Thứ Ba
Ngày 12/03/2013
Tuần 4
Mùa Chay Năm C
BÀI ĐỌC I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước
từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu
rỗi".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến
cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà
Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn
thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn
về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về
hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới
nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước
đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến
ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi
không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được,
nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn
ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi
trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi:
"Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa,
rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những
sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá
và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được
phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ
cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao
giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái
của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Đáp: Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp
hằng bảo vệ (c. 8).
1)
Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu
khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển
cả. - Đáp.
2)
Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Đấng Tối
Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương,
thành được Chúa cứu giúp. - Đáp.
3)
Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy
đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 50, 12a và 14a
Ôi
lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn
cứu độ.
PHÚC ÂM: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người
ấy được lành bệnh".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa
Giêsu lên Giêru-salem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái
hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành
lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt.
Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy
người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành
bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống
hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi".
Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy
được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên
người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat,
anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi
lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã
bảo anh 'Vác chõng mà đi'?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là
ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ,
Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn
khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là
người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì
Người đã làm như thế trong ngày Sabbat. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Chữa Kẻ Bất
Toại
Ngày nay, không ai lại không biết đến Mẹ
Têrêsa Calcutta, Ðấng sáng lập dòng "Các Nữ Tu Truyền Giáo", chuyên
lo việc tông đồ bằng việc phục vụ các bệnh nhân như bệnh cùi, ốm đau, cùng khổ,
đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố.
Trước đây, có lần một vị sư Phật Giáo nói với
Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Ðức Kitô lắm, nhưng tôi ghét Giáo Hội của Ngài.
Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên một nơi hội ngộ để
chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Ðức Kitô".
Sau một năm có dịp làm việc với Mẹ, vị sư Phật
Giáo đó phát biểu như sau: "Tôi đã quan sát các chị, bây giờ tôi thực sự
tin rằng: các chị làm việc chỉ cốt để giúp người nghèo khổ, xấu số nhất. Chúng
tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa của chúng tôi để các
chị làm bệnh xá miễn phí".
Nhờ các hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêsa
Calcutta đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Ðộ cũng như của nhiều
chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Trong đó có giải Nobel Hòa Bình năm 1979.
Tuy nhiên, giải thưởng làm Mẹ Têrêsa Calcutta thích thú nhất và hãnh diện nhất
chính là đưa nhiều người về với Thiên Chúa, về với Giáo Hội Công Giáo và làm
cho nhiều nhìn nhận và yêu mến Chúa Kitô hơn.
Anh
chị em thân mến!
Là những người đồ đệ của Ðức Kitô, mỗi người
chúng ta khi dấn thân vào công cuộc phát triển từ thiện xã hội, chúng ta không
nên chỉ dừng lại ở chiều kích vật chất phàm trần mà thôi, nhưng phải cố gắng
như Mẹ Têrêsa Calcutta để đưa anh chị em trở về với tình yêu Thiên Chúa, nhìn
nhận Ðức Kitô là Ðấng cứu chuộc nhân loại.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được dịp
nhìn thấy thái độ vừa từ thiện, vừa nâng cao tinh thần của Chúa Giêsu đối với
người bất toàn nằm bên giếng nước. Chúa chữa anh được lành bệnh, đồng thời Ngài
mời gọi anh hãy canh tân tâm hồn là đừng phạm tội nữa để khỏi phải khốn khổ hơn
trước.
Có thể nói được rằng, người được Chúa Giêsu
chữa lành trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người nghèo khổ nhất trong số những
người nghèo bệnh tật nằm bên bờ giếng gần thành Giêrusalem, lúc mà Chúa Giêsu
đi ngang qua. Anh nằm chờ từ 38 năm nay, có biết bao nhiêu người đi qua, kể cả
những vị lãnh đạo trong dân Do Thái, những kẻ thuộc nằm lòng Kinh Thánh và muốn
tuân giữ luật Chúa dạy cho đến tận cùng, với đủ mọi chi tiết. Họ đã đi ngang
qua đó, nhưng không nhìn thấy người anh em đang cần được giúp đỡ. Nhưng, Chúa
Giêsu đã nhìn thấy và Ngài đã chữa anh được lành bệnh. Ðó là việc Ngài thực
hiện những dấu lạ: cho người què được đi, cho kẻ bệnh tật được lành mạnh để kêu
gọi những người đang chờ dấu lạ của Ðấng Cứu Thế sắp đến hãy mở mắt ra và nhìn
nhận Ngài là Ðấng Cứu Thế.
Thế nhưng, không ai mở mắt tinh thần ra để
nhìn sự hiện diện của Chúa. Người được chữa lành không nhận ra Chúa và những
người Do Thái khác lãnh đạo tôn giáo đang có mặt ở đó cũng không nhận ra Chúa.
Họ chỉ nhìn thấy trường hợp lỗi luật ngày Sabat và muốn gây sự với Chúa, hơn là
vui mừng vì một người anh em được lành bệnh.
Phần Chúa Giêsu, Ngài không dừng lại ở việc
chữa lành tật bệnh thể xác, nhưng Ngài muốn tiến xa hơn nên đã kêu gọi người
được chữa lành hãy nghĩ đến phần linh hồn quan trọng hơn: "Anh đừng phạm
tội nữa". Chúa Giêsu đã thực hiện cả hai công tác phát triển và cứu rỗi
chung cả nhân loại.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận,
tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý người con tinh thần của
ngài như sau:
Những người khác đang ở quanh con, cả nhân
loại đang đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù. Ðời con phải là hiến dâng
để bắc nhịp cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Bên
Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em con. Món quà
tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc cho con không phải là chiếc áo
đẹp, đôi giày tốt, cái đồng hồ quí, nhưng là tình người, tình anh em mà con âm
thầm tặng cho họ qua các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày sống của con.
Mỗi người chúng ta cầu xin Chúa ban cho mình
có một tâm hồn và đôi mắt như Chúa, để yêu thương và giúp đỡ khi nhìn thấy nhu
cầu của anh em xung quanh đang cần đến. Công việc tông đồ của chúng ta không
phải là việc làm của con người, nhưng là việc làm của Thiên Chúa, nên cần có
những tâm tình của Ngài.
Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta là óc để
suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi,
là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người nghèo khổ,
là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái, an ủi.
Nhờ tông đồ mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.
Những việc làm tốt của chúng ta góp phần giúp
anh chị em nhìn nhận Chúa và yêu mến Ngài hơn.
Lạy Chúa, xin hãy ban
cho con quả tim như Chúa, để biết yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa.
Amen.
Lời Chúa
Mỗi Ngày
Thứ Ba
Tuần IV MC
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự hiện
diện của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người.
Nước không thể thiếu trong đời sống con người.
Tại Jerusalem và miền nam của Israel ,
nước còn quan trọng hơn nữa vì nằm trên núi và sa mạc. Nếu không có nước, con
người và muôn lòai không thể sống. Nước còn có một công dụng khác: rửa sạch mọi
nhơ bẩn. Nước thánh từ Đền Thờ chảy ra là hình ảnh của Nước Rửa Tội trong đêm
Vọng Phục sinh, có thể thanh tẩy mọi ô uế trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự cần thiết
của nước trong đời sống. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel, tuy sống trong nơi
lưu đày, có một thị kiến về nước từ bên phải của Đền Thờ Jerusalem chảy ra. Nước
này nhiều đến độ làm thành một con sông lớn và chảy về phía Biển Chết và sa mạc
Arabah. Nước chảy đến đâu đem sự sống cho muôn lòai đến đó. Nước này cũng chữa
lành mọi bệnh tật của con người. Trong Phúc Âm, một người bị liệt đã 38 năm,
nằm bên hồ Bethzatha chờ mặt nước nối liền Đền Thờ được khuấy động là nhảy
xuống hồ để được chữa lành. May mắn cho anh, Chúa Giêsu đi ngang, nhìn thấy, và
chữa lành. Ngài truyền cho anh đứng dậy, vác chõng, và đi về nhà.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì
ở đó có sự sống.
1.1/
Thị kiến “Nước từ Đền Thờ chảy ra” của tiên-tri Ezekiel: Nhiều tác giả đã dùng
biểu tượng “Nước từ Đền Thờ chảy ra” (x/c Joel 3:18, Zech 14:8, Psa 36:8-9, Rev
22:1). Có tác giả cho đây có lẽ là một ám chỉ của giòng nước chảy ra từ Vườn
Địa Đàng (Gen 2:10-14), ngưng chảy vì tội của Adam, xuất hiện trở lại trong
cuộc Xuất Hành qua sa mạc qua biến cố “Nước chảy ra từ Tảng Đá,” và sau cùng
tái xuất hiện trong thành Jerusalem vào Ngày Cánh Chung như một giòng sông.
Phía Đông của Đền Thờ Jerusalem
là thung lũng Kedron, thường thì khô cạn, và người ta có thể băng ngang để leo
lên Vườn Cây Dầu như Chúa Giêsu và các môn đệ thường làm. Thị kiến của Ezekiel
muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa. Ngài có thể làm cho nước ngập tràn
thung lũng Kedron, làm thành một giòng sông chảy vào Biển Chết như sôngJordan.
1.2/
Nước từ Đền Thờ mang lại sự sống và chữa lành con người: Nơi nào có nước là có
sự sống. Cây trồng bên suối nước sẽ luôn xanh tươi và sinh nhiều hoa trái.
Trong thực tế, Biển Chết là nơi nước sông Jordanchảy vào; vì không có lối thóat
nên nước trở nên rất mặn, và không một sinh vật nào có thể sống nổi. Thị kiến
của tiên-tri Ezekiel có lẽ muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa trong tương
lai. Ngài sẽ làm nước từ Đền Thờ chảy ra nhiều đến nỗi làm thành một giòng sông
lấp đầy thung lũng Kedron, chảy vào Biển Chết và thông xuống vùng sa mạc
Arabah. Khi Biển Chết được thông thương, nước sẽ trở nên tinh sạch hơn và làm
cho nước biển hoá lành. Vì thế, “Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở
đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa
lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” Một điều chắc chắn hơn, thị
kiến này ám chỉ Nước Rửa Tội mà trong đêm Vọng Phục Sinh, khi chúng ta sẽ hát
lên: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra; và nước ấy chảy đến những
ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên …”
2/
Phúc Âm: Người bệnh bất tọai chờ bên hồ nước Bethzatha để được chữa lành.
2.1/
Lịch sử của hồ nước Bethzatha: Trước thế kỷ 20, các học giả của Tin Mừng Gioan cho hồ
nước này chỉ là biểu tượng, chứ không có thật tại Jerusalem, nhiều người còn
chú giải 5 hành lang tượng trưng cho 5 Sách của Ngũ Kinh, 38 năm tượng trưng
cho 38 năm dân Do-thái lang thang trong sa mạc. Trường Kinh Thánh và Khảo Cổ
của Dòng Đa-minh, École Biblique, tìm ra tông tích của chiếc hồ này ở phía Tây
của Đền Thờ, gần nhà thờ St. Ann hiện nay, cùng với các các di tích lịch sử của
nó. Hai cái hồ tìm thấy nằm kế cận nhau được giải thích trong tờ hướng dẫn của
các cha dòng White Friars như sau:
-
Thời xa xưa, những hồ chứa nước được thiết lập trong thung lũng này. Một cái hồ
đơn giản được đào để chứa nước chảy qua thung lũng như một cái hồ thiên nhiên.
Sau này, cái hồ này được xây và biến thành hồ nhân tạo với chiều kích 40x50 m
bằng cách dùng một ống dẫn nước rộng khỏang 6 m. Nước trong hồ được dẫn vào Đền
Thờ bằng một con kênh nhỏ. Sách Isa 7:3 và 2 Kgs 18:17 ám chỉ con kênh nhỏ này.
-
Vào cuối thế kỷ 3rd BC, một chiếc hồ thứ hai được thiết lập, có lẽ vào khỏang
thời gian của Thượng Tế Simon (x/c Sir 50:3). Nó được xây ở phía Nam
của ống dẫn nước, con kênh nhỏ được bao phủ và trở thành ống dẫn nước vào Đền
Thờ.
-
Vào giữa năm 150 BC và 70 AD, một trung tâm chữa bệnh nổi tiếng được phát triển
về phía Đông của hai cái hồ này. Một giếng nước, chỗ tắm, và những bàn thờ cũng
được thiết lập cho mục đích chữa trị và tôn giáo. Nơi đây là nơi tụ họp của
nhóm người bị cấm không cho vào trong Đền Thờ vì bệnh tật. Họ chờ đợi khi thiên
thần khuấy động nước là lăn xuống hồ để được chữa trị. Chính tại nơi Cửa Chiên
này, Chúa Giêsu đã chữa lành người bại liệt.
-
Vào thế kỷ 1st AD, một cái hồ lớn hơn, BIRKET ISRAEL, được xây gần Đền Thờ, làm
cho những cái hồ ở Bethzatha không còn quan trọng nữa. Một tường thành mới được
xây dựng về phía Bắc bởi Herod Agrippa vào năm 44 AD, ngăn cản không cho nước
chảy vào Đền Thờ nữa.
2.2/
Chúa chữa lành người bại liệt đã 38 năm: Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh
sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh
không?" Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người
đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất
rồi!" Với tình trạng bệnh tật của anh, không thể nào anh là người thứ nhất
lăn xuống hồ. Chúa Giêsu biết anh đã chịu bệnh lâu năm, nên bảo: "Anh hãy
trỗi dậy, vác chõng mà đi!" Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi
được. Hôm đó lại là ngày Sabbath.
2.3/
Tranh luận về ngày Sabbath.
(1)
Vi phạm ngày Sabbath: Vác chõng đi trong ngày Sabbath là vi phạm Lề Luật nặng nề, và
có thể bị ném đá đến chết. Khi thấy anh vác chõng, người Do-thái mới nói với kẻ
được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày Sabbath, anh không được phép vác
chõng!" Anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: "Anh
hãy vác chõng mà đi!" Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: "Vác
chõng mà đi?" Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai.
(2)
Cuộc gặp gỡ lần thứ hai: Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói:
"Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn
trước!" Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh
khỏi bệnh. Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh
ngày Sabbath.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Như nước cần cho sự sống phần xác thế nào, nước từ Đền Thờ chảy ra cũng cần cho
sự sống phần hồn như vậy. Nước Rửa Tội xóa sạch mọi tội của con người và mang
lại cho người lãnh nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
-
Không có sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, con người sẽ bị khô héo
lâu năm như người bại liệt. Khi có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời,
Ngài sẽ chữa lành mọi bệnh tật cho con người.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Sống Lời
Chúa Thứ ba(Ga 5, 1-3.5-16)
Dẫn
Thiếu bác ái yêu thương,
việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành động mù
quáng.
Tin mừng hôm nay, kêu
gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực
thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách
thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.
Chia sẻ
Anh Nguyễn Công Hùng, 29
tuổi, quê quê quán ở Nghệ An, hiện đang sống tại khu đô thị mới Linh Đàm, Hà
Nội. Anh hiện là ủy viên ban cố vấn Hội Tin Học Trẻ Việt Nam và là giám đốc
công ty cổ phần Nghị Lực Sống, chuyên giới thiệu, hướng nghiệp, đào tạo nghề
cho người khuyết tật với hai nội dung chính là ngoại ngữ và công nghệ thông
tin. Bị sốt bại liệt từ nhỏ, anh Hùng phải ngồi xe lăn và luôn cần
có người trợ giúp bên cạnh.
Anh đã tự ra ứng cử Quốc hội Việt Nam
khóa XIII và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 sẽ được tổ
chức ngày 22 tháng 5. Với ước mong lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho người
khuyết tật trong vấn đề cải tiến chăm sóc y tế cho người khuyết tật được thỏa
đáng, và đề nghị xem xét lại lĩnh vực đào tạo. Nhưng do tình trạng sức khoẻ,
theo luật anh không đủ tiêu chuẩn để ra ứng cử vào quốc hội.
Qua đây cho thấy, quyền được quan tâm chăm
sóc, quyền được giáo dục, quyền được sống, trên hết là quyền làm người là khao
khát của mọi người, dù họ là ai.
Anh
chàng trong bài tin mừng hôm nay đã bị bại liệt suốt 38 năm. Chắc hẳn gặp rất
nhiều khó khăn và đau khổ.
Khó khăn trong việc chăm sóc bản thân. Khó
khăn trong việc đi lại. Khó khăn mỗi khi tiếp xúc với người khác.
Anh cũng gặp không ít đau khổ. Đau khổ vì bệnh
tật hành hạ, Đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả những người thân “ không
có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị mọi người khinh ghét, bị xã hội xem
thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang kiếp cầm ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ
đau khổ nhất vẫn là nổi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là người tội lỗi.
Nổi khát khao lớn nhất của anh là được làm
người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan
tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá
làm người của mình.
Hôm
nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm
ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui
chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị chống đối. “ Hôm nay là ngày Sabát
không được phép vác chõng”. Không những chống đối quyền đi lại và làm người của
anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì đã vi phạm ngày Sabát.
Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh
nặng, một rào cảng đáng sợ đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với
nhau, khiến ngưòi khác không thể vươn lên sống xứng đáng là con người.
Họ không hiểu rằng: “vinh quang Thiên Chúa là
con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ
một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.
Xin cho chúng ta ý thức
rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân ái đối với người khác, là
chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Yêu thương và thực thi bác ái đối với người
khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa chay này.
THỨ BA TUẦN IV MÙA
CHAY
Ga
5, 1 - 3a. 5 - 16
1 Ghi nhớ: Hãy trỗi dậy vác
chõng mà đi.
2
Suy niệm: Bài tường thuật hôm nay thánh Luca cho chúng
ta thấy Chúa Giêsu làm nhiều sự lạ:
-
Một người không lê thân nổi thế mà Chúa Giêsu lại bảo hãy vác chõng mà đi.
-
Anh ta đang nghĩ mình sẽ được trị bằng nước thì Chúa Giêsu lại cho anh ta một
phương thức trị bệnh khác: vác chõng.
Ông
Giêsu này xem ra ngớ ngẩn thật!
Nếu
bảo một người khỏe mạnh vác chõng thì may ra có thể được, còn ở đây lại là một
kẻ bại liệt chờ người ta vác mình; mà anh ta đã nằm đó chờ đợi ba mươi tám năm
rồi.
Suối
nóng có thể chữa được bệnh, ai cũng biết vậy, nhưng có ai từng được khỏi bệnh
nhờ vác chõng đâu ?
Ấy
vậy mà cũng có kẻ ngớ ngẩn không kém, khi nghe Chúa Giêsu bảo gì thì làm nấy.
Thế mà anh ta hết bệnh thật. Đúng là phép lạ !
Nhiều
người cho rằng Kitô hữu là những kẻ mù quáng, tin vào những điều ngớ ngẫn. Cũng
có lý, nhưng họ đâu biết rằng sự điên dại của Thiên Chúa còn khôn gấp trăm gấp ngàn lần sự khôn ngoan của con
người.
3 Sống Lời Chúa: Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên
Chúa chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan.
4 Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe và thực
hành Lời Chúa.
12/03/13 THỨ BA TUẦN 4 MC
Ga 5,1-16
Ga 5,1-16
COI CHỪNG CHAI LỲ TRONG TỘI !
“Tại Giê-ru-sa-lem,
gần Cửa Chiên, có một hồ nước gọi là Bét-Da-Tha. Ở đó có một người đau ốm đã ba
mươi tám năm. Chúa Giê-su biết anh ta sống trong tình trạng ấy đã lâu, thì nói
:”Anh có muốn khỏi bệnh không ?” (Ga 5,
2.5-6)
Suy niệm: Đó
là những lời đầu trong trình thuật phép lạ của Chúa tại hồ Bết-da-tha. Chúng ta
thật bất ngờ về cách tra lời thờ ơ của người bệnh: Phải chăng sau ba mươi tám
năm dài đằng đẵng đau ốm nằm bên bờ hồ trước sự vô cảm của những người chung
quanh, anh ta đã mất hết hy vọng? Khỏi bệnh hay không, đối với anh có lẽ cũng
thế thôi. Biết đâu, cứ như thế này mà lại hay: dù sao anh đã quen với cảnh sống
này rồi… Anh thờ ơ ngay cả khi được khỏi bệnh: vác chõng mà đi, không cần tìm
hiểu người vừa chữa lành mình là ai – trông thật bất cần đời. Thậm chí đến khi
những người biệt phái tra vấn anh mới tìm hiểu điều đó và trả lời một cách hờ
hững như thể là ông Giêsu ấy không có liên quan gì đến anh nữa. Nhưng coi
chừng! Lời cảnh báo của Đức Giêsu thật kinh khủng: “Đừng phạm tội nữa, kẻo
lại phải khốn hơn trước.”
Mời Bạn:
Lời cảnh báo đó có thể “ứng nghiệm” vào chính mỗi người chúng ta. Có thứ tội
nào tôi vi phạm cách “vô tư” như thể đó không phải là tội? Biết bao lần tôi
lãnh nhận Bí tích Hoà Giải, thế nhưng, có những thứ tội chúng ta cứ tái phạm
hoài. Phải chăng đó là dấu chúng ta chưa ăn năn dốc lòng chừa cho thật?
Chia sẻ: Vì
sao ngày nay nhiều bạn trẻ “dị ứng” với việc lãnh nhận Bí tích hoà giải?
Sống Lời Chúa: Trong những dịp sám hối Mùa Chay, bạn hãy quyết tâm chừa bỏ hẳn
một tật xấu mà bạn hay phạm nhất.
Cầu nguyện: Đọc kinh “Ăn Năn Tội.”
Muốn trở nên lành mạnh
Suy niệm:Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bết-da-tha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.
Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không ?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi” : đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không ?
Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh ?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi : Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không ?
Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
LỜI NGUYỆN
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin ;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống ;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
"Tức
khắc người ấy được lành bệnh".
Đức Giêsu bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và bước đi!” Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sa-bát. Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” (
Một lần nữa chứng tỏ một điều chắc chắn này: Xưa kia luật lệ con người rất khó thay đổi, và hầu như không cải tiến được, vì nó ăn sâu vào bản tính nhân loại. Ngay cả ngày nay cũng vậy, người ta gắn bó với nhiều luật lệ từng chi tiết và trở thành một thứ hình thức cực đoan, đến nỗi bị tiêu diệt vì luật lệ. Chúng ta có dám phản đối lối giữ luật nô lệ đó không? Chừng nào chúng ta mới được soi sáng, chừng nào chúng ta mới sống theo tinh thần của luật và không theo lối từ chương lệ cổ, ước chi lòng thành tâm làm cho chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng. Sự gắn bó với những điều phụ thuộc làm cho chúng ta mù quáng về những điều cốt yếu. Những người Do thái giữ ngày Sa-bát thời Đức Kitô cũng vậy.
Đây trong một ngày Sa-bát, họ thấy người vác chõng. Mọi người đều biết anh là kẻ bị tê liệt lâu năm nằm ở hành lang hồ Bết-đa-tha. Người ta không biết ngạc nhiên, trong chốc lát, anh đã đi được. Sự lạ lùng nào đã xảy ra cho anh, sao anh đã được khỏi? Nhưng người ta chỉ chú ý đến việc anh vác chõng xúc phạm đến luật nghỉ lễ ngày Sa-bát: một gương mù quá tệ, bất trung chừng nào, ai dám xúc phạm lề luật? Chính ông Giêsu đó, loại người Na-gia-rét chẳng có gì tốt cả, nhưng dám làm nổ tung luật lệ, dám cho mình là Con Thiên Chúa, cho mình bằng Thiên Chúa, còn gọi Thiên Chúa là Cha riêng của mình.
Người Do thái không quan tâm tìm hiểu chân lý đó, mặc kệ chân lý! Họ chỉ biết có luật và mù quáng trung thành giữ luật thôi.
Kêu gọi chúng ta đừng bỏ ngày Chúa nhật để đi tìm thú vui bỉ ổi, chúng ta phải thấy rõ sự cần thiết làm vinh danh Chúa. Còn một cách giữ ngày Sa-bát nữa là yêu thương người lân cận, tuy luật không nói tới, nhưng tình yêu tha nhân là bằng chứng lòng yêu mến Thiên Chúa, đức thờ phượng và lời cầu nguyện của chúng ta.
Đoạn Tin mừng này kêu gọi chúng ta về trách nhiệm đối với anh em mình, họ đang cần chúng ta. Thường người ta tự hỏi sao ngày Chúa nhật không được sống thoải mái! Nhưng ta lại không tự hỏi: Tại sao không dùng ngày Chúa nhật để thực hiện tình bác ái, giúp đỡ bệnh nhân và kẻ nghèo khó, đi dâng lễ. Đó là những cách nhỏ bé chúng ta có thể để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày của Ngài.
J.M
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba
12 THÁNG BA
Đánh Thức Một Nỗi Khát Thâm Sâu Hơn
Bên bờ giếng ở Xy-kha, Đức
Giê-su đã đề xuất trao ban nước hằng sống cho người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Mỏi
mệt vì chuyến đi, Người ngồi xuống bên thềm giếng. Các môn đệ đã đi vào thành
phố mua thức ăn. Một người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đến giếng lấy nước; Đức Giêsu
xin chị một ít nước uống. Chị ngạc nhiên, vì thường tình chẳng một người Do
Thái nào lại xin bất cứ gì từ một phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Đã bao thế kỷ rồi,
người Do Thái và người Sa-ma-ri-ta-nô sống trong sự thù địch với nhau. Tuy
nhiên, Đức Giêsu cho chị thấy rằng Người không dung nạp thành kiến, cũng không
ủng hộ quan điểm của người Do Thái rằng một rabbi không nên nói chuyện với một
phụ nữ cách công khai. Người không quan tâm đến sự kỳ thị quốc gia và chủng
tộc, cũng không màng đến sự phân biệt nam nữ.
Đức Giêsu xin nước – và Người
dẫn dắt người phụ nữ ấy đến nước hằng sống. Thành ngữ “nước hằng sống” trong
ngôn ngữ của các ngôn sứ nhằm hướng chỉ đến ân phúc cứu độ trong thời Mê-si-a
(Is 12,3). Nhưng vì không hiểu được ý nghĩa này, người phụ nữ tưởng rằng Đức
Giêsu muốn nói đến một thứ nước kỳ lạ có sức giúp cơ thể chị không bao giờ cảm
thấy khát nữa. Đó là cách mà Đức Giêsu đánh thức nơi người phụ nữ khát vọng về
ơn huệ của Người: “Người phụ nữ thưa với Đức Giêsu: ‘Thưa ông, xin ông cho tôi
thứ nước ấy, để tôi không còn bị khát nữa và khỏi phải mất công tới đây lấy
nước” (Ga 4,15).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày 12-3
Ed 47, 1-9.12; Ga 5, 1-16
LỜI SUY NIỆM: “Ở đó, có một
người đau ốm đã ba mươi tám năm. Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống
trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: Anh có muốn khỏi bệnh không” (Ga 5,5-6)
Chúa Giêsu thấy và biết người
bệnh đã nằm trong thất vọng quá nửa đời người. Nhưng trong anh, vẫn còn một
chút hy vọng nào đó. Anh ta vẫn còn nằm chờ đợi đến cơ may của mình. Nên Chúa
Giêsu đã khơi dậy một chút hy vọng nơi anh ta bằng một câu hỏi: “Anh có muốn
khỏi bệnh không?” Câu hỏi này Chúa cũng đang hỏi mỗi chúng ta trong những ngày
mùa chay này. Chúng ta có muốn ra khỏi bệnh nặng nhẹ làm nguy hại đến linh hồn
và thân xác của mình không? Nếu chúng ta muốn thì Chúa sẽ chữa lành cho chúng
ta dù là bệnh đã lâu năm. Chúa đang nhìn thấy và Chúa đang biết rõ. Chỉ cần tin
và muốn được Chúa chữa lành. Chúng ta sẽ được sống trong hạnh phúc.
Mạnh Phương
12 Tháng Ba
Chúng Ta Không Phải Là Thiên Thần
Một cuốn phim Mỹ có tựa đề "Chúng ta không phải là
Thiên Thần" do hai tài tử nổi tiếng là Robert de Niro và Sean Penn thủ
diễn, đã kể lại một cuộc vượt ngục rất kỳ thú của hai tử tội bị giam trong một
trại khổ sai nằm giữa biên giới Hoa Kỳ và Canada .
Hai tử tội này có lẽ đã từng phạm những tội ác như cướp
của giết người. Nhưng từ một ngục thật kiên cố, họ không bao giừo có ý định
trốn thoát. Thế rồi, một hôm, một người tử tội đang được đưa lên ghế điện, bỗng
cướp súng hạ sát một số viên cai ngục và tìm đường tẩu thoát. Trên đường trốn
chạy, hắn đã cưỡng bách hai người tù cùng trốn thoát.
Sau một đêm đào tẩu giữa núi rừng phủ đầy tuyết, hai
người tử tội đã mon men tìm đến một ngôi làng. Một lão bà đã ngộ nhận là hai
linh mục nổi tiếng trong vùng. Bất đắc dĩ họ đành phải đội lốt linh mục và được
một tu viện gần đó tiếp đãi nồng hậu.
Giữa lúc đó, cảnh sát lại đi lùng khắp nơi để tìm cách
bắt lại ba kẻ đào thoát. Người tử tội đã giết các viên cai ngục để trốn thoát
nay bị sa lưới lại. Hôm đó là một ngày rước kiệu trọng thể kính Ðức Mẹ do tu
viện nói trên tổ chức. Nhờ lớp áo nhà tu, một trong hai tên tù đã lẻn vào nhà giam
để giải thoát kẻ vừa bị bắt lại. Người tù hung hãn cũng được khoác lên người
chiếc áo dòng và nép mình trong chiếc kiệu vĩ đại có tượng Ðức Mẹ...
Giữa những tiếng cầu kinh sốt sắng của mọi người, hắn
xuất hiện trước công chúng và dùng súng uy hiếp mọi người. Một em bé gái câm
trong đám rước kiệu đã bị hắn bắt làm con tin. Trong khi mọi người ngã rạp
xuống đường vì sợ hãi, thì một trong hai vị linh mục giả đã nhào lên chiếc kiệu
để giải thoát em bé gái câm. Cuộc xô xát đã làm cho người tù hung hãn bị trúng
đạn, nhưng em bé gái câm và tượng Ðức Mẹ lại bị quăng xuống dòng sông giá
buốt...
Không chút do dự, vị linh mục giả còn lại đã nhào xuống
dòng sông và cứu sống em bé. Mở mắt nhìn vị ân nhân, em bé bỗng nhận ra người
tù vượt ngục mà hình ảnh được dán đầy trong khu phố...
Trong đoạn kết thúc cuốn phim, một người đã xin được tiếp
tục tu trong tu viện, còn người cứu sống em bé tiếp tục làm lại cuộc đời với
người mẹ của em...
"Chúng ta không phải là
Thiên Thần". Thiên thần một lần vấp ngã là vĩnh viễn trầm luân. Con người
không phải là Thiên Thần, cho nên vấp ngã có chồng chất, vẫn còn có cơ may để
trỗi dậy và làm lại cuộc đời.
Cuộc phiêu lưu của người tù trên
đây có lẽ cũng là hình ảnh của chính cuộc đời chúng ta. Chúng ta không là Thiên
Thần, cho nên sau bao nhiêu lần vấp ngã, Chúa vẫn còn tiếp tục cho chúng ta một
cơ may khác để bắt đầu lại. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Lịch sử của loài người phải chăng đã không là những mò mẫm, té ngã và chỗi dậy
không ngừng ư? Thiên Chúa không bỏ cuộc vì con người, cho nên con người cũng
không nên thất vọng về mình.
Thất
bại có ê trề, tình người có bạc bẽo, đau khổ có chồng chất, tội lỗi có đè nặng
đến đâu: Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta tia sáng của Hy Vọng để mời
gọi chúng ta trỗi dậy và tiếp tục tiến bước. Ngài mời gọi chúng ta hãy chiêm
ngắm chính cái chết của Con Ngài trên thập giá. Loài người xem đó là tận cùng
của số kiếp, nhưng Thiên Chúa lại nhìn vào đó như là khởi đầu của nguồn ơn cứu
thoát...
(Lẽ Sống)
Thứ Ba 12-3
Chân Phước Angela Salawa
(1881 - 1922)
A
|
Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.
Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, "Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt." Ở chỗ khác, ngài viết, "Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy."
Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần" (Báo L'Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)
Lời Bàn
Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người "bé mọn" của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.Lời Trích
Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: "Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo" (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét