? Những động cơ
khiến tôi
muốn sống một cuộc sống
“công chính” là gì? Đó là
vì tình yêu Thiên Chúa hay vì lòng thỏa mãn cá nhân?
iii. “Những người thu
thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa
Giêsu để nghe
Người giảng”
(Lc 15:1). Dường như
thánh Luca đặt nặng tầm quan
trọng về thái
độ lắng
nghe, suy gẫm, đi
vào nội tâm,
suy niệm và
ghi nhớ Lời Chúa
trong lòng chúng ta. Tôi đã
dành vị trí
nào cho sự chiêm
niệm Lời Chúa
trong đời sống hằng
ngày của tôi?
iv. Các
Kinh sư và những người Biệt Phái
không giao tiếp với “phường tội lỗi”, những kẻ mà họ cho
là ô uế, và
tránh xa họ. Thái độ của Chúa
Giêsu thì khác hẳn, và họ cho đó là chuyện nhục nhã. Chúa
ưa thích gặp gỡ những kẻ tội lỗi và
thỉnh thoảng lại còn
nhận lời mời đến nhà
họ để cùng
ăn uống với họ (Lc
19:1-10). Tôi có phán xét
người khác
hay tôi có né tránh các cảm xúc về lòng thương xót và tha thứ, vì đó phản ảnh sự dịu dàng
của
Thiên Chúa bậc
Cha-Mẹ
không?
v. “‘Hãy
bắt con
bê béo làm thịt để chúng
ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay
sống lại; đã mất, nay lại tìm
thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống
linh đình.” (Lc 15:23). Trong
hình ảnh người cha
bày tiệc ăn mừng con
ông nay đã sống lại,
chúng ta nhận ra
Thiên Chúa là Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi “đã
ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết,
nhưng được sống
muôn đời” (Ga
3:16). Trong việc làm
thịt “con
bê béo”, chúng ta có thể thấy Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hiến tặng
chính mình như một vật hiến tế đền tội để cứu chuộc tội lỗi. Tôi tham
dự vào
bàn tiệc
Thánh Thể với tràn
đầy cảm giác
biết ơn
vì tình yêu vô biên này của Thiên Chúa Đấng đã ban cho chúng ta chính Con Một yêu dấu của mình
chịu đóng
đinh và đã sống lại.
3. Cầu Nguyện
a) Thánh Vịnh 32
(31):
Hạnh
phúc thay, kẻ lỗi lầm mà
được tha
thứ,
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
b) Lời nguyện kết
Lạy
Chúa, Đấng ban
thưởng cho
kẻ công
chính và sẽ không
chối từ tha
thứ cho kẻ tội lỗi biết ăn
năn, xin hãy lắng nghe lời khấn xin của chúng con: xin
cho việc
khiêm hạ xưng
thú những lỗi phạm của
chúng con có thể nhận được lòng thương xót của Chúa.
4. Chiêm Niệm
Chiêm niệm có
nghĩa là biết làm
thế nào để gắn bó với tất cả tâm hồn và
lòng trí của mình
vào Chúa, Đấng mà
qua Ngôi Lời của Người biến đổi
chúng ta trở thành
những con
người mới,
luôn tuân theo thánh ý Người. “Bây giờ các
con đã biết những điều này,
nếu các
con thực hành
tương xứng,
thì thật phúc
cho các con!” (Ga 13:17)
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét