30/03/2014
Chúa Nhật IV Mùa
Chay Năm A
(phần II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN 4 MÙA CHAY A
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM A
Sách Samuel quyển I, 1 Sm.16, 1b.6-7.10-13a; Thư
Thánh Phaolô gửi Tín hữu Êphêsô 5,8-14 và Phúc Âm Thánh Gioan 9,1-41
I. Giáo Huấn P.Â.:
Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian: Đầy lùi bóng tối ma quỉ và ban cho con
người ánh sáng Đức tin, tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ có khả
năng ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu.
Những bí tích ban ơn cứu độ sẽ được thiết lập: Dùng những chất liệu hữu hình
bên ngoài như nước, dầu, bánh rượu để ban ơn thánh vô hình bên trong. Giống như
trong việc chữa lành người mù bẩm sinh bằng việc lấy nước miếng pha với bùn và
đi rửa ở giếng Silôê.
II. Vấn nạn P.Â.
Những phần chính trong bài phúc âm và ý nghĩa?
Sự kiện bên ngoài dẫn đến việc chữa lành:
Thấy người mù – các môn đệ không nghĩ đến việc chữa lành hay giúp đỡ nhưng thắc
mắc về lý do tại sao có người bị mù, tội anh ta hay tội Cha Mẹ anh ta?
Chúa Giêsu lấy nước miếng hoà với bùn xức vào mắt người mù và bảo đi rửa ở
giếng Silôê. Nước miếng và bùn không là linh dược chữa bệnh mù. Cho tới bầy giờ
y khoa cũng bó tay với bệnh mù từ thuở bình sinh. Tuy nhiên, Chúa muốn bộc lộ
uy quyền của Ngài, biến một vật chất không dược tính, không khả năng trị bệnh
thành một linh dược nhằm dẫn con người từ ánh sáng tự nhiên đến ánh sáng đức
tin. Giống như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa qua, bên bờ giếng Giacóp, Chúa
dẫn người phụ nữ từ nước tự nhiên đến nước hằng sống, từ khát vọng thoả mãn đời
sống bằng những cuộc tình tạm bợ sang việc đi tìm Đấng là Nước Hằng Sống thoả
đáp mọi khác vọng con người.
Chúa Giêsu dùng việc đi rửa ở giếng Silôê để người mù ngay khi sáng mắt không
nhìn Đấng là ánh sáng ngay, nhưng anh ta sẽ có ánh sáng đức tin sau khi đã bị
thử thas1ch và bị khai trừ khỏi cộng đồng người Do Thái. Họ có mắt sáng thể lý,
nhưng bị mù đức tin.
Phản ứng tiêu cực của Biệt Phái:
Chối bỏ thiên tính nơi Chúa Giêsu vì “không giữ ngày Sabát!” Có người thắc mắc:
Giả như Chúa Giêsu cho người mù sáng mắt vào ngày khác, không là ngày Sabát,
liệu người Pharisêu có tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hay không? Không, ngày
Sabát chỉ là cớ của lề l;uật, tuy nhiên điểm mấu chốt vẫn là: Tên nầy là con
bác thợ mộc Giuse và bà Maria nghèo khổ ở làng Nazarét” thì làm sao có thể là
tiên tri hay Con Thiên Chúa được. Không thể có việc Thiên Chúa xuống làm con
người trong niềm tin của người Do Thái. Nghi ngờ về sự thật anh mù đã bị mù và
đã được Ông Giêsu chữa lành, nên đã đi tìm thêm chứng cớ bằng việc phỏng vấn
Cha Mẹ anh mù được sáng mắt: Hắn là còn của Ông bà và đã bị mù từ bình sinh.
Hội ngộ trong ánh sáng đức tin:
Người mù được sáng mắt bị khai trừ khỏi cộng đồng Do Thái, theo ý nghĩa Phúc Âm
Gioan, đó là cộng đồng mù thiêng liêng. Chúa Giêsu đón gặp anh mù sáng mắt và
đã ban cho anh ta ánh sáng dức tin: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói
với anh đây!” Anh mù sấp mình thờ lạy và chân nhận Chúa Giêsu là Thiên chúa làm
người. Anh đã sáng mắt và đã có ánh sáng đức tin. Anh xa rời đám người thấy
đường nhưng thiều ánh sáng đức tin, không nhìn thầy Thiên Chúa trong đời họ.
Tại sao các môn đệ Chúa khi thấy người mù lại đặt câu hỏi “ai đã phạm
tội?”
Người Do Thái quan niệm: Bệnh là hậu quả của tội, có thể là tội của người bệnh
hoặc tội của Cha Mẹ, Ông Bà hay ai đó trong gia đình người bệnh. Người Việt Nam
cũng có quan niệm “quả báo” na ná như vậy khi cho rằng “đời cha ăn mặn, đời con
khát nước!” hay “Ông Trời có mắt!” Chúa không chấp nhận quan niệm nầy, nhưng
anh ta mù là “để các việc Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh!”
Như vậy Chúa làm cho người ta mù hay tàn tật để “các việc Thiên Chúa được tỏ
hiện” sao?
Chúa không làm ai mù cả và cũng không dùng chúng ta làm vật hy sinh để tỏ lộ
vinh quang Chúa, nhưng dù chúng ta có mang những bệnh tật vẫn có thể làm sáng
danh Chúa. Bằng chứng là qua việc chữa lành người mù từ thưở bình sinh Chúa
minh chứng rắng: Chúa là ánh sáng trần gian.
Động đất và sóng thần đan tàn phá nước Nhật và giết chết hàng ngàn người Nhật.
Không vì người Nhật dã man đã từng giết chết nhiều người Việt Nam khi đánh
chiếm Đông Dương. Nên bị Chúa trừng phạt. Nhưng đó là hậu quả của núi lửa đang
hoạt động dưới lòng đất mà đất Nhật đang chịu ảnh hưởng.
Đây cũng là dịp để người Nhật có thể mở mắt để thấy ánh sáng đức tin qua lòng
bác ái của các quốc gia Kitô giáo. Đây cũng là dịp để người Nhật biết khiêm tốn
và nhi92n nhận giới hạn của mình trước sức mạnh của thiên nhiên.
III. Thực hành P.Â.:
Chúng ta sáng hay mù?
Chúng ta có lúc sáng và có lúc mù:
Chúng ta sáng mắt khi chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và thấy Chúa trong anh em
chúng ta.
Chúng ta mù mắt khi chúng ta lầm đường lạc lối, sống theo những cám dỗ của ma
quỉ và không thấy người khác là anh chị em của mình để thương yêu và giúp đỡ.
Nhiều khi chúng ta không bị mù bẩm sinh, chúng ta được ánh sáng đức tin soi dẫn
từ ấu thời qua Bí Tích Rửa Tội. Nhưng khi lớn lên, chúng ta bị bóng tối của ma
quỉ úp chụp hay chúng ta lấy ích kỷ che mắt mình để khỏi nhìn thấy những gì
phải theo và phải làm. Chúng ta tự làm mình mù.
Đi lễ mỗi ngày Chúa Nhật, chúng ta bị nghe nhiều thông báo, nhiều kêu gọi liên
quan đến những việc từ thiện bác ái. Giống như người Do Thái, chúng ta bắt đầu
căn nhằn và trưng dẫn luật “Nhà thờ là nơi thờ phượng Chúa, cứ nói về tiền
mãi!” Thực ra, chúng ta muốn diếc và muốn không nhìn thấy những nhu cầu bác ái,
gây tốn kém cho chúng ta.
Ít nhiều trong các nhà thờ, sau lời nguyện hiệp lễ, thường có những thông báo liên
quan đến bác ái, tài chánh và vật chất. Chúng ta không cách gì tránh khỏi! Bao
lâu còn xác phàm, con người càng cần những nhu cầu vật chất. Giáo Hội trần thế
là một tổ chức trần thế, đồng hành với xã hội, làm sao thoát được việc nói về
tiền trong nhà thờ. Nếu không nói một năm đôi lần thì nói ở đâu bây giờ? Hay
không nói, không nhắc nhỡ thì làm sao chúng ta biết?
Nhiều khi đã nói, đã nhắc nhỡ thường xuyên, nhưng vẫn có người cố tình không
biết, không nghe và dững dưng, nên buộc lòng người hữu trách phải tiếp tục
thông báo và nhắc nhỡ. Vấn đề hơi quá đáng trong các giáo phận người Canada bây
giờ là: Nhiều ban bệ, nhiều văn phòng ở các Trung Tâm Mục Vụ. Một Tổng Giáo
Phận tôi biết có 260 nhân viên, làm việc và ăn lương. Đây là địa phận lớn, cần
nhiều nhân viên! Tuy nhiên có bao giờ nghĩ đến chuyện cất giảm nhân sự không?
Nhân viên trong các văn phòng tự tạo công việc và làm cho mình bận bịu bằng
việc ra văn thư hay thông báo hay sáng kiến mục vụ cách nầy cách khác. Nhiều
khi vì ích lợi mục vụ, nhiều khi vì vấn để “giữ job”.
Hậu quả: Quá nhiều thông báo, chỉ thị và sáng kiến gửi xuống các giáo xứ. Có
thứ cần, có thứ không cẩn. Nhiều quá, gây mệt và gây giả mù: Không nghe, không
thấy, không làm… cho khoẻ thân. Cũng đâu có “chết thằng tây nào!”
Có trên 45 triệu người trên thế giới đang bị mù lòa thể lý.
Nhưng cũng có hàng tỉ người bị mù đức tin hay mù tinh thần.
Hãy làm cho mình sáng mắt bằng cách:
Đọc lại bài Phúc Âm trong gia đình một lần trong tuần nầy.
Các bạn trẻ nghĩ đến một chuyến về Việt Nam thăm quê hương, không để chơi,
không để khoe khaong, nhưng có thể theo một đoàn người làm công tác xã hội giúp
người bệnh tật và nghèo khổ ở các vùng xa xôi không?
Nhiều khi tôi muốn nhắm mắt làm ngơ để khỏi thấy những thực tế cần phải sửa sai
trong đời sống cá nhân hay trong phương cách làm việc. Ngày này người Việt Nam
hay dùng từ “bó tay!” để nói lên những bất lực của mình trước nghịch cảnh. Hãy
khiêm tốn ngồi ăn xin ở vệ đường, tức làm cho người khác thấy bệnh tật hay
khuyết điểm trong cuộc sống của mình và xin Chúa giúp sức cho mình sáng mắt
nhìn ra những gì cần sửa sai. Với ơn Chúa qua bí tích giải tội, qua việc rước
Chúa, qua việc đọc Lời Chúa… chúng ta dần dà sẽ sáng: Tâm sáng tình yêu và đời
sáng bác ái yêu thương.
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
Suy niệm:
Ðức Giêsu đã chữa một
người mù từ lúc mới sinh,
một người lớn lên trong
bóng đêm dầy đặc.
Ngài cho anh được thấy
ánh mặt trời lần đầu tiên,
thấy khuôn mặt của những
người thân thuộc.
Nhưng quan trọng hơn, anh
đã thấy và tin vào Ðức Giêsu,
Ðấng là Ánh Sáng của thế
giới.
Sau khi được sáng mắt,
anh đã bước vào một cuộc
hành trình đức tin đầy cam go.
Lúc đầu, Ðức Giêsu chỉ là
một người mà anh không rõ.
Sau đó, anh dám khẳng
định trước mặt mọi người
Ngài là một ngôn sứ, là
người bởi Thiên Chúa mà đến.
Cuối cùng, anh đã sấp
mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.
Ðức tin của anh lớn lên
qua những hiểm nguy và đe dọa.
Ngược với thái độ hồn
nhiên và bình an của anh
là thái độ bối rối bất an
của giới lãnh đạo.
Họ cứ hỏi đi hỏi lại về
cách thức anh được chữa lành.
Cha mẹ của anh cũng được
điều tra cẩn thận.
Trước những lập luận vững
vàng của anh,
họ chỉ biết chê anh là
dốt nát và tội lỗi.
Dựa vào một quan niệm hẹp
hòi về việc giữ ngày sa bát,
họ khẳng định Ðức Giêsu
đã phạm tội khi chữa bệnh,
tuy họ vẫn không hiểu tại
sao một người tội lỗi
lại có thể mở mắt cho người
mù từ lúc mới sinh.
Giới lãnh đạo Do Thái
giáo không muốn coi Ðức Giêsu
là người của Thiên Chúa,
vì điều đó đòi họ phải
thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo,
thay đổi bộ mặt tôn giáo
của cha ông,
nhất là đòi họ phải tin
và theo Ngài.
Họ tự hào mình hiểu biết
và đạo đức.
Chính niềm tự hào này đã
khiến họ khép lại,
không có can đảm chấp
nhận mình sai lầm,
và cố chấp ở lại trong
bóng tối.
Mù không phải là một tội.
Cố ý không muốn thấy mới
là tội đáng kể.
Chúng ta ai cũng sợ bị
mù,
nhưng lắm khi ta lại tự
làm cho mình nên mù lòa,
khi không chấp nhận thực
tế về bản thân,
khi né tránh sự thật và
không muốn nghe ai.
Như những người mù xem
voi,
mỗi người chúng ta chỉ
thấy một phần của thực tại,
một phần nhỏ của chân lý.
Cần khiêm tốn để nhận
mình mù,
mù về chính mình, mù về
lãnh vực mình thông thạo,
vì điều mình biết chỉ là
phần nổi của tảng băng,
vì con voi không giống
như cái cột nhà hay cái quạt.
Thay vì cãi nhau do có
cái nhìn khác nhau,
chúng ta có thể bổ túc
cho nhau,
để dần dần đến gần chân
lý trọn vẹn.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên
đường về Đamát,
xin
cho con trở nên mù lòa
vì
ánh sáng chói chang của Chúa,
để
nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh
sáng phá tan bóng tối trong con
và
đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ
vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để
đón nhận những tia sáng nhỏ
mà
Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để
Chân lý cho con được tự do.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Chay (A)
Chúa Nhật, 30 Tháng 3,
2014
Người
mù được thấy
Mắt
chúng ta mở ra khi chúng ta sống với Chúa Giêsu
Ga
9:1-41
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin Chúa hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh
với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường đến E-mau.
Trong ánh sáng Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp
các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về
bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy
tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống và trong
những người chung quanh, nhất là nơi những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, giống như hai môn đệ từ E-mau, chúng
con cũng sẽ hưởng được sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin điều này vì danh Chúa
Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai
Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Đoạn
Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta suy gẫm về việc chữa lành
cho một người đàn ông bị mù từ lúc mới sinh. Đó là một đoạn văn ngắn
nhưng sống động. Đây là một ví dụ cụ thể về phương cách quyển Tin Mừng
Thứ Tư mặc khải cho thấy ý nghĩa ẩn sâu của các sự kiện trong cuộc đời của Chúa
Giêsu. Câu chuyện về việc người mù được chữa lành giúp cho chúng ta mở
mắt để nhìn thấy hình ảnh về Chúa Giêsu mà mỗi người chúng ta đang mang trong
lòng. Chúng ta thường nghĩ về một Chúa Giêsu giống như một vì vua vinh
quang, xa cách với đời sống của người bình thường! Trong các sách Tin
Mừng, Chúa Giêsu được giới thiệu như một Tôi Tớ của người nghèo, bạn của những
người tội lỗi. Hình ảnh của một Đấng Mêssia-Vua mà những người Biệt Phái
có trong tâm trí, đã khiến chúng ta không nhận biết được Chúa Giêsu Đấng
Mêssia-Tôi Tớ. Khi đọc Tin Mừng, chúng ta hãy cố gắng chú ý đến hai
điều: (i) một cách thành thạo và tự do, người mù phản ứng với các hành
động khiêu khích của nhà cầm quyền, và (ii) cách người mù tự mở mắt mình về
Chúa Giêsu.
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Ga
9:1-5: Sự mù lòa trước cái ác tồn tại trong thế gian
Ga
9:6-7: Dấu hiệu của “Đấng được Chúa sai đến” là người sẽ gây ra những
phản ứng khác nhau
Ga
9:8-13: Phản ứng của những người láng giềng
Ga
9:14-17: Phản ứng của những người Biệt Phái
Ga
9:18-23: Phản ứng của cha mẹ người mù
Ga
9:24-34: Phán quyết cuối cùng của những người Biệt Phái
Ga
9:35-38: Thái độ sau cùng của người mù từ khi mới sinh
Ga
9:39-41: Lời suy gẫm cuối cùng
c)
Phúc Âm:
1 Khi ấy,
Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. 2 Môn
đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, y hay cha mẹ y, khiến y mù từ
khi mới sinh?” 3 Chúa Giêsu đáp: “Không phải y
cũng chẳng phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ
ra nơi y. 4 Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những
việc của Đấng đã sai Ta; đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. 5 Bao
lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.”
6 Nói
xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miệng trộn thành bùn, rồi xoa bùn lên mắt
người ấy và bảo: 7“Ngươi hãy đến hồ Silôe mà rửa (chữ
Silôe có nghĩa là ‘người được sai đến’). Hắn ra đi và rửa, rồi trở lại
thì trông thấy được.
8 Những
người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Đó
chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” 9 Có kẻ
nói: “Đúng hắn!” Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một
người giống hắn.” Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây.” 10 Họ
hỏi y: “Làm thế nào mắt anh được sáng?” 11 Anh
ta nói: “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và
bảo: ‘Ngươi hãy đến Silôe mà rửa.’ Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi
trông thấy.” 12 Họ lại hỏi: “Ngài ở
đâu?” Anh thưa: “Tôi không biết.” 13 Họ
liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người Biệt Phái.
14 Lý
do tại Chúa Giêsu hòa bùn và chữa mắt cho y lại nhằm ngày Sabát. 15 Các
người Biệt Phái cũng hỏi y do đâu được sáng mắt. Anh đáp: “Ngài đã
xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt.” 16 Mấy
người Biệt Phái nói: “”Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ
ngày Sabát.” Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại
làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. 17 Họ
liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở
mắt cho anh?” Anh đáp: “Đó là một tiên tri.”
18 Nhưng
người Do Thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh
đến. 19 Họ hỏi hai ông bà: “Người này có phải
là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà
bây giờ nó trông thấy? 20 Cha mẹ y thưa rằng:
“Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới
sinh. 21 Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và
ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông
hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy.” 22 Cha mẹ y nói thế
bởi sợ người Do Thái, vì người Do Thái đã bàn định sẽ trục xuất khỏi hội đường
bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. 23Chính
vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi
nó.”
24 Lúc
ấy người Do Thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: “Anh hãy tôn
vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một người tội
lỗi.” 25 Y trả lời: “Nếu đó làm một người tội
lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi
trông thấy.” 26 Họ hỏi y: “Người đó đã làm gì
cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?” 27 Anh
thưa: “Tôi đã nói, và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì
nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?” 28 Họ
liền nguyền rủa anh ta và bảo: “Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn
chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môisen: 29 chúng ta
biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà
đến.” 30 Anh đáp: “Đó mới thật là điều
lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi
đâu! 31 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời
những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa mà làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới
được Chúa nghe lời. 32 Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã
mở mắt người mù từ khi mới sinh. 33 Nếu người đó
không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.” 34 Họ
bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi
họ đuổi y ra ngoài.
35 Chúa
Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo:
“Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?” 36 Anh
thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” 37 Chúa
Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với
anh.” 38 Anh ta liền nói: “Lạy Thầy, tôi
tin.” Và y sấp mình thờ lạy Người.
39 Chúa
Giêsu liền nói: “Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ
không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên
mù.” 40 Những người Biệt Phái có mặt ở đó liền nói
với Người: “Thế ra chúng tôi mù cả ư?” 41 Chúa
Giêsu đáp: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội, nhưng các
ngươi nói: ‘chúng tôi xem thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”
3.
Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để Lời
của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp
chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a)
Phần nào trong đoạn Tin Mừng này đã làm tôi cảm động nhất? Tại sao?
b)
Người ta thường nói: “Không có ai mù đến độ như những kẻ không muốn nhìn
thấy!” Câu này áp dụng vào cuộc đối thoại giữa người mù từ khi mới sinh
và những người Biệt Phái như thế nào?
c)
Chúa Giêsu được ca tụng bằng những danh hiệu gì trong đoạn Tin Mừng? Ai
đã xưng tụng những danh hiệu này? Chúng có ý nghĩa gì?
d)
Tôi thích danh hiệu nào nhất? Tại sao? Hay là, tôi đang mang hình
ảnh nào của Chúa Giêsu trong tâm và trong trí tôi? Hình ảnh này từ đâu mà
có?
e)
Bằng cách nào tôi có thể làm thanh khiết đôi mắt mình để tôi thấy được
Chúa Giêsu thật sự của Tin Mừng?
5.
Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào bài Tin Mừng
a) Bối
cảnh mà Tin Mừng của thánh Gioan đã được viết:
Khi
chúng ta suy gẫm về câu chuyện chữa lành của người mù từ thuở mới sinh, chúng
ta nên ghi nhớ bối cảnh của các cộng đoàn Kitô hữu ở Tiểu Á vào cuối thế kỷ thứ
nhất mà Tin Mừng của thánh Gioan đã được viết cho họ và là những người
đã nhận ra người đàn ông mù và việc chữa lành của anh ta. Bởi vì một quan
niệm trọng pháp về Lề Luật Thiên Chúa, họ đã mù từ thuở mới sinh. Thế
nhưng, như đã xảy ra với người mù, họ cũng đã có thể nhìn thấy sự hiện diện của
Thiên Chúa trong con người của Đức Giêsu Nagiarét và đã hoán cải. Quả là
một quá trình thương đau! Trong việc mô tả những giai đoạn và các cuộc
xung đột về việc chữa lành của người mù, tác giả của sách Phúc Âm Thứ Tư nhắc
lại cuộc hành trình tâm linh của cộng đoàn, từ bóng tối mù lòa đến ánh sáng
chan hòa của đức tin được soi sáng bởi Chúa Giêsu.
b) Lời
bình giải về bản văn:
Ga
9:1-5: Sự mù lòa trước cái ác tồn tại trong thế gian
Khi các
môn đệ thấy người mù, họ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, y hay cha
mẹ y, khiến y mù từ khi mới sinh?” Trong thời gian ấy, một khuyết tật về
thể chất hoặc bệnh tật thì bị nghĩ đó là một hình phạt từ Thiên Chúa.
Liên đới các khuyết tật về thể chất với tội lỗi là phương cách các vị tư tế của
Cựu Ước đã duy trì quyền lực của họ trên lương tâm của dân chúng. Chúa
Giêsu giúp các môn đệ của Người thay đổi ý nghĩ của họ: “Không phải y
cũng chẳng phải cha mẹ y đã phạm tội … y đã được sinh ra để công việc của Thiên
Chúa được tỏ ra nơi y!” Công việc của Thiên Chúa cũng
giống như Phép Lạ của Thiên Chúa. Do đó, dấu hiệu trong thời
gian ấy là sự vắng mặt của Thiên Chúa, giờ đây là dấu hiệu sự hiện diện rực rỡ
của Người ở giữa chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Bao lâu còn ban ngày,
Ta phải làm việc Đấng đã sai Ta; đêm đến không ai có thể làm việc được
nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.”
Ban Ngày của những dấu hiệu tự
nó bắt đầu xuất hiện khi Chúa Giêsu, “ngày thứ ba” (Ga 2:1), đã làm “dấu hiệu
đầu tiên” tại Cana (GA 2:11). Nhưng ngày sắp tàn. Màn đêm sắp buông
xuống, vì nó đã là “ngày thứ bảy”, ngày Sabát, và việc chữa lành người mù bây
giờ là dấu hiệu thứ sáu (Ga 9:14). Ban Đêm là cái
chết của Chúa Giêsu. Dấu hiệu thứ bảy sẽ là sự chiến thắng cái chết lúc
Lagiarô sống lại (Ga 11). Trong Tin Mừng của thánh Gioan chỉ có bảy dấu
hiệu, phép lạ, công bố về dấu hiệu vĩ đại, đó là cái Chết và sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu.
Ga
9:6-7: Phép lạ của “Đấng được Chúa sai đến” là người sẽ gây ra
những phản ứng khác nhau
Chúa
Giêsu nhổ nước bọt xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, xoa bùn lên mắt
người mù và bảo anh ta đến hồ Silôe mà rửa. Anh ta đã đi và trở lại thì
được lành. Đây là phép lạ! Ý kiến của thánh Gioan nói
rằng hồSilôe có nghĩa là sai đến. Chúa Giêsu
là Đấng được sai đến bởi Chúa Cha để làm các công việc
của Thiên Chúa, những phép lạ của Chúa Cha. Phép lạ của việc “sai đến”
này là người mù đã bắt đầu trông thấy.
Ga
9:8-13: Phản ứng đầu tiên: của những người láng giềng
Người
mù đã được nổi tiếng. Những người láng giềng nghi ngờ: “Đây có phải
là anh ta không?” Và họ thắc mắc: “Làm cách nào mà mắt anh được
sáng?” Người trước kia bị mù làm chứng: “Người mà thiên
hạ gọi là Giêsu đã mở mắt tôi”. Nền tảng đức tin của chúng ta vào Chúa
Giêsu là chấp nhận rằng Người cũng là một con người như chúng ta. Người
láng giềng lại hỏi: “Người đang ở đâu?” – “Tôi không biết!” Họ
không hài lòng với câu trả lời của người mù, và để làm rõ vấn đề, họ liền dẫn
anh ta đến trước những người Biệt Phái, những kẻ có thẩm quyền tôn giáo.
Ga
9:14-17: Phản ứng thứ hai: của những người Biệt Phái
Hôm đó
là ngày Sabát và trong ngày Sabát, người ta cấm chữa bệnh. Khi bị tra hỏi
bởi những người Biệt Phái, người trước kia bị mù thuật lại mọi việc một lần
nữa. Một số người Biệt Phái, mù quáng trong việc tuân thủ theo lề luật,
nói: “Người này không thể nào bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày
Sabát!” Họ không thể thừa nhận rằng Đức Giêsu có thể là một dấu hiệu của
Thiên Chúa bởi vì Người đã chữa lành người mù trong ngày Sabát. Nhưng
những người Biệt Phái khác, phải đối mặt với phép lạ, trả lời: “Làm sao
một kẻ tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với
nhau! Vì vậy, họ quay lại hỏi người mù: “Anh nói gì về ông ta,
người đã mở mắt cho anh?” Và anh ta làm chứng: “Ông ấy là một Tiên
Tri!”
Ga
9:18-23: Phản ứng thứ ba: của cha mẹ anh mù
Những
người Biệt Phái, nay được gọi là người Do Thái, không tin rằng anh
ta đã mù. Họ nghĩ rằng đó là chuyện lừa dối. Vì vậy, họ đã đòi cha
mẹ anh đến và hỏi: “Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị
mù từ thuở mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó trông thấy? Một
cách rất cẩn thận, cha mẹ anh ta trả lời rằng: “Chúng tôi xác nhận đây
chính là con chúng tôi và nó đã bị mù từ khi mới sinh, nhưng làm sao mà bây giờ
nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn
lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy!” Sự mù lòa của các người
Biệt Phái trước bằng chứng của việc chữa lành tạo nên sợ hãi trong dân
chúng. Và bất cứ ai tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Cứu
Thế thì đã bị trục xuất khỏi hội đường. Cuộc đối thoại với cha
mẹ của người mù tiết lộ sự thật, nhưng những kẻ có thẩm quyền tôn giáo sẽ không
chấp nhận điều này. Sự mù lòa của họ trở nên trầm trọng hơn bởi vì lời
chứng được đưa ra, bây giờ họ sẽ không chịu chấp nhận lề luật chép rằng lời
chứng của hai người là chứng thật (Ga 8:17).
Ga
9:24-34: Phán quyết cuối cùng của những người Biệt Phái về Đức
Giêsu
Họ lại
gọi người trước kia đã mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa!
Phần chúng ta, chúng ta biết đó là một kẻ tội lỗi.” Ở đây: “hãy
tôn vinh Thiên Chúa” có nghĩa là: “Hãy cầu xin sự tha thứ vì lời nói
dối mà anh vừa mới nói!” Người mù đã trả lời: “Người ấy là một tiên
tri!” Theo những người Biệt Phái, lẽ ra anh ta đã nên nói: “Người
ấy là kẻ tội lỗi!” Nhưng người mù thông minh. Anh ta trả lời:
“Nếu đó là một kẻ tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết rằng trước đây tôi bị
mù và bây giờ tôi trông thấy!” Không có lời phản bác nào về sự thật
này! Lần nữa, những người Biệt Phái lại hỏi y: “Người đó đã làm gì
cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?” Người mù trả lời pha một
chút mỉa mai: “Tôi đã nói với các ông rồi… Hay là các ông cũng muốn
làm môn đệ Người chăng?” Sau đó họ đã nguyền rủa anh ta và bảo:
“Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông
Môisen, chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó chúng ta không
biết bởi đâu mà đến! … Nếu người này không bởi Thiên Chúa, thì đã không làm
được gì”. Đối diện với sự mù lòa của những người Biệt Phái, ánh sáng đức
tin phát triển ở người mù. Anh ta không chấp nhận lập luận của những
người Biệt Phái và thú nhận rằng Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha.
Lời tuyên xưng đức tin này khiến anh ta bị trục xuất khỏi hội đường.
Chuyện tương tự cũng đã xảy ra cho các cộng đoàn vào cuối thế kỷ đầu
tiên. Những người tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu phải lìa bỏ tất cả
các mối quan hệ gia đình và cộng đoàn. Điều này cũng xảy ra ngày nay:
những ai quyết định trung thành với Chúa Giêsu thì có nguy cơ bị loại trừ.
Ga
9:35-38: Thái độ đức tin của người mù đối với Chúa Giêsu
Chúa
Giêsu đã không bỏ rơi những kẻ bị bách hại vì Người. Khi Chúa Giêsu hay
tin việc trục xuất và đi gặp anh ta lần nữa, Người giúp anh ta tiến một bước xa
hơn bằng cách mời gọi anh ta lãnh nhận đức tin và hỏi: “Anh có tin
vào Con Thiên Chúa không?” Anh ta thưa:
“Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp:
“Anh đang nhìn thấy Người; và chính Người đang nói với anh.” Anh ta
liền thốt lên: “Lạy Chúa, tôi tin!” Và anh ta sấp mình thờ
lạy Chúa Giêsu. Thái độ đức tin của người mù trước Chúa Giêsu là một
trong những sự tin tưởng tuyệt đối và chấp nhận hoàn toàn. Anh ta chấp
nhận mọi việc từ Chúa Giêsu. Đó là đức tin đã duy trì các cộng đoàn Kitô
hữu ở châu Á vào cuối thế kỷ thứ nhất, và duy trì cho đến ngày nay.
Ga
9:39-41: Lời suy gẫm cuối cùng
Người
mù không thể nhìn thấy, cuối cùng lại sáng mắt hơn những người Biệt Phái.
Các cộng đoàn ở Tiểu Á là những người đã từng bị mù, đã tìm thấy ánh
sáng. Những người Biệt Phái nghĩ rằng họ sáng mắt hơn người mù từ thuở
mới sinh. Tự trói buộc với một lề luật cổ xưa, họ nói dối khi họ nói họ
có thể trông thấy. Không ai có thể mù lòa hơn những người không muốn nhìn
thấy!
c)
Một cái nhìn rộng rãi hơn:
-
Những Tên và Danh Hiệu được trao cho Chúa Giêsu
Trong
suốt câu chuyện kể về việc chữa lành cho người mù, Tác Giả Phúc Âm ghi lại
những danh hiệu, tĩnh từ và tên khác nhau dành cho Chúa Giêsu bởi những người
dân, các môn đệ, tác giả Tin Mừng, người mù, những người Biệt Phái và chính Chúa
Giêsu. Phương cách này mô tả các sự kiện trong đời sống của Chúa Giêsu là
một phần của giáo lý về thời gian. Đó là một cách giúp người ta hiểu rõ hơn ý
tưởng của họ về Chúa Giêsu và xác định mình trong sự yêu mến của Người.
Sau đây là một số danh phận, tĩnh từ và danh hiệu. Danh sách cho thấy sự
phát triển của người mù về đức tin và làm cách nào cái nhìn của anh ta trở nên
rõ ràng.
*
Giáo sĩ Do Thái (Thầy) (Ga 9:1): các môn đệ
*
Sự Sáng của thế gian (Ga 9:5): Chúa Giêsu
*
Đấng được sai đến (Ga 9:7): Tác giả Phúc Âm
*
Người (Ga 9:11): người được chữa lành
*
Chúa Giêsu (Ga 9:22): người được chữa lành
*
Không phải bởi Thiên Chúa (Ga 9:16): những người Biệt Phái
*
Tiên tri (Ga 9:17): người được chữa lành
*
Đấng Kitô (Ga 9:22): đám đông
*
Kẻ tội lỗi (Ga 9:24): một số người Biệt Phái
*
Chúng ta không biết Người bởi đâu mà đến (Ga 9:31): người được chữa lành
*
Người kính sợ Thiên Chúa (Ga 9:31): người được chữa lành
*
Làm theo ý Chúa (Ga 9:31): người được chữa lành
*
Con Thiên Chúa (Ga 9:35): Chúa Giêsu
*
Chúa (Ga 9:36): người được chữa lành
*
Lạy Chúa, tôi tin! (Ga 9:30): người được chữa lành
-
Danh Xưng: “TA LÀ”
Để mặc
khải ý nghĩa sâu sắc của việc chữa lành cho ngươi mù, sách Tin Mừng Thứ Tư ghi
lại những lời của Chúa Giêsu: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga
9:5). Ở một số nơi, để trả lời các câu hỏi người ta đặt ra cho Chúa
Giêsu, Tin Mừng nhắc lại câu nói này “TA LÀ”:
*
Ta là bánh trường sinh (Ga 6:34-38)
*
Ta là bánh hằng sống từ trời xuống (Ga 6:51)
*
Ta là sự sáng thế gian (Ga 8:12; 9:5)
*
Ta là cổng (Ga 10:7, 9)
*
Ta là mục tử nhân lành (Ga 10:11, 25)
*
Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11:25)
*
Ta là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14:6)
*
Ta là cây nho (Ga 15:1)
*
Ta là vua (Ga 18:37)
*
Ta là (Ga 8:24, 27, 58)
Điều tự
mặc khải này của Chúa Giêsu đạt đến đỉnh của nó trong cuộc nói chuyện của Người
với người Do Thái, khi Chúa Giêsu nói: “Khi các ông giương cao Con Người
lên, bấy giờ các ông sẽ biết Ta là Người (Ga 8:27). Danh
xưng Ta là thì giống như Đấng Giavê, tên của Đức
Chúa đã xưng ra trong sách Xuất Hành, một lối diễn tả sự hiện hữu liên kết giữa
Chúa Giêsu và Chúa Cha (Xh 3:15). Lời khẳng định lập lại nhiều TA LÀ mặc
khải căn tính đồng nhất sâu sắc giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Khuôn mặt của
Thiên Chúa tỏa sáng trong Đức Giêsu Nagiarét: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha! (Ga 14:9)
6.
Thánh Vịnh 117 (116):
Lời tóm
gọn về Kinh Thánh trong một lời cầu nguyện
Muôn nước hỡi, nào ca
ngợi CHÚA,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. Allêluia!
7. Lời nguyện kết
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. Allêluia!
7. Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì những Lời của Chúa đã trao ban để giúp
chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý của Chúa Cha. Nguyện xin Chúa
Thánh Thần soi sáng cho những việc chúng con đang làm và ban cho chúng con sức
mạnh để chúng con có thể thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.
Chúng con nguyện xin được giống như Đức Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng
nghe mà còn thưc hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với
Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét