Thứ Ba sau Chúa Nhật IV Mùa Chay
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên
phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn
tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt
tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về
phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến
cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn
ông đi ra về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi
đi qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi
qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới
nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối
nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi
qua được, nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi
người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ
suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với
tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang
địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả
những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất
nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống
sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi
phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của
nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất
từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng
bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là
sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung
chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành
Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa
thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. -
Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta,
ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm,
Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50,
12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả
tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được
lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người
Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên",
có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang.
Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại
nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa
Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn
được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai
đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi
rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức
khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày
Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là
ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính
người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai
là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành
không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong
đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo
phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa
Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với
Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:Chữa Kẻ Bất Toại
Ngày nay, không ai lại không
biết đến Mẹ Têrêsa Calcutta, Ðấng sáng lập dòng "Các Nữ Tu Truyền
Giáo", chuyên lo việc tông đồ bằng việc phục vụ các bệnh nhân như bệnh
cùi, ốm đau, cùng khổ, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các
hè phố.
Trước đây, có lần một vị sư Phật
Giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Ðức Kitô lắm, nhưng tôi ghét Giáo
Hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên một
nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Ðức Kitô".
Sau một năm có dịp làm việc với Mẹ,
vị sư Phật Giáo đó phát biểu như sau: "Tôi đã quan sát các chị, bây giờ
tôi thực sự tin rằng: các chị làm việc chỉ cốt để giúp người nghèo khổ, xấu số
nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa của
chúng tôi để các chị làm bệnh xá miễn phí".
Nhờ các hoạt động từ thiện bác ái,
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Ðộ cũng như
của nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Trong đó có giải Nobel Hòa Bình
năm 1979. Tuy nhiên, giải thưởng làm Mẹ Têrêsa Calcutta thích thú nhất và hãnh
diện nhất chính là đưa nhiều người về với Thiên Chúa, về với Giáo Hội Công Giáo
và làm cho nhiều nhìn nhận và yêu mến Chúa Kitô hơn.
Anh chị em thân mến!
Là những người đồ đệ của Ðức Kitô,
mỗi người chúng ta khi dấn thân vào công cuộc phát triển từ thiện xã hội, chúng
ta không nên chỉ dừng lại ở chiều kích vật chất phàm trần mà thôi, nhưng phải
cố gắng như Mẹ Têrêsa Calcutta để đưa anh chị em trở về với tình yêu Thiên
Chúa, nhìn nhận Ðức Kitô là Ðấng cứu chuộc nhân loại.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta
được dịp nhìn thấy thái độ vừa từ thiện, vừa nâng cao tinh thần của Chúa Giêsu
đối với người bất toàn nằm bên giếng nước. Chúa chữa anh được lành bệnh, đồng
thời Ngài mời gọi anh hãy canh tân tâm hồn là đừng phạm tội nữa để khỏi phải
khốn khổ hơn trước.
Có thể nói được rằng, người được
Chúa Giêsu chữa lành trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người nghèo khổ nhất trong
số những người nghèo bệnh tật nằm bên bờ giếng gần thành Giêrusalem, lúc mà
Chúa Giêsu đi ngang qua. Anh nằm chờ từ 38 năm nay, có biết bao nhiêu người đi
qua, kể cả những vị lãnh đạo trong dân Do Thái, những kẻ thuộc nằm lòng Kinh
Thánh và muốn tuân giữ luật Chúa dạy cho đến tận cùng, với đủ mọi chi tiết. Họ
đã đi ngang qua đó, nhưng không nhìn thấy người anh em đang cần được giúp đỡ.
Nhưng, Chúa Giêsu đã nhìn thấy và Ngài đã chữa anh được lành bệnh. Ðó là việc
Ngài thực hiện những dấu lạ: cho người què được đi, cho kẻ bệnh tật được lành
mạnh để kêu gọi những người đang chờ dấu lạ của Ðấng Cứu Thế sắp đến hãy mở mắt
ra và nhìn nhận Ngài là Ðấng Cứu Thế.
Thế nhưng, không ai mở mắt tinh
thần ra để nhìn sự hiện diện của Chúa. Người được chữa lành không nhận ra Chúa
và những người Do Thái khác lãnh đạo tôn giáo đang có mặt ở đó cũng không nhận
ra Chúa. Họ chỉ nhìn thấy trường hợp lỗi luật ngày Sabat và muốn gây sự với
Chúa, hơn là vui mừng vì một người anh em được lành bệnh.
Phần Chúa Giêsu, Ngài không dừng
lại ở việc chữa lành tật bệnh thể xác, nhưng Ngài muốn tiến xa hơn nên đã kêu
gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần linh hồn quan trọng hơn: "Anh
đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu đã thực hiện cả hai công tác phát triển và
cứu rỗi chung cả nhân loại.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý người con tinh
thần của ngài như sau:
Những người khác đang ở quanh con,
cả nhân loại đang đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù. Ðời con phải là
hiến dâng để bắc nhịp cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất
cả. Bên Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em con. Món
quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc cho con không phải là chiếc áo
đẹp, đôi giày tốt, cái đồng hồ quí, nhưng là tình người, tình anh em mà con âm
thầm tặng cho họ qua các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày sống của con.
Mỗi người chúng ta cầu xin Chúa ban
cho mình có một tâm hồn và đôi mắt như Chúa, để yêu thương và giúp đỡ khi nhìn
thấy nhu cầu của anh em xung quanh đang cần đến. Công việc tông đồ của chúng ta
không phải là việc làm của con người, nhưng là việc làm của Thiên Chúa, nên cần
có những tâm tình của Ngài.
Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta
là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ
đòi hỏi, là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người
nghèo khổ, là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác
ái, an ủi. Nhờ tông đồ mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.
Những việc làm tốt của chúng ta góp
phần giúp anh chị em nhìn nhận Chúa và yêu mến Ngài hơn.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con
quả tim như Chúa, để biết yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa. Amen.
(Veritas
Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần IV MC
Bài đọc: Eze 47:1-9; Jn 5:1-3a, 5-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người.
Nước không thể thiếu
trong đời sống con người. Tại Jerusalem và miền nam của Israel , nước
còn quan trọng hơn nữa vì nằm trên núi và sa mạc. Nếu không có nước, con người
và muôn lòai không thể sống. Nước còn có một công dụng khác: rửa sạch mọi nhơ
bẩn. Nước thánh từ Đền Thờ chảy ra là hình ảnh của Nước Rửa Tội trong đêm Vọng
Phục sinh, có thể thanh tẩy mọi ô uế trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh sự cần thiết của nước trong đời sống. Trong Bài Đọc I, tiên-tri
Ezekiel, tuy sống trong nơi lưu đày, có một thị kiến về nước từ bên phải của
Đền Thờ Jerusalem chảy ra. Nước này nhiều đến độ làm thành một con sông lớn và
chảy về phía Biển Chết và sa mạc Arabah. Nước chảy đến đâu đem sự sống cho muôn
lòai đến đó. Nước này cũng chữa lành mọi bệnh tật của con người. Trong Phúc Âm,
một người bị liệt đã 38 năm, nằm bên hồ Bethzatha chờ mặt nước nối liền Đền Thờ
được khuấy động là nhảy xuống hồ để được chữa lành. May mắn cho anh, Chúa Giêsu
đi ngang, nhìn thấy, và chữa lành. Ngài truyền cho anh đứng dậy, vác chõng, và
đi về nhà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến
đâu, thì ở đó có sự sống.
1.1/ Thị kiến “Nước từ
Đền Thờ chảy ra” của tiên-tri Ezekiel: Nhiều
tác giả đã dùng biểu tượng “Nước từ Đền Thờ chảy ra” (x/c Joel 3:18, Zech 14:8,
Psa 36:8-9, Rev 22:1). Có tác giả cho đây có lẽ là một ám chỉ của giòng nước
chảy ra từ Vườn Địa Đàng (Gen 2:10-14), ngưng chảy vì tội của Adam, xuất hiện
trở lại trong cuộc Xuất Hành qua sa mạc qua biến cố “Nước chảy ra từ Tảng Đá,”
và sau cùng tái xuất hiện trong thành Jerusalem vào Ngày Cánh Chung như một
giòng sông. Phía Đông của Đền Thờ Jerusalem
là thung lũng Kedron, thường thì khô cạn, và người ta có thể băng ngang để leo
lên Vườn Cây Dầu như Chúa Giêsu và các môn đệ thường làm. Thị kiến của Ezekiel
muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa. Ngài có thể làm cho nước ngập tràn
thung lũng Kedron, làm thành một giòng sông chảy vào Biển Chết như sông Jordan .
1.2/ Nước từ Đền Thờ
mang lại sự sống và chữa lành con người: Nơi
nào có nước là có sự sống. Cây trồng bên suối nước sẽ luôn xanh tươi và sinh
nhiều hoa trái. Trong thực tế, Biển Chết là nơi nước sông Jordan chảy
vào; vì không có lối thóat nên nước trở nên rất mặn, và không một sinh vật nào
có thể sống nổi. Thị kiến của tiên-tri Ezekiel có lẽ muốn nói lên sự can thiệp
của Thiên Chúa trong tương lai. Ngài sẽ làm nước từ Đền Thờ chảy ra nhiều đến
nỗi làm thành một giòng sông lấp đầy thung lũng Kedron, chảy vào Biển Chết và
thông xuống vùng sa mạc Arabah. Khi Biển Chết được thông thương, nước sẽ trở
nên tinh sạch hơn và làm cho nước biển hoá lành. Vì thế, “Sông chảy đến đâu thì
mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy
tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” Một
điều chắc chắn hơn, thị kiến này ám chỉ Nước Rửa Tội mà trong đêm Vọng Phục
Sinh, khi chúng ta sẽ hát lên: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra;
và nước ấy chảy đến những ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên …”
2/ Phúc Âm: Người bệnh bất tọai chờ bên hồ nước Bethzatha để được chữa
lành.
2.1/ Lịch sử của hồ nước
Bethzatha: Trước thế kỷ 20, các học giả của
Tin Mừng Gioan cho hồ nước này chỉ là biểu tượng, chứ không có thật tại
Jerusalem, nhiều người còn chú giải 5 hành lang tượng trưng cho 5 Sách của Ngũ
Kinh, 38 năm tượng trưng cho 38 năm dân Do-thái lang thang trong sa mạc. Trường
Kinh Thánh và Khảo Cổ của Dòng Đa-minh, École Biblique, tìm ra tông tích của
chiếc hồ này ở phía Tây của Đền Thờ, gần nhà thờ St. Ann hiện nay, cùng với các
các di tích lịch sử của nó. Hai cái hồ tìm thấy nằm kế cận nhau được giải thích
trong tờ hướng dẫn của các cha dòng White Friars như sau:
- Thời xa xưa, những hồ
chứa nước được thiết lập trong thung lũng này. Một cái hồ đơn giản được đào để
chứa nước chảy qua thung lũng như một cái hồ thiên nhiên. Sau này, cái hồ này
được xây và biến thành hồ nhân tạo với chiều kích 40x50 m bằng cách dùng một
ống dẫn nước rộng khỏang 6 m. Nước trong hồ được dẫn vào Đền Thờ bằng một con
kênh nhỏ. Sách Isa 7:3 và 2 Kgs 18:17 ám chỉ con kênh nhỏ này.
- Vào cuối thế kỷ 3rd BC,
một chiếc hồ thứ hai được thiết lập, có lẽ vào khỏang thời gian của Thượng Tế
Simon (x/c Sir 50:3). Nó được xây ở phía Nam của ống dẫn nước, con kênh nhỏ
được bao phủ và trở thành ống dẫn nước vào Đền Thờ.
- Vào giữa năm 150 BC
và 70 AD, một trung tâm chữa bệnh nổi tiếng được phát triển về phía Đông của
hai cái hồ này. Một giếng nước, chỗ tắm, và những bàn thờ cũng được thiết lập
cho mục đích chữa trị và tôn giáo. Nơi đây là nơi tụ họp của nhóm người bị cấm
không cho vào trong Đền Thờ vì bệnh tật. Họ chờ đợi khi thiên thần khuấy động
nước là lăn xuống hồ để được chữa trị. Chính tại nơi Cửa Chiên này, Chúa Giêsu
đã chữa lành người bại liệt.
- Vào thế kỷ 1st AD,
một cái hồ lớn hơn, BIRKET ISRAEL, được xây gần Đền Thờ, làm cho những cái hồ ở
Bethzatha không còn quan trọng nữa. Một tường thành mới được xây dựng về phía
Bắc bởi Herod Agrippa vào năm 44 AD, ngăn cản không cho nước chảy vào Đền Thờ
nữa.
2.2/ Chúa chữa lành
người bại liệt đã 38 năm: Đức Giêsu thấy anh
ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có
muốn khỏi bệnh không?" Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên,
không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống
trước mất rồi!" Với tình trạng bệnh tật của anh, không thể nào anh là người
thứ nhất lăn xuống hồ. Chúa Giêsu biết anh đã chịu bệnh lâu năm, nên bảo:
"Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!" Người ấy liền được khỏi bệnh,
vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày Sabbath.
2.3/ Tranh luận về ngày
Sabbath.
(1) Vi phạm ngày
Sabbath: Vác chõng đi trong ngày Sabbath là vi
phạm Lề Luật nặng nề, và có thể bị ném đá đến chết. Khi thấy anh vác chõng,
người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày Sabbath, anh
không được phép vác chõng!" Anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh
đã nói với tôi: "Anh hãy vác chõng mà đi!" Họ hỏi anh: "Ai là
người đã bảo anh: "Vác chõng mà đi?" Nhưng người đã được khỏi bệnh
không biết là ai.
(2) Cuộc gặp gỡ lần thứ
hai: Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền
Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải
khốn hơn trước!" Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giêsu là người đã
chữa anh khỏi bệnh. Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa
bệnh ngày Sabbath.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Như nước cần cho sự
sống phần xác thế nào, nước từ Đền Thờ chảy ra cũng cần cho sự sống phần hồn
như vậy. Nước Rửa Tội xóa sạch mọi tội của con người và mang lại cho người lãnh
nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
- Không có sự hiện diện
của Thiên Chúa trong cuộc đời, con người sẽ bị khô héo lâu năm như người bại
liệt. Khi có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời, Ngài sẽ chữa lành mọi
bệnh tật cho con người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Thứ
Ba :
Ed 47,1-9.12 ; Ga 5,1-3a.5-16
A. Hạt giống...
1. Bài đọc 1 : Sách Bài đọc Phụng vụ đã tóm
thị kiến của ngôn sứ Êdêkien lại thành một câu “Tôi đã thấy nước từ bên phải
đến thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi”.
2. Bài Tin Mừng : Chúa Giêsu chính là nguồn
nước cứu rỗi ấy. Người bất toại nằm chờ bên hồ Bétsaiđa đã 38 năm nhưng chưa có
cơ hội xuống được nước hồ để khỏi bệnh. Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu “Anh hãy
đứng dậy vác chõng mà về” thì tức khắc anh khỏi bệnh.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu thường “là cà” ở những nơi có
những người khốn khổ, để chia xẻ với họ, an ủi họ, giúp đờ họ và nếu họ tin thì
cứu chữa họ. Có phải đó cũng là những nơi tôi thường tới không ? Trong Mùa
Chay, Chúa muốn tôi thay mặt Chúa để đến những nơi đó, tới với những người đó...
2. “Thưa Ngài tôi không được ai đem xuống
hồ”. Đó cũng là tiếng than ngày hôm nay của biết bao người đau khổ trong thể
xác và trong tâm hồn. Họ không được ai đem họ đến với Chúa là nguồn nước trị
mọi bệnh tật hồn xác. Frédo Krumnov, một tông đồ giáo dân, một vài tuần trước
khi chết đã chia xẻ tâm tư của một người bệnh sắp chết như sau : “Người còn
khoẻ mạnh không thể nào hiểu được tâm hồn người bệnh nặng sẵn sàng cởi mở đón
Chúa như thề nào đâu...” (Croire, trang 134. Nxb Ouvrières)
3. “Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong
Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38
năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với
một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi
người tàn tật này gặp gở Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình và tin tưởng
ờ lời Ngài thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện” (Trích "Mỗi ngày
một tin vui")
4. Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào
thiên đàng ; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
01/04/14 THỨ
BA TUẦN 4 MC
Ga 5,1-3.5-16
Ga 5,1-3.5-16
LÀ BẠN CỦA NGƯỜI KHỔ ĐAU
Đức Giê-su … biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì
nói :” Anh có muốn khỏi bệng không ?” (Ga 5,6)
Suy niệm: “Mãi là người đến sau”, tên một bài hát, chính là thân phận của người đau ốm trong bài Tin
Mừng. Đã 38 năm nay, anh vẫn mãi là người đến sau: “Khi tôi đến đó, thì đã có
người khác xuống trước mất rồi!” Cuộc đời anh lặng lẽ trôi qua
trong cô độc, không ai giúp đưa anh xuống hồ trước tiên để được khỏi bệnh. Rồi
Đức Giê-su xuất hiện và thấy anh. Ngài gợi cho anh ước muốn rũ bỏ cuộc sống
buồn sầu và thụ động. Ngài mời gọi anh đừng ngồi chờ phép lạ, nhưng cộng tác
với Ngài bằng cách làm điều mà 38 năm nay anh chưa bao giờ làm được: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà
đi!”Với
quyết tâm của ý chí, khát khao của ước muốn, cùng với quyền năng Ngài, anh đã
thành công.
Mời Bạn: Những trang Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su luôn ưu ái những kẻ cô
thế cô thân, sẵn lòng nâng đỡ những người không ai quan tâm. Ngài là bạn của
những con người khổ đau, không có bạn hữu trên đời. Hãy chọn Ngài làm bạn thân
của đời mình, bạn sẽ có người luôn thông cảm, chia sẻ tất cả những gì vui buồn
sướng khổ trong cuộc đời. Bạn có nỗ lực sống tình bạn hữu với những người cô
độc, kém may mắn không?
Sống Lời Chúa: Trong mùa Chay này tôi sẽ dành thời gian -thay vì thư giãn giải
trí theo sở thích riêng- để nâng đỡ, thăm viếng, an ủi một người đang buồn sầu,
đau khổ, bệnh tật...
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa luôn là
người bạn với những ai cô đơn, buồn sầu. Xin giúp chúng con biết sống theo
gương Chúa: mở đôi mắt nhìn thấy những người khổ đau, mở quả tim để yêu mến, mở
đôi tay để diễn tả tình thương mến ấy cho con người. Amen.
Muốn trở nên lành mạnh
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở
nên lành mạnh không? Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ
tội lỗi. Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa
Suy niệm:
Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng
khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở
vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến
chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa Chiên
dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bếtdatha này khá lớn, có
hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành
lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật
nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi hy
vọng khỏi bệnh.
Giữa bao người ốm đau tàn tật
đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu,
nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian
bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến
với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra
lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi
của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời câu
hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng
cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải
nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ giúp
từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi
lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi”: đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính sức
của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần,
nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào
mình nữa không?
Anh bất toại mong có một người
bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ
hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy là
hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở gần,
kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà người
vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ
dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây giờ
anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu
tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành
mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một
người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào
ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi
tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất
toại kinh niên của mình không?
Ngài mời tôi đứng lên và mạnh
dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài
dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
Cầu
nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm
ĐEM NỀM VUI ĐẾN CHO THA NHÂN
Có một điều làm tôi suy nghĩ
khi đọc đoạn Tin mừng này: đó là người bệnh nằm bên bờ hồ đã lâu, nhưng không
ai giúp anh ta. Vì thế anh ta không thể xuống hồ nước như ước nguyện. Anh ta
sống trong cô đơn, đau khổ với cảm nhận chết dần chết mòn bên bờ hồ này. Tôi
cũng cảm thấy buồn cho anh. Tại sao không ai giúp anh ta?
- Có lẽ ai nấy cũng phải lo
chữa bệnh cho mình nên phải tranh giành nhau để xuống hồ trước.
- Có lẽ ai cũng có việc của
mình nên không rảnh để giúp đỡ cho người khác.
- Có lẽ trái tim sắt đá đã làm
cho người ta thờ ơ và lạnh nhạt với những đau khổ của tha nhân.
Thật may mắn cho bệnh nhân,
Chúa Giêsu đã hiện diện. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh. Ngài chính là “nguồn
nước” chữa lành và ban sự sống cho con người.
Ngày hôm nay, người ta vẫn
tranh giành nhau để đạt danh lợi cho riêng mình:
- Vẫn có những người đau bệnh
cần được giúp đỡ.
- Vẫn có nhiều người đang phải
sống trong đau khổ nhưng không được quan tâm..
Lạy Chúa, xin cho con biết
chia sẻ và nâng đỡ những người yếu đau bất hạnh. Xin cho con dám hy sinh dấn
thân phục vụ, sống bác ái yêu thương để đem niềm vui cho người khác như Chúa đã
chữa lành cho cho người bệnh tật trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG TƯ
Thiên Chúa Của Tình Yêu Vô Hạn
Bao nhiêu người trên thế giới, bao nhiêu dân tộc,
bao nhiêu truyền thống, bao nhiêu nền văn hóa, bao nhiêu tôn giáo đã bảo vệ và
tiếp tục bảo vệ hình ảnh của chính mình nghĩ ra về Thiên Chúa?
Thiên Chúa là hữu thể vô cùng hoàn hảo, là hữu
thể tối cao và khôn dò; Ngài là Chủ Tể tuyệt đối của mọi sự. Dường như chuyện
Ngài trở thành con người là điều không thể được; cũng dường như không thể được,
chuyện Ngài hầu hạ và rửa chân cho các tông đồ, hoặc chuyện Ngài có thể chết
trên thập giá. Nhưng, đó là cái nhìn của con người.
Cái nhìn của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Nói
một cách thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã
tạo thành con người theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Vì Ngài là tình yêu,
Ngài đã thiết lập giao ước với con người. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã trở
thành con người. Thiên Chúa đã yêu thương thế giới đến nỗi đã trao ban chính
Con Một Ngài, để cho con người có thể đạt được sự sống đời đời (Ga 3,16). Vì
Ngài là tình yêu, Thiên Chúa đã chấp nhận con đường thập giá để thứ tha tội lỗi
nhân trần và để thiết lập giao ước mới – giao ước vĩnh cửu – trong máu Ngài. Vì
Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Tình yêu không nhắm gì khác ngoài sự tốt lành mà
nó khao khát muốn làm. Vì sự tốt lành này mà Đấng Toàn Năng sẵn lòng trở nên
yếu đuối như một con người, chấp nhận số phận chết như một con người. Ngài sẵn
lòng trở nên yếu đuối và bị nhai nuốt đi như tấm bánh: “Này là Mình Thầy, sẽ bị
nộp vì anh em. Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Con người có thể chấp nhận một Thiên Chúa chịu
đóng đanh hay không? Con người có thể chấp nhận một Thiên Chúa hiến tế hay
không? Đó là câu hỏi được đặt ra ngay chính trung tâm của Tam Nhật Thánh.
Hỏi – tức là đã trả lời. Vâng, con người có thể
chấp nhận hay từ chối vị Thiên Chúa của tình yêu vô hạn ấy. Thật vậy, con người
có thể quay lưng chống lại Thiên Chúa hay thậm chí phủ nhận sự hiện hữu của
Ngài. Nhưng còn Thiên Chúa, Ngài “không thể phủ nhận chính Ngài” (2Tm 2,13).
Ngài không thể thôi là chính Ngài! Ngài không thể thôi là tình yêu!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 01-4
Ed 47, 1-9.12; Ga 5, 1-16.
LỜI SUY NIỆM: “Này,
anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!”
Đối với một bệnh nhân đã 38 năm luôn sống trong căn bệnh của mình, lại
không có người thân bên cạnh. Chúa Giêsu đã nhìn thấy và thấu hiểu điều đó.Chúa
đã tỏ tình yêu thương của Chúa đối với anh. Nên Chúa đã cho anh ta khỏi bệnh và
Chúa căn dặn anh ta đừng phạm tội nữa; kẻo phải khốn nạn hơn.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cũng đang nhìn thấy và thấu hiểu mọi sự trong ngoài
của mỗi người trong gia đình chúng con. Xin cho chúng con biết sám hối, biết
chạy đến với Chúa, để được Chúa chữa lành với một quyết tâm chừa cải để khỏi
tái phạm.
Mạnh Phương
01 Tháng TưTu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Ði được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy".
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật mà vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Ðể yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt
(Lẽ Sống)
1-4
Thánh Hugh ở Grenoble
(1052-1132)
T
|
hánh Hugh sinh năm 1052 ở
Pháp. Ngài là một người cao lớn, đẹp trai và hòa nhã. Mặc dù ngài muốn tận hiến
cho Thiên Chúa trong đan viện, nhưng ngài đã được ban cho một địa vị quan
trọng. Ngài được thụ phong linh mục và sau đó được tấn phong giám mục.
Ngay khi làm giám mục, Ðức
Hugh bắt đầu sửa đổi các tật xấu của nhiều người trong giáo phận. Ngài hoạch
định nhiều chương trình khôn ngoan, nhưng đó chưa phải là tất cả những gì ngài
thực hiện. Ðể xin Thiên Chúa thương xót đến người dân, ngài cầu nguyện với tất
cả tâm hồn. Ngài hy sinh hãm mình cực độ. Trong một thời gian ngắn, nhiều giáo
dân trong địa phận đã trở lại với nếp sống đạo đức. Chỉ có giới trưởng giả là
tiếp tục chống đối ngài.
Tuy là giám mục, Ðức Hugh vẫn
mong muốn đời sống một đan sĩ. Ðó là điều ngài thực sự mong ước. Ngài từ chức
giám mục của giáo phận Grenoble
và gia nhập đan viện. Tưởng đã yên thân, nhưng đó không phải là ý Chúa. Chỉ sau
một năm, đức giáo hoàng đã yêu cầu ngài trở về Grenoble . Và Ðức Hugh đã vâng lời. Ngài biết
rằng làm vui lòng Thiên Chúa thì quan trọng hơn là thoả mãn ý riêng.
Trong bốn mươi năm, hầu như
lúc nào ngài cũng bị đau yếu. Ngài bị nhức đầu dữ dội cũng như bị đau bao tử.
Tuy nhiên ngài vẫn gắng sức làm việc vì yêu mến dân chúng. Ngài chịu đau khổ vì
những thử thách và cám dỗ. Nhưng nhờ sự cầu nguyện, ngài không bao giờ chịu
thua tội lỗi.
Ðức Hugh từ trần ngày 1 tháng
Tư 1132, chỉ hai tháng trước khi mừng sinh nhật thứ tám mươi của ngài, sau khi
chu toàn bổn phận của một giám mục trong năm mươi hai năm.
Vào năm 1134, chỉ hai năm sau
khi ngài từ trần, Ðức Giáo Hoàng Innôxentê II đã tuyên xưng ngài là thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét