09/02/2016
Thứ ba tuần 5 thường niên
MỒNG HAI TẾT BÍNH THÂN.
KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
Bài Ðọc 1: Hc
44,1.10-15
"Chúng
ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ."
Bài trích sách
Huấn Ca.
Giờ đây, chúng
ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ.
Nhưng các vị
sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên
lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn
con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng
một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài
sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu
thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi
khen.
Ðó là lời Chúa.
Bài Ðọc 2: Ep
6,1-4.18.23.24
"Hãy
tôn kính cha mẹ. Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này".
Bài trích thư của
Thánh Phaolô Tông Ðồ các gửi tín hữu thành Êphêsô.
Kẻ làm con, hãy
vâng lời cha mẹ theo tinh thần của chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính
cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và
hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận,
nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
Theo Thần Khí
hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn
mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể
các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì
Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng;
tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu
xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi
phải nói.
Nguyện xin
Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ơn bình an và
lòng mến cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai yêu
mến Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Mc
7,1-2. 5-13a
"Hãy thảo
kính cha mẹ".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những
người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ
thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là
không rửa trước.
Vậy những người
biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền
nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"
Người đáp:
"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như
lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta.
Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì chúng dạy những giáo lý và những luật lệ
loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục
loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và Người bảo:
"Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các
ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa
cha mẹ, người đó phải chết". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với
cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được, nay tôi muốn nó trở
thành Corban (nghĩa là của dâng cúng)", rồi các ngươi không để cho kẻ ấy
giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục
truyền lại cho nhau".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - -
- - - -
Hoặc: Lc 1,67-75
"Ðể tỏ
lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc
tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa
đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa,
như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để
giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta;
để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời
minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng
ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn
nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : KHÔNG CÓ HIẾU LÀ VẤT ĐI!
Tôn kính tổ
tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha
ông ta từ bao đời nay.
Đây là nghĩa cử
cao quý mà bất cứ ai, đã sinh ra làm người thì khi đến tuổi khôn đều phải được
dạy cho biết gia sản quý báu của dân tộc, đồng thời mỗi người phải coi đây là bổn
phận, nghĩa vụ trong lòng mến chứ không chỉ đơn thuần là tình cảm tự nhiên.
Ngược lại, nếu
ai sống một cuộc đời bất hiếu, thì có thể kể hạng người đó vào số những người
vô giáo dục, hay không phải là con người đúng nghĩa!
Hôm nay, Giáo Hội
dành riêng ngày mồng hai tết cổ truyền của dân tộc để mời gọi con cái mình hướng
về cội nguồn để cầu nguyện cho các bậc sinh thành, và noi gương sáng của các
ngài để lại, hầu có thể làm sáng danh Thiên Chúa, rạng rỡ gia phong và vẻ vang
dân tộc... đây chính là: “Của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl
3,20).
1. Đạo
hiếu ngày xưa
Ngày xưa, cha
ông ta rất coi trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được đưa lên hàng đầu vì: ”Chữ hiếu
niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”.
Vì thế, khi
đánh giá một người nào, các cụ ta thường hay xem họ có hiếu nghĩa với ông bà,
cha mẹ, sống có tình nghĩa với anh chị em trong gia đình và làng xóm không?
Còn khi chọn ai
đó làm quan, nhà vua thường dựa trên quy luật: “Tướng – Hàm –Hiếu”. Tức là phải
có tướng mạo, học hành giỏi giang và có hiếu với bậc sinh thành. Tuy nhiên, hiếu
nghĩa quyết định người đó đậu hay không.
Khi người xưa
coi trọng chữ hiếu như vậy, các bậc tiền bối của chúng ta coi chữ hiếu là căn cốt,
là bản lề, là cột trụ trong việc hình thành nhân cách cũng như nền tảng xây dựng
xã hội và nghề nghiệp.
Theo truyền thống
Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất, bởi lẽ:
“Người ta có cha có mẹ, không ai ở chỗ nẻ chui lên”, nên: “Người
ta có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”.
Vì thế, người
thời xưa, sáng ngày mồng một, con cháu quy tụ về nhà tổ để làm lễ gia tiên với
người đã khuất, sau đó đến phần bày tỏ hiếu nghĩa với người còn sống.
2. Đạo
hiếu ngày nay
Trên đây là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi nói và sống chữ hiếu. Còn ngày nay thì
sao?
Nếu ngày xưa,
nhà nhà, người người coi lễ giáo gia phong, tôn ty trật tự, hiếu nghĩa thảo hiền
là điều quan trọng không thể thiếu trong các mối tương quan, thì ngày nay, có
khi: “Mò kim đáy biển”.
Vì thế, trong
những ngày giáp tết vừa qua, trên các trang mạng xã hội có đăng tải những tấm
hình gây nhiều chú ý, bức xúc kèm theo những lời kết án gắt gao, đó là: hình ảnh
một bà cụ già trạc 90 tuổi, bị nhốt dưới bếp và khóa trái cửa, cụ đẩy cửa và
nhìn hé ra ngoài, bên dưới là lời nói: “Con ơi, mở cửa cho mẹ, mẹ không
lên phòng khách đâu!!!”. Rồi hình ảnh khác, một bà cụ ngồi vệ đường với
bát cơm trộn. Cụ vừa ăn vừa khóc! Bên dưới có lời bình: “Cuộc đời vất vả
nuôi con, cầu mong con lớn, nhờ con về già! Vậy mà khi tuổi xế tà, sức lực cạn
kiệt thân già ốm đau. Con cái thì lại ganh nhau, chăm được ba bữa càu nhàu rên
la. Mẹ già cay đắng lệ xa, bát cơm chan lệ như là chan canh”. Ôi đọc mà đau
nhói con tim, tê tái tâm hồn!
Rồi nhìn chung
quanh, có khi không chừng, ngay cả trong nhà thờ này, vẫn còn đó những đứa con
bất hiếu, vô giáo dục khi đối xử với thậm tệ với cha mẹ!
Vì thế, vẫn thấy
đây đó nhiều bậc cha mẹ phải bỏ nhà ra đi hay bị đuổi ra khỏi nhà vì cảnh con
dâu quá láo, con trai phụ bạc, các cháu hỗn hào... Ôi thật đau xót biết chừng
nào!!!
Những hạng người
bất hiếu trên, có lẽ họ quên mất một quy luật tất yếu, đó là: “Sóng trước
vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”.
Có một câu chuyện
kể rằng: một hôm, anh con trai mua một cái sọt, rồi nhốt cha già trong đó và
mang vào rừng bỏ đói cho chết. Thấy vậy, con trai anh tuy còn nhỏ, nhưng đã ý
thức và đau xót nên nói với cha mình rằng: “Ba đem ông vào rừng rồi sau
đó mang sọt về cho con nhé”. Người cha liền hỏi: “Mang về làm
gì?” Người con đáp: “Để sau này có cái mà nhốt cha!”. Đây
quả là quy luật tất yếu dành cho kẻ bất hiếu.
3. Đạo
hiếu trong truyền thống Công Giáo
Đối với người
Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên,
ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên
Chúa.
Trong thập giới,
Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo
kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên
Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành
tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.
Khi hiếu kính với
tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai
tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc
3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo
tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều
răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ
trên mặt đất này” (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi
sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa sẽ nhận
lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).
Còn với Đức
Giêsu, ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ;
kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).
4. Thi
hành việc hiếu nghĩa
Như những gì đã
chia sẻ ở trên, chúng ta thấy chữ hiếu đối với người Công Giáo thật là quan trọng,
nó kéo theo việc được chúc lành hay chúc dữ tùy vào thái độ của chúng ta.
Thiết nghĩ,
ngay trong giây phút này, mỗi người hãy làm mới lại tinh thần hiếu nghĩa đối với
tổ tiên, ông bà cha mẹ.
Trước tiên,
chúng ta hãy cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh để cầu cho linh hồn các bậc
tổ tiên đã ra đi, đồng thời cầu nguyện cho những bậc còn sống được bình an. Hãy
nhớ nằm lòng câu ca dao sau: “Cây có gốc mới nở ngành sinh ngọn. Nước
có nguồn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu! Có cha có mẹ rồi sau có
mình”.
Thứ đến, hãy vui
vẻ lễ phép, chăm lo cơm cháo, đồng quà tấm bánh, nhất là lo thuốc thang khi các
ngài ốm đau bênh tật. Sống yêu thương, kính trọng như lời Kinh Thánh dạy: “Con
ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm
người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức
mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên
lãng, và sẽ đền bù tội lỗi con” (Hc 3,12-14).
Cuối cùng, nếu
ai đã hỗn sược, lếu láo với bậc sinh thành, ngay lập tức, sau thánh lễ này, hãy
xin lỗi các ngài và quyết tâm sửa sai. Nên nhớ rằng, đây là điều kiện để được
Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình hay không.
Ước gì,
trong dịp tết năm nay, nhất là trong ngày cầu cho tổ tiên, cũng như hằng ngày
trong đời sống, mỗi người chúng ta phải thực sự là tấm gương cho con cháu về
lòng hiếu nghĩa với các bậc tổ tiên, để như một quy luật tất yếu, con cái sẽ
noi gương và báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của chúng ta hôm nay và ngày
mai. Amen.
Thứ Ba sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 V 8, 22-23. 27-30
"Chúa
đã phán: "Danh Ta sẽ ở nơi đó, để nhậm lời van nài của dân Israel".
Trích sách Các
Vua quyển thứ nhất.
Trong những
ngày ấy, Salomon đứng trước bàn thờ Chúa, đối diện với cộng đoàn Israel, ông
giơ hai tay lên trời và nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên
trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng
từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng:
quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể
chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây! Nhưng lạy Chúa là Thiên
Chúa của con, xin đoái nghe lời cầu nguyện và sự van nài của tôi tớ Chúa; xin lắng
nghe lời ca khen và kinh nguyện mà tôi tớ Chúa dâng lên trước mặt Chúa hôm nay,
ngõ hầu đêm ngày mắt Chúa nhìn xem ngôi nhà này là nơi Chúa đã phán 'Danh Ta sẽ
ở nơi đó', để nghe lời cầu nguyện mà tôi tớ Chúa kêu xin trong nơi này, để nhậm
lời van nài của tôi tớ Chúa và của dân Israel sẽ cầu nguyện tại nơi đây. Từ
thiên cung nơi Chúa ngự, xin Chúa nhậm lời, và khi đã nhậm lời, xin Chúa dủ
lòng thương".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83,
3. 4. 5 và 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa thiên binh, khả ái thay
cung điện của Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Linh
hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần
và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim
sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh
bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của
con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên
Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ
cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô
của Người. - Ðáp.
4) Thực, một
ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con
ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14,
23
Alleluia,
alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7,
1-13
"Các
ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm
nhân".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những
người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ
thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là
không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi
người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ
không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa
chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người:
"Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những
bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã
nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta
ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì
nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các
giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm
nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn
Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy
thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các
ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể
giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi
không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng
những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống
như thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tìm cái cốt yếu
Nhiều tôn giáo
lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn
người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành
viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả
thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng
coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói
lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài
ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng
chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm
nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập
tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực
phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức
tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên
Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức
mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những
hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau:
"Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống
của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có
tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng
hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay,
rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề
luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc
đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải
vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh
cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo
kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể,
vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa
để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm
nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ
nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ
nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết
trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ
loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần
V TN
Bài đọc: I Kgs 8:22-23, 27-30; Mk 7:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp.
Thiên Chúa là Đấng
Tốt Lành, Ngài tạo dựng mọi sự tốt lành, và không có sự gì Ngài tạo dựng xấu xa
cả; nhưng tại sao có những sự dữ trong thế giới? Một trong những nguyên nhân
chính là sự lạm dụng tự do, điều tốt lành do Thiên Chúa trao ban cho các thiên
thần và con người. Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự tạo dựng tốt lành của Thiên
Chúa, và sự lạm dụng tự do làm cho ra xấu xa của con người. Trong Bài Đọc I,
năm chẵn, vua Solomon xây dựng và khánh thành Đền Thờ không phải vì muốn giới hạn
Thiên Chúa; nhưng để dân chúng cảm thấy sự hiện diện của Ngài trong đời sống.
Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và Kinh-sư tố cáo các môn đệ của Chúa vi phạm Lề
Luật của tiền nhân, vì các ông không chịu rửa tay trước khi ăn. Chúa Giêsu vạch
ra các tội lỗi của họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để
nắm giữ truyền thống của các ông.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I
(năm chẵn): Trời cao thăm
thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!
2.1/ Tại sao con
người cần có một nơi xứng đáng để thờ phượng: Nhiều người đã đặt câu hỏi: Nếu Thiên Chúa ở khắp mọi
nơi, tại sao cần phải đến nhà thờ mới gặp được Thiên Chúa? Họ có thể dẫn chứng
lời vua Solomon hôm nay: "Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này,
trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây
đây!" Câu hỏi này có thể được trả lời như sau:
Thứ nhất, theo
bằng chứng lịch sử, đó là điều Thiên Chúa muốn. Trong cuộc hành trình của con
cái Israel trong sa mạc 40 năm, chính Thiên Chúa đã truyền cho Moses phải thiết
lập Lều Hội Ngộ, Nhà Tạm, Bàn Thờ, chức tư tế, phẩm phục, cùng tất cả các đồ
dùng trong phụng vụ thánh. Ngài hứa sẽ ở với con người qua cột mây phủ trên Lều
Hội Ngộ. Khi con cái Israel đã định cư trong Đất Hứa, vua Solomon được phép
Thiên Chúa để xây dựng một Đền Thờ cố định tại Jerusalem, thay cho Lều Tạm. Vì
thế, Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở với con người. Trong Tân
Ước, Chúa Giêsu đã lập bí-tích Thánh Thể để bảo đảm lời hứa "Thầy sẽ ở
cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." Nơi nào có Mình Thánh Chúa trong
Nhà Tạm, nơi đó có sự hiện diện của Đức Kitô với con người.
Thứ hai, Đền Thờ
được dựng nên hoàn toàn cho lợi ích của con người, chứ không cho Thiên Chúa, vì
toàn thể vũ trụ là Đền Thờ của Ngài. Là loài hữu hạn, con người cần có một nơi
cụ thể để xác tín sự hiện diện của Thiên Chúa trước khi cầu nguyện. Mỗi khi dân
Israel nhìn thấy "cột mây" đậu xuống trên Lều Tạm, họ biết Thiên Chúa
đang hiện diện ở đó. Hơn nữa, nơi Thiên Chúa hiện diện còn phải là nơi cực
thánh linh thiêng để con người biết cách cư xử cho xứng đáng mỗi khi tới cầu
nguyện; chứ không phải nơi con người muốn làm gì thì làm.
2.2/ Công dụng của
Đền Thờ: Phụng vụ thánh gắn
liền với sự hiện diện của Đền Thờ. Trong Cựu Ước, Đền Thờ là nơi con người đến
cầu nguyện với Thiên Chúa chung cộng đoàn cũng như cá nhân. Thứ đến, Đền Thờ là
nơi con người đến nghe và học hỏi Lời Chúa để biết cách hành xử đúng theo những
gì Thiên Chúa muốn. Sau cùng, Đền Thờ còn là nơi con người đến dâng những lễ vật
hy sinh để đền bù các tội lỗi của mình. Trong Tân Ước cũng vậy, thánh đường là
nơi các tín hữu đến làm việc thờ phượng chung cũng như riêng. Hai điều nổi bật
là lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí-tích. Việc tha thứ tội lỗi trong Cựu Ước
được thay thế bằng Lễ Hy Sinh của Đức Kitô trong Thánh Lễ và bí-tích Hòa Giải.
3/ Phúc Âm: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà
duy trì truyền thống của người phàm.
3.1/ Luật Kosher
thanh tẩy của người Do-thái: Khi
nói tới Luật, người Do-thái nghĩ ngay đến Thập Giới của Thiên Chúa ban cho họ
qua Moses; nhưng bên cạnh đó, còn nhiều những luật mà họ gọi là “luật truyền miệng,”
hay “luật bất thành văn.” Những luật này, sau một thời gian được các tiền nhân
giữ, đương nhiên trở thành luật và được ghi chép lại trong ít thế kỷ trước khi
Chúa Giêsu ra đời.
(1) Những gì được
họ coi là không thanh sạch: Có rất nhiều điều được coi là không sạch bởi người
Do-thái: người đàn bà mới sinh con, người phong cùi, xác chết, người Dân Ngoại,
và rất nhiều những rau cỏ cũng như các thú vật không được ăn vì không sạch. Tất
cả những đồ vật mà những loại người này đụng vào, đều trở nên không sạch. Vì thế,
họ có những khỏan luật mô tả những gì không sạch, và những điều luật làm sao để
giải quyết những gì không sạch.
(2) Vệ sinh và
tội lỗi: Đối với họ, thanh sạch không phải chỉ là chuyện vệ sinh, nhưng là chuyện
liên quan đến tội lỗi và Lề Luật. Kẻ nào vi phạm có thể bị trừng trị theo Luật
và ngay cả có thể bị tử hình
3.2/ Phản ứng của Chúa
Giêsu: Ngài chắc chắn không
đả phá việc giữ vệ sinh trước khi ăn; nhưng Ngài muốn vạch ra cho họ thấy những
phi lý quá trớn về sự quan sát luật thanh sạch của họ:
(1) Giữ đạo
thành thật bên trong hay giữ luật cách giả hình bên ngoài? Tôn giáo hệ tại việc
giúp con người sống mối liên hệ chân tình với Thiên Chúa, chứ không phải ở việc
giữ một số lễ-nghi cách hời hợt bên ngoài. Chúa Giêsu dùng lời của tiên-tri
Isaiah tố cáo họ: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông
là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
(2) Luật của
Thiên Chúa phải được coi quan trọng hơn luật của con người: Chúa tiếp tục chỉ
trích họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền
thống của các ông… Các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà
huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa tạo
dựng mọi sự tốt đẹp và trao cho con người quyền điều khiển. Chúng ta có bổn phận
bảo vệ mọi sự tốt đẹp theo như ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa không tạo dựng
điều xấu xa; những điều này xảy ra là do quỉ thần và sự lạm dụng tự do của con
người.
- Thiên Chúa muốn
hiện diện cách hữu hình với con người trong Đền Thờ hay thánh đường. Chúng ta
có thể cầu nguyện khắp nơi; nhưng phải vào thánh đường để lắng nghe Lời Chúa và
cử hành các bí-tích.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
09/02/16 THỨ BA TUẦN 5 TN
Mồng Hai Tết. Kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ
Mt 15,1-6
Mồng Hai Tết. Kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ
Mt 15,1-6
Suy niệm: Đối với người Công Giáo, ngày mồng Hai Tết là
ngày thực hiện hành vi đạo Hiếu. “Hiếu” là biết kính trọng thương mến và phụng
dưỡng cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời. Ông bà cha mẹ đã qua đời,
con cái lo viếng phần mộ, sớm tối lo hương khói, dâng lễ cầu nguyện cho và xin
các ngài phù hộ; nếu các ngài còn sống, con cái thăm viếng và bày tỏ lòng hiếu
thảo. Cha mẹ già yếu thì ở với con. Con có thì của ngon vật lạ dâng tiến cha
mẹ; con không có thì dâng chén cơm nóng, bát canh ngon phụng dưỡng cha mẹ; con
ở riêng thì cứ tháng gởi đồng quà hay tấm bánh cung dưỡng mẹ cha. Những người
con nào tìm lý do này khác để thoái thác sống đạo hiếu với cha mẹ thì bị liệt
vào hàng bất hiếu. “Hiếu” phải có “Đễ.” “Đễ” là tình anh chị em yêu thương
nhau, kính trên nhường dưới và điều này là báo hiếu cha mẹ. Trong Thánh Kinh,
chữ hiếu được xem trọng. Chính Chúa Giê-su trở nên gương mẫu cho ta. Ngài thảo
kính Cha trên trời và hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Ngài vừa lo việc Chúa Cha
trên trời, vừa vâng phục giúp đỡ thân mẫu, nhất là đem ơn cứu độ cho cha mẹ
mình.
Mời Bạn: Bạn
có kế hoạch nào để phụng dưỡng ông bà cha mẹ trong năm mới này?
Sống Lời Chúa: Dâng
một món quà và một lời cầu cho ông bà cha mẹ.
Cầu nguyện: Xin Chúa cho gia đình chúng con sốt sắng thờ phượng Chúa và hết
lòng hòa thuận thương yêu nhau.
Thờ
cha kính mẹ
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ
cúng ông bà tổ tiên, như thế họ có thể bị coi là bất hiếu. Thật ra thảo kính
cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Suy
niệm:
Giáo
Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người
Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như
thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật
ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha
Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo
kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha
còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày
Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau
khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai
nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào
năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong
các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ
có hai điều không được phép,
đó
là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật
ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không
qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho
bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà
Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các
bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn
việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi
người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài
đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo
kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ
thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức
Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó
là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà
dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì
anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối
với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà
“vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi
suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng
ta cần tự hỏi:
Làm
sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm
sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm
sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau
hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa
đã thành một người chín chắn
và
trưởng thành,
sẵn
sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong
việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa
đã học nơi thánh Giuse
sự
lao động miệt mài,
sự
mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự
âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự
tế nhị và phục vụ,
sự
buông mình sống trong lòng tin phó thác
và
nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin
biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết
yêu thương tha thứ,
biết
cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hạnh Các Thánh
9 Tháng Hai
Thánh Giles Mary của Thánh Giuse
(1729 - 1812)
Chính trong năm Napoleon Bonaparte dẫn quân vào Nga thì Giles Mary của Thánh
Giuse chấm dứt cuộc đời khiêm hạ phục vụ cộng đồng Phanxicô và người dân thành
Naples.
Tên thật của ngài là Francesco, sinh ở Taranto trong gia đình rất nghèo, và mồi
côi cha khi 18 tuổi. Ðể đảm bảo tương lai, ngài gia nhập dòng Phanxicô Khất Thực
(Anh Em Hèn Mọn) ở Galatone năm 1754. Trong 53 năm, ngài phục vụ ở Nhà Tế Bần
Thánh Paschal ở Naples trong nhiều vai trò, như nấu nướng, gác cửa hoặc thường xuyên
nhất là đi khất thực cho cộng đồng.
"Mến yêu Thiên Chúa" là đặc tính của ngài trong khi góp nhặt thực phẩm
cho các tu sĩ dòng và chia sẻ lòng quảng đại với người nghèo -- đồng thời an ủi
những người gặp khó khăn và khuyến khích mọi người sám hối. Ðức tính mà ngài thể
hiện trên đường phố ở Naples được phát sinh từ sự cầu nguyện và được nuôi dưỡng
trong đời sống cộng đồng của anh em hèn mọn. Những người gặp ngài đi xin ăn thường
gọi ngài là "Người an ủi của Naples". Ngài được phong thánh năm 1996.
Lời Bàn
Người ta thường trở nên kiêu ngạo và thèm khát quyền lực khi họ không thành thật
trong lối sống, tỉ như, khi họ quên đi tội lỗi của mình và làm như không biết đến
các ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho người khác. Thánh Giles có một nhận thức lành
mạnh về tội lỗi của chính mình -- không làm tê liệt cũng không quá hời hợt.
Ngài mời gọi mọi người nhận ra ơn sủng của mình, và sống xứng đáng với phẩm giá
của chúng ta là những người được tạo dựng trong hình ảnh của Thiên Chúa.
Lời Trích
Trong bài giảng nhân dịp lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng
hành trình tâm linh của Thánh Giles phản ảnh"đức khiêm hạ của sự Nhập Thể
và sự độ lượng của Thánh Thể" (L'Observatore Romano 1996, tập 23, số 1).
Trích từ NguoiTinHuu.com
9 Tháng Hai
Khi Yêu Trái Ấu Cũng Tròn
Ignacy Paderewski là
một chính trị gia kiêm nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng của Balan. Ông đã từng là chủ
tịch Hội Ðồng Nhà Nước năm 1919.
Một hôm, ông đến thăm
một người bạn. Do sự yêu cầu của gia đình người bạn, ông đã ngồi vào đàn dương
cầm để biểu diễn một vài bản nhạc do chính ông sáng tác. Tiếng đàn vang lên
trong cả khu phố. Từ phòng bên cạnh, một người đàn bà đang chăm chú dọn dẹp và
sắp đặt lại trật tự trong nhà. Tiếng đàn du dương của nhà nhạc sĩ đại tài, thay
vì làm vui tai bà, lại làm cho bà khó chịu. Người đàn bà đã nhắc điện thoại lên
yêu cầu người bạn cho nhạc sĩ Paderewski ngưng chơi đàn, vì bà không chịu nổi
tiếng ồn ào. Nhưng người bạn của nhà nhạc sĩ mới giải thích: "Thưa bà, người
đang chơi đàn chính là nhạc sĩ Paderewski đại tài của chúng ta đó".
Vừa nghe nhắc đến tên
của nhạc sĩ, người đàn bà láng giềng khó tính bỗng đổi giọng tức khắc. Những âm
thanh trước kia bà nghe như tiếng ồn ào, nay được bà đón nhận như những âm
thanh tuyệt mỹ. Người đàn bà bèn gọi điện thoại mời bà con và bạn bè đến thưởng
thức những tấu khúc của Paderewski.
Cũng một âm thanh, nhưng có lúc người đàn bà nghe như những tiếng ồn ào khó chịu,
có lúc lại được bà đón nhận như khúc nhạc tuyệt mỹ. Ðó cũng là phản ứng thường
tình của chúng ta. Khi chúng ta mang sẵn thành kiến đối với người nào đó, thì
dường như tất cả những gì người đó nói hay làm đều được chúng ta đón nhận một
cách tiêu cực. Yêu nhau thì trái ấu cùng tròn, mà ghét nhau thì cau bảy cũng bổ
ra làm mười. Thái độ của chúng ta đối với người khác tùy thuộc ở cái nhìn của
chúng ta về người đó. Nếu chúng ta chỉ nhìn người đó bằng lăng kính của thành
kiến có sẵn, thì dĩ nhiên, chúng ta không thể yêu thích được bất cứ điều gì người
đó nói hay làm.
Chúa Giêsu đã không nhìn người bằng thành kiến. Ngài tiếp đón tất cả mọi người.
Ngài làm bạn với mọi người. Ngài ngồi đồng bàn với mọi người. Người biệt phái
cũng có thể đến với Ngài. Ngài không nhìn người với những nhãn hiệu, mà chỉ bằng
đôi mắt của Yêu Thương. Ngài không lắng nghe bằng những tiếng đồn đãi, bằng những
định kiến, mà bằng sự cảm thông. Ngài không đo lường lầm lỗi bằng những thước
đo của công lý mà chỉ xử lý bằng sự tha thứ.
Trích sách Lẽ Sống








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét