02/02/2016
Thứ Ba tuần 4 thường niên
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến).
Lễ kính.
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ
dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê,
lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau
lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho
con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị mà các
ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên Chúa phán:
"Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống
Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến
trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến".
Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người?
Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như
thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch
như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của
Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó
là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng
đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. -
Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy?
Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu
lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy?
Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải nên giống anh
em Mình mọi đàng".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng chung thân
phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó,
để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và
để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người
không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế,
Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở
thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả
thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu
giúp những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! - Ánh sang
đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu
độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo
luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho
Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được
gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có
nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người
tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi
an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng:
Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục,
ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người
những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên
Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để
cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã
nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng
chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người.
Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ
này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng
dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm
sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri
Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã
sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà
không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy,
bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người
đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều
theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn
lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta
mừng kính hai biến cố đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa
Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của
Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà
sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên
đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện
trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần
phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức
Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu
thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền
thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các
con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này
với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi
như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau
đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người
con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân
giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người
ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây
không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một
cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng
tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền
thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những
đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào
đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người
chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ
và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh
Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng
cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa
và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức
Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần
gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu,
Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi
mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu
ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban
phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con
và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thật
đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài
đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình
cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn
nẻo đường đời.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal 3:1-4; Heb 2:14-18; Lk 2:22-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân Người.
Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện
của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với Lều Hội Ngộ khi con cái Israel vẫn
còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc; sau khi ổn định trong Đất Hứa,
vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển Hòm Bia vào nơi Cực Thánh, để
con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội; khi Đền Thờ Jerusalem bị
phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn
tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi nào có nhà thờ, nơi đó có
Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận Thế.
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh
đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ để gặp gỡ dân Ngài. Trong bài đọc
I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu Ước, Malachi, nhìn thấy trước ngày
Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân Người để thanh tẩy họ khỏi mọi tội
lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường cho Ngài. Trong bài đọc II, tác giả
Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác phàm
của con người để ở với con người, để con người có thể trông thấy Ngài bằng
xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau khổ của kiếp người để cảm thông,
để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm Lucas,
cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Ngài đến để
gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu
độ bằng xương thịt như lời các tiên tri loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.
Sách tiên-tri Malachi được viết
sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các tiên-tri khác, tiên-tri
Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả của Ta
đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các
ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của
giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời
tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai
tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày
kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn sót.
Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng
được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc
tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con
cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn
đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn
sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện
kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là
vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch
những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện
chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của
Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên án những lỗi
lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ
phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ
vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới
là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là
những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và của Jerusalem
sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.”
1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn
đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai ngôn-sứ Elijah đến với
các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ
đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với
cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.”
Song song bổn phận của con người
đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất là những
người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì
mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho
Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con người,
trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn vào thế
giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải thích
cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa phải nhập
thể: Đối với người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài không có
một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên Chúa, con người
phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam hãm linh hồn con
người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại, Con Thiên Chúa phải
nhập thể để cứu chuộc con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa phải chịu
đau khổ: Người Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ;
chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu đau khổ
không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền để vượt
thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được? Kitô
Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu chết
trên Thập Giá!
Tác giả Thư Do-thái cố gắng trả
lời hai vấn nạn này như sau:
2.1/ Chúa Giêsu phải nhập thể để
mang lấy thân phận con người: Để có thể tiêu diệt tội lỗi và sự
chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để có thể chịu chết và đền tội
cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết? “Vì con cái thì đều chung một
huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết
của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và
đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì
những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu
Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài đã sống lại vinh
quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong cõi chết sống lại.
Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em của Ngài cũng được
đi con đường đó.
2.2/ Chúa Giêsu phải trở nên con
người về mọi phương diện: Tác giả Thư Do-thái nhận ra sự cần
thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện, ngọai trừ
tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để
trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên
Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan toàn trở nên con người” là
để:
(1) Ngài có thể thực sự được coi
là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và ngang qua
cái chết.
(2) Ngài có thể thông cảm và đồng
cảm với thân phận con người: Nếu một người không ngang qua những kinh nghiệm
đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm những ai
bị ở trong hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ
một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân Người đã trải
qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có uy quyền
trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu đau khổ,
ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối với
Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ của con người cho Thiên
Chúa.
3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
3.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật
của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của
các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải
được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật
Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
3.2/ Ông Simeon tin vào Lời
Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người công
chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng
ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái
chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông
lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem
con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn
lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh
sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
3.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt
cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu
còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm
nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan
tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người
bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin
và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người
thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ
lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà,
một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời
của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra
trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà thờ là nơi con người gặp gỡ
Thiên Chúa để bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để lãnh nhận những ơn thánh cần
thiết cho cuộc sống con người.
- Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm
hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà thờ với một
tâm hồn khô khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ Thiên Chúa
và lãnh nhận những hồng ân của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
02/02/16 THỨ BA TUẦN 4 TN
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Bế mạc Năm Thánh Đời Sống Thánh Hiến
Lc 2,22-40
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Bế mạc Năm Thánh Đời Sống Thánh Hiến
Lc 2,22-40
Suy niệm: Lễ dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh được dành
cầu xin cho cuộc hiến tế của Chúa Giê-su trở thành nguồn hứng khởi cho mọi
Ki-tô hữu, cách riêng cho các tu sĩ nam nữ là những người “không chỉ có một
lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần
viết nên” bày tỏ lòng quảng đại “yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn, hết trí khôn.” Người sống đời thánh hiến quyết tâm dâng
hiến đời mình cho Thiên Chúa theo gương Chúa Giê-su. Vì thế, tuy người tu sĩ có
quyền sử dụng sự tự do của mình như mọi người, nhưng vì yêu Chúa hết lòng, họ
bắt chước Chúa Giê-su từ bỏ ý riêng của mình để chọn ý Chúa. Người tu sĩ có
quyền diễn tả cảm xúc như người khác, nhưng vì yêu Chúa hết linh hồn, họ tự
nguyện sống thong dong như Chúa Giê-su vì Nước Trời. Người tu sĩ có quyền sở
hữu như mọi người, nhưng vì yêu Chúa hết trí khôn, họ quảng đại cống hiến những
gì mình có cho việc truyền giáo. Năm thánh Đời Thánh Hiến là dịp cho tu sĩ trở
về nguồn cội ơn gọi và củng cố lời cam kết “theo sát Chúa Ki-tô” mọi ngày.
Mời Bạn: Thánh
Tê-rê-xa đã tự hỏi: “Thế
giới này sẽ thế nào, nếu không có các tu sĩ?”Câu
hỏi này càng thôi thúc tín hữu quý mến ơn gọi thánh hiến, vừa cầu nguyện và cổ
động nhiều người trẻ dấn thân sống ơn gọi thánh hiến.
Sống Lời Chúa: Mỗi
thứ năm hằng tuần, hãy dâng những hy sinh và cầu nguyện cho các tu sĩ.
Cầu nguyện: Xin Mẹ Ma-ri-a tiến dâng các tu sĩ cho Chúa như Mẹ tiến dâng Chúa
Giê-su lên Chúa Cha. Amen.
Ánh
sáng và vinh quang
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần
có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách
bảo.
Suy niệm:
“Thứ
bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta
hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức
Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật
trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải
lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu
không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì
phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày
nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và
phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại
sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù
sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn
nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều
này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật
ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ
cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ
sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì
hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng
Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở
với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù
mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài
Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về
việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy
nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một
đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai
có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó
là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn
nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người
được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính
Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và
cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ
bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ
là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ
bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để
gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần
sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa,
xin
nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và
trọn cả ý muốn của con,
cùng
hết thảy những gì con có,
và
những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy
Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin
Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được
như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh
dâng hiến của thánh Inhaxiô)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG HAI
Uy Quyền Ẩn Giấu Trong Cái Đơn
Sơ
Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành của
muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã đến trong
hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân Ngài được
bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền của
Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.
Tất cả biến cố này là một mầu
nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất lên. Đó
là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần hằng ngự trên ông già
này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa là, Si-mê-on đã lên tiếng
trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người ta sửng sốt. Ông chúc tụng
Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được
an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn
dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của It-ra-en dân
Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ biết bao khi đó là những lời
nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực. Và lời thánh
vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính
là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu
độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính là Vua Vinh Hiển.
Nhưng, vị vua vinh hiển này sẽ
thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng cách nào đây? Bằng
cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn cứu
độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn nạn trên khi ông
tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).
Những lời ấy bộc lộ toàn bộ con
đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc chết trên thập giá. Người
là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một dấu chống đối của mọi thời
đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.
Các ngôn sứ của It-ra-en ngày
xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận của Gio-an Tẩy Giả, và
cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người. Giê-su đã thực hiện biết
bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người hóa bánh và cá ra nhiều
để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho giông tố im lặng, và thậm
chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu
từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng dạy với uy quyền. Thế nhưng,
Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ không chịu mở lòng trí ra để
đón nhận Người.
Rốt cục, sự chống đối của người
ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng nghiệm.
Sấm ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc
đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi nơi và
mọi thời.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02-2
Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền Thánh
2 Sm 18:9-10,14,24-25,30-19; Mc
5:21-43
Lời Suy Niệm: “Được nghe đồn về Đức
Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến về phía Người, và sờ vào áo Người. Vì bà tự
nhủ: ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’. Tức khắc, máu cầm lại,
và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa
lành một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại. Cho chúng ta
thấy cả hai sự kiện: ông Gia-ia và bà bị loạn huyết, đều đã chạy cùng đường, mà
không có kết quả tốt như lòng mong ước. Cách họ chạy đến với Chúa Giêsu mang
tính bất toàn, nhưng dù cả hai đều bất toàn, nhưng khi biết chạy đến với Chúa,
tin vào Chúa, thì Chúa sẽ làm cho nó thành toàn. Đặc biệt với bà bị loạn huyết,
bà chỉ nghe đồn về Chúa, mà bà dã đặt hết niềm tin vào Chúa: “Tôi mà sờ được
vào áo Người thôi, là sẽ được cứu”. Đối với người Kitô hữu như chúng ta đây;
chúng ta đều đã được học hỏi nhiều về Chúa, được nghe Giáo Huấn của Giáo Hội hằng
ngày; được tham dự các phép Bí Tích thường xuyên. Những điều này có giúp gì cho
cuộc sống và sự chữa lành thân xác, tâm hồn của chúng ta?
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi người trong
chúng con luôn có những điều bất toàn mỗi khi chạy đến với Chúa. Xin cho mỗi
thành viên trong gia đình chúng con biết lấy đức tin mà sống: Tin Chúa hằng yêu
thương tha thứ và ban ơn, để chúng con đặt trọn niềm tin vào lời cầu nguyện, biết
ghi dấu Thánh Giá trên mình, khi gặp biến cố, bệnh tật và thương tích, để được
chữa lành và nhận ơn phúc Chúa ban.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA GIÊSU trong Đền
Thánh
Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội
Gierusalem đã mừng kính lễ này, hướng tới việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và
việc thanh tẩy Đức Trinh Nữ. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ
trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Roma lại thường kể lễ
này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn
sùng Đức Trinh Nữ Maria. Đức Phaolô VI viết: "Lễ mùng 2 tháng 2, được cải
tên là lễ "dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn
phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực
hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực
hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân
ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy" (Lc
2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền
thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự
kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8).
Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi sanh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu
sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái. Trong những ngày ấy họ không được
vào đền thờ và không được chạm đến vật dụng nào đã thánh hiến cho Thiên Chúa.
Hết những ngày kiêng cữ trên, họ
đến đền thờ để được thanh tẩy. Họ phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu
hay hai con chim gáy hoặc bồ câu non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp vượt
qua đất Ai cập. Lúc các con đầu lòng của loài người hay là của loài vật đều phải
dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2). Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và thánh
Giuse "khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật
Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa" và các
Ngài "dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai con bồ câu" (Lc
2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng Chúa Giêsu
vào đền thánh diễn ra một cách bình thường dưới mắt người đời. Nhưng trong lịch
sử cứu độ, đây là việc thực hiện lời tiên báo của tiên tri Malaki: "Thình
lình sẽ đến nơi đền thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi, và thần sứ
giao ước mà các ngươi ước nguyện, này vị ấy đến" (Ml 3,1). Chúa đã đến
trong đền thờ Người. Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ này. Nhưng như
chính tiên tri Malaki trước tự hỏi: "Ai chịu đựng nổi ngày Người đến ? Ai
đứng vững được khi Người hiện ra ?" (Ml 3,2).
Dĩ nhiên khó ai nhận biết được
Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người như chúng ta. Phải có sự
soi sáng của Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna là những người công chính
và mộ đạo đã được hường đặc ân này. Được linh cảm, Siméon "đến đền thờ,
khi cha mẹ bồng hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật dạy về Người"
(Lc 2,27).
Am lấy Hài nhi trên tay, Siméon
đã chúc tụng Chúa và nói:
"Mắt tôi đã thấy ơn Người cứu
độ,
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2,30-32)
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna,
"không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện.
Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ
ngóng đợi phúc cứu chuộc của Gierusalem" (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền
thánh còn được gọi là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép những cây nến và phân
phát cho giáo dân. Cầm nến sáng trong tay và tiến vào thánh đường, mọi người lặp
lại Thánh Ca mà tiên tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh. Chúa Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối chúng ta vào
trong cung điện Người. Những "cây nến phép" này sẽ được cất giữ trong
các gia đình để dùng vào dịp lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên thi hài
người quá cố trong gia đình.
(daminhvn.net)
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những
người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng
chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng
nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi
người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ
trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt
đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người
thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành
khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự
và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người
như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta
nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại
như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một
cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ
của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy.
Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử
mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với
Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng
Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của người
mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương
lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ
đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa
là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất
mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin
tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã
biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia
sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết
thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
SỐNG LỜI
CHÚA MỖI NGÀY
NĂM THÁNH
LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Thứ Ba, 2
tháng 2 – Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh (Lễ Nến)
Ma-la-khi 3,1-4 ·
Thánh Vịnh 23,7.8.9.10
Lu-ca 2,22-40
Dâng Chúa
trong Đền Thánh
Đó là ánh
sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài. Lu-ca 2,32
Đan viện chúng tôi có truyền thống rước nến quanh hành lang
nội vi vào mỗi dịp lễ Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh. Vào tháng Hai ở vùng Bắc
Mỹ, trời có thể rất lạnh và có gió, nhất là vào buổi sáng. Thường thì một vài
cây nến bị tắt, và vị đan sĩ đứng kế bên sẽ thắp lại. Một vài vị dùng nạng chống,
những người còn lại bước đi một cách chậm rãi để không bỏ các thầy khác lại
phía sau. Chúng tôi vừa đi vừa hát, hòa quyện giữa những giọng hát tốt là những
giọng còn hơi lạc bè. Tôi rất thích những đêm rước nến như thế. Tuy chúng tôi
chỉ là một phần rất nhỏ của nhân loại, nhưng vào sáng hôm đó tôi hiểu rằng
chúng tôi đang mang theo cả niềm vui và nỗi buồn của con người, trong đó có cả
niềm vui lớn nhất, đó là sự hiện diện của Chúa. Chúng tôi hát và chúng tôi cùng
nhau bước đi, thỉnh thoảng có sự chùn bước và một vài cây nến bị tắt được thắp
sáng lại. Trong cuộc rước nến đó, chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau và mọi người đến
được nhà thờ. Dù trời bên ngoài rất lạnh nhưng lòng chúng tôi lại ấm áp. Và với
tôi, hình ảnh đó cũng giống như hành trình của toàn thể nhân loại.
Lm. James S. Behrens, O.C.S.O.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu là Vầng Đông cho nhân loại, xin chiếu tỏa ánh sáng của
Chúa trong tâm hồn và trên cuộc đời con, để con luôn tin tưởng vững bước trên
hành trình đức tin trong tình hiệp thông liên đới với mọi người.
Quyết tâm : Không bỏ qua cơ hội giúp đỡ chia sẻ với người
chung quanh.
(nguồn trích: Sống Lời Chúa số 2 – Mùa Thường
Niên 1 của Tgp. Sài Gòn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét