13/02/2016
Thứ bảy sau lễ Tro.
BÀI ĐỌC
I: Is 58, 9b-14
"Ngươi
hãy ca tụng Chúa khi ngươi bỏ đường lối của ngươi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: "Nếu ngươi loại bỏ ra khỏi tâm hồn
sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc; khi ngươi hết lòng quảng đại
với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của
ngươi xuất hiện trong tối tăm và tối tăm sẽ trở nên như giữa ban ngày. Và Thiên
Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập
ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn
xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươi, những điêu tàn
ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi.
Thiên hạ sẽ gọi ngươi là 'kẻ tu bổ những chỗ sứt mẻ, kẻ tu bổ lại đường lối nơi
cư ngụ'.
"Nếu ngươi không tự tiện đi đường xa trong ngày
Sabbat là ngày thánh, và ngươi coi ngày Sabbat là ngày hạnh phúc, ngày thánh,
ngày hiển vinh của Thiên Chúa; nếu ngươi bỏ công ăn việc làm và những cuộc bàn
tính mưu lợi mà ca tụng Chúa, thì ngươi sẽ được hoan lạc nơi Thiên Chúa, và Ta
sẽ đưa ngươi lên làm chủ các núi đồi, Ta cho ngươi thừa hưởng gia nghiệp của
Giacóp, tổ phụ ngươi, vì chính Chúa đã phán". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6
Đáp:
Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Chúa, để con sống theo chân lý của Ngài (c.
11a).
1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con
đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu
vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Đáp.
2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con,
lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì
lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Đáp.
3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung,
giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn
nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Đáp.
CÂU XƯỚNG
TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 4, 4b
Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
PHÚC
ÂM: Lc 5, 27-32
"Ta không
đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế
tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: "Hãy đi theo Ta".
Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết
đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn
với các ngài. Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ
của Người rằng: "Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội
lỗi như vậy?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Những ai mạnh khoẻ không cần
tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu
mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải". Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Tin mừng của lòng thương xót
Vua
thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình. Có một nông
dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong
vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người
ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và
cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân. Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm
tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ
rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất. Nhà vua sai các cận vệ đem đến một
cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người
nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một
tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng
được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền
cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng
dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc
ân”.
Giai
đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những
kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề
xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người
vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy
là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài
giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan
bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm
hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng
của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức
được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương
bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi
đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng
phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh
nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc
cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự
trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được
hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa
những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất.
Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất
cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Bảy sau Lễ Tro
Bài
đọc: Isa 58:9-14; Lk
5:27-32
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng thương xót quan trọng hơn việc giữ
Luật.
Luật
lệ làm ra cho lợi ích của con người. Nói cách khác, vì lợi ích của con người,
nên mới có những luật lệ để bảo vệ những lợi ích này. Vì thế, sống tinh thần của
luật lệ quan trọng hơn sống vụ luật. Nếu phải vi phạm luật lệ để cứu người, một
người có bổn phận phải làm như thế. Trong ba năm rao giảng của Chúa Giêsu, đa số
những vụ xung đột giữa Ngài và các Biệt-phái, cùng các Kinh-sư, xoay quanh
nguyên lý này.
Các
Bài Đọc hôm nay cũng đặt trọng tâm trên nguyên lý này. Trong Bài Đọc I,
Tiên-tri Isaiah nhấn mạnh đến lòng thương xót, biểu lộ qua sự giúp đỡ những người
yếu kém, hơn là vụ hình thức bên ngòai. Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và các
Kinh-sư trách Chúa Giêsu và các môn đệ đã ăn uống, làm bạn với những người thu
thuế tội lỗi. Chúa Giêsu sửa sai và nhắc khéo cho họ biết: "Người khoẻ mạnh
không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Sống mối liên hệ với
con người và Thiên Chúa.
1.1/ Việc
ăn chay đúng nghĩa: Lý do
chính tại sao dân Do-Thái mất quê hương và phải lưu đày là không sống đúng đắn
mối liên hệ với Thiên Chúa và vi phạm các bất công xã hội. Sống mối liên hệ với
Thiên Chúa không phải chỉ là dâng lễ vật, giữ các Lề Luật, hay việc ăn chay hời
hợt bên ngòai; nhưng là sống theo thánh ý Thiên Chúa, tôn trọng công bằng, và
giúp đỡ mọi người.
(1) Sống
theo thánh ý Thiên Chúa: Trước, trong, và sau thời gian lưu đày, Thiên Chúa
không ngừng gởi các tiên tri tới để cho dân biết ý định của Thiên Chúa; dân
chúng có bổn phận phải nghe và làm theo những gì các tiên tri dạy bảo. Trong
quá khứ, nhiều lần họ đã bắt bớ, đe dọa, và ngay cả giết các tiên tri; vì thế
Tiên-tri Isaiah kêu gọi: Phải loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và
lời nói hại người, và phải làm thoả lòng người bị hạ nhục.
(2) Sống
công bằng xã hội: Lý do chính yếu của việc nghèo đói là vì bất công xã hội, người
giàu dùng sự khôn ngoan và sức mạnh của mình để bóc lột người nghèo. Vì thế, khỏang
cách giữa hai giai cấp ngày càng lan rộng: người giàu mỗi ngày một giàu thêm và
người nghèo càng ngày càng nghèo đi. Thời gian ăn chay không những giúp người
giàu hiểu biết người nghèo và chia cơm sẻ áo cho họ; đồng thời cũng giúp người
giàu nhận ra những bất công họ đã vi phạm.
(3)
Giúp đỡ những người yếu kém: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, những người được
Thiên Chúa ban cho có tài năng và của cải, là để giúp những người yếu kém; chứ
không phải để kiêu căng, phách lối, và bóc lột họ.
Để phục
hồi quốc gia và xây dựng một xã hội lành mạnh, ba điều nói trên phải tìm thấy
nơi những người lãnh đạo, trước khi họ có thể dạy dỗ cho mọi người dân trong nước.
1.2/ Mục
đích của ngày Sabbath: là để
con người nghỉ ngơi phần xác và củng cố mối liên hệ phần hồn với Thiên Chúa.
Tiên-tri Isaiah liệt kê một số những điều nên và không nên làm trong ngày này:
“Nếu ngươi giữ chân không vi phạm ngày Sabbath, và không tìm lợi lộc trong ngày
thánh của Ta, nếu ngươi gọi ngày Sabbath là "niềm vui" và ngày thánh
của Đức Chúa là "vinh hiển," nếu ngươi tôn trọng ngày đó mà tránh đi
đường, tránh kiếm lợi, tránh nói huyên thuyên.” Nếu trong ngày Sabbath mà con
người không tư tưởng gì đến Thiên Chúa, lại còn cười nói huyên thuyên và đưa điều
đặt chuyện, hay tìm kiếm mánh mung để tìm lợi lộc, làm sao có thể gọi là giữ
ngày Sabbath?
2/ Phúc
Âm: Chúa đến để kêu gọi tất
cả ăn năn trở lại.
2.1/
Chúa gọi Matthew, người thu thuế: Người Do-Thái thời đó dưới ách đô hộ của Đế quốc Rôma. Những người
thu thuế được coi như những người phản bội: vào hùa với Đế quốc để bóc lột dân
chúng bằng việc đóng thuế. Họ đối xử bất công với dân chúng, vì luôn thu thuế
quá giới hạn mà dân phải đóng. Vì thế, những người thu thuế được xếp lọai với
những người ăn trộm, ăn cướp. Họ không được bước vào Đền Thờ và hội đường để
dâng lễ vật.
- Khi
Chúa Giêsu gọi Matthew, Ngài biết rõ căn tính và nghề nghiệp của Matthew; nhưng
Ngài đã có một kế họach khác cho Matthew: biến ông thành người rao giảng và ghi
chép lại Tin Mừng. Khi nhận lời mời dự tiệc tại nhà của Matthew, Ngài biết sẽ bị
vây quanh bởi bạn bè của Matthew, những người thu thuế; nhưng Ngài muốn cho họ
cơ hội để nhìn thấy sự trở lại của Matthew mà ăn năn xám hối.
-
Thái độ của Matthew rất can đảm và dứt khóat: ông bỏ tất cả, đứng dạy đi theo
Chúa Giêsu. Ông can đảm vì dám bỏ một “nghề hái ra tiền,” và không thắc mắc “rồi
làm gì mà ăn?” Ông dứt khóat với quá khứ cũ tội lỗi, để hướng tới một tương lai
tốt đẹp hơn; tuy nghèo mà sạch, và không ai có thể nhìn ông với ánh mắt khinh dể
và ngăn cấm ông đến với Thiên Chúa. Chúa Giêsu thực sự đã phóng thích ông khỏi
làm nô lệ cho tội lỗi, và cho ông cơ hội làm lại cuộc đời.
2.2/
Chúa đến để kêu gọi tội nhân ăn năn trở lại: Cuộc đối thọai ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các Biệt-phái
cùng các kinh sư cho chúng ta thấy sự tương phản giữa con người và Thiên Chúa:
- Những
người Biệt-phái và những Kinh-sư thuộc nhóm của họ lẩm bẩm trách các môn đệ Đức
Giêsu rằng: "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?"
Phản ứng của họ cũng giống như phản ứng của đa số con người: “gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng,” chơi với những người tội lỗi sẽ lây nhiễm các tội của họ. Một
khi con người đã rơi vào vũng bùn lem luốc, họ sẽ không còn cách nào để thóat
ra; dư luận con người là hàng rào che kín cuộc đời của họ.
- Đức
Giêsu đáp lại họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm
mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi
sám hối ăn năn." Phản ứng của Chúa Giêsu giống như phản ứng của người quân
tử, ví mình như cách hoa sen: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Không những
không để mình hôi tanh, mà còn như một lương y, tận tâm chữa trị, và phục hồi sức
khỏe cho bệnh nhân. Nếu những Biệt-phái và các Kinh-sư chịu xét mình cẩn thận,
họ cũng là những bệnh nhân đang cần chữa trị vì tính kiêu căng, khinh người, và
phê bình chỉ trích. Điều nguy hiểm là họ tự cho mình là công chính, và vì thế,
không cần được Chúa Giêsu chữa bệnh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất
cả chúng ta là tội nhân, không ai có thể vỗ ngực xưng mình là công chính trước
mặt Thiên Chúa. Chúng ta cần được Thiên Chúa chữa lành.
- Nếu
chúng ta được Thiên Chúa cho cơ hội làm lại cuộc đời, chúng ta cũng phải cho
anh chị em cơ hội và giúp họ làm hòa cùng Thiên Chúa.
- Luật
Lệ làm ra cho sự tốt lành của con người. Luật lệ có thể vi phạm nếu xét thấy cần
thiết để đưa con người về với Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
13/02/16 THỨ BẢY SAU LỄ
TRO
Lc 5,27-32
Lc 5,27-32
Suy niệm: Người
Do thái coi những nhân viên thuế vụ là người gian dối, thậm chí là phản quốc vì
họ cộng tác với người Rô-ma và sách nhiễu đồng bào. Nhiều chỗ trong Phúc Âm cho
thấy họ bị liệt vào hạng người bị loại trừ khỏi xã hội, đồng sàng với hạng ‘gái
điếm’ và ‘ngoại giáo’ (Mt 9,10; 11,19; 18,17; 21,31). Ai giao du với họ cũng bị
coi là ‘dơ bẩn’. Thế nhưng, Chúa Giê-su không ngại tiếp xúc với họ. Thậm chí
Chúa còn kêu gọi ông Lê-vi, một quan chức ngành thuế, và chọn ông làm tông đồ
của Ngài. Chưa hết Ngài còn đến dùng bữa tại nhà ông cùng với nhiều đồng bạn
của ông Lê-vi. Quả thực“cái nhìn đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát Lê-vi khỏi ách nô
lệ bạc tiền” và
biến đổi ông thành tông đồ Mát-thêu của Đức Ki-tô.
Mời Bạn: Trái
ngược với Đức Ki-tô, chúng ta lại thường giam hãm người khác trong ngục tù của
cái nhìn thành kiến. Chính bạn cũng hãy đặt mình trước cái nhìn yêu thương của
Chúa và nhìn người khác bằng cái nhìn của Chúa. Đó là cái nhìn bao dung, tha
thứ, biết khám phá ưu điểm của người khác và tin tưởng điều tốt đẹp nơi họ và
trợ giúp họ thể hiện điều tốt đẹp đó.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày xét mình: Tôi đang có thành kiến với ai? Nguyên do tại sao? Tôi sẽ sửa
chữa thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ
để con biết nhìn người khác với ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Xin Chúa cho
con nhận ra được những điều tốt đẹp nơi tha nhân. Amen.
Kêu gọi người tội lỗi sám hối
Trước khi làm cho người khác hoán cải, chính
chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Suy
niệm:
Việc
Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải
được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng
ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm
thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức
Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa
tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người
Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ
bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức
Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài
không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ
một lời mời của Ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi
đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối
với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó
là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và
cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính
vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì
điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức
Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi
Ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa
tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong
số khách mời có cả các môn đệ.
Đức
Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn
là Ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ
có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức
Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì
những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những
người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì
mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên
Ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức
Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không
như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức
Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức
Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến
với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước
khi làm cho người khác hoán cải,
chính
chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên
đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm
con rộng lòng tha thứ,
chứ
không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước
gì không ai sút kém đi
vì
chịu ảnh hưởng của con,
không
ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng
cao thượng, tử tế,
chỉ
vì đã là bạn đồng hành của con
trong
cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi
con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin
cho con có lúc
thì
thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước
chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn
trề sức mạnh để làm việc thiện,
và
kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch
theo Learning Christ)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
13
Tháng Hai
Thánh Ciryl và Thánh Methodius
(c. 869, c. 884)
Vì
thân phụ của hai thánh nhân là một sĩ quan trong phần đất của Hy Lạp nhưng có
nhiều người Slav chiếm ngụ, do đó hai anh em thánh nhân đã trở nên nhà truyền
giáo, thầy dạy và quan thầy của người Slav.
Sau
thời gian học tập, Cyril (thường được gọi là Constantine cho đến khi ngài trở
thành tu sĩ ít lâu trước khi từ trần) đã từ chối địa vị trong chính quyền mà
anh ngài đã chấp nhận làm việc cho những người nói tiếng Slav. Ngài gia nhập một
đan viện là nơi anh ngài, Methodius, đã là một đan sĩ sau thời gian giữ chức vụ
trong chính quyền.
Một
quyết định đã thay đổi cuộc đời của các ngài khi Công Tước của Moravia xin
Hoàng Ðế Micae của Ðông Phương cho được độc lập về chính trị với nhà cầm quyền
Ðức, và được tự trị về phương diện tổ chức giáo hội (có giáo sĩ và phụng vụ
riêng). Cyril và Methodius đã lãnh nhận công việc truyền giáo này.
Công
việc đầu tiên của Cyril là sáng chế ra bản mẫu tự, giống như mẫu tự vẫn được
dùng trong phụng vụ ở các phần của Nam Tư cũ. Những người theo ngài có lẽ đã
hình thành mẫu tự Cyrillic từ các chữ cái của Hy Lạp. Ngày nay, họ dịch Phúc
Âm, Thánh Thi, Thánh Thư và các sách phụng vụ sang tiếng Slav, và sáng tác phần
phụng vụ bằng tiếng Slav rất đặc biệt.
Vì lý
do đó và vì việc xử dụng tiếng mẹ đẻ đã dẫn đến việc chống đối của hàng giáo sĩ
Ðức. Các giám mục Ðức từ chối việc tấn phong các giám mục và linh mục Slav, và
Cyril buộc phải thỉnh cầu lên Rôma. Trong chuyến viếng thăm Rôma, hai anh em
thánh nhân đã vui sướng khi thấy bản văn phụng vụ mới của họ được Ðức Giáo
Hoàng Adrian II chấp thuận. Nhưng Cyril không bao giờ trở lại Moravia nữa, ngài
từ trần ở Rôma sau 50 ngày nhận áo dòng.
Methodius
tiếp tục công cuộc truyền giáo trên 16 năm nữa. Ngài là đại diện giáo hoàng đối
với toàn thể người dân Slav, được tấn phong giám mục và được giao cho trông coi
một giáo phận cũ (thuộc Nam Tư). Khi lãnh thổ trước đây thuộc về họ nay bị tước
khỏi quyền tài phán, vị giám mục Bavaria đã trả thù với hàng loạt điều cáo buộc
Ðức Methodius. Kết quả là Hoàng Ðế Louis của Ðức đã lưu đầy Ðức Methodius trong
ba năm. Sau đó Ðức Giáo Hoàng Gioan VIII đã đảm bảo sự tự do cho ngài.
Hàng
giáo sĩ người Frank vẫn còn ấm ức nên họ tiếp tục chụp mũ, và Ðức Methodius phải
sang Rôma để bảo vệ ngài khỏi điều cáo buộc về tội lạc giáo và xin duy trì việc
dùng bản văn phụng vụ Slav. Một lần nữa ngài lại thành công.
Truyền
thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Methodius đã chuyển dịch
toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Salv chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày
thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi ngài chết sự chống
đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào
chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất
ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về
tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và
nam Ba Lan.
Là
quan thầy của Moravia, và được đặc biệt sùng kính bởi người Công Giáo Czech, Slovak,
Croatia, Chính Thống Giáo Serb và người Bulgaria, Thánh Cyril và Methodius thật
xứng đáng là người bảo vệ sự hiệp nhất Ðông và Tây, là điều được mọi người khao
khát từ lâu.
Lời Bàn
Thánh
thiện có nghĩa dùng tình yêu Thiên Chúa để đối xử với thói đời: đời sống con
người lúc nào cũng vậy, luôn chằng chịt những vấn đề chính trị và văn hóa, sự mỹ
miều cũng như sự xấu xa, sự ích kỷ cũng như sự thánh thiện. Với Thánh Cyril và
Methodius, hầu như thập giá hàng ngày của các ngài là phải đương đầu với những
khó khăn giống như của chúng ta ngày nay: vấn đề ngôn ngữ trong phụng vụ. Các
ngài là thánh không phải vì đã đưa phụng vụ vào tiếng Slav, nhưng vì các ngài
đã thi hành điều ấy với sự can đảm và khiêm tốn của Ðức Kitô.
Lời Trích
"Ngay
cả trong phụng vụ, Giáo Hội không muốn áp đặt một sự đồng nhất cứng rắn nào
trong các vấn đề không liên hệ đến đức tin hay không có lợi cho toàn thể cộng
đoàn. Ðúng hơn, Giáo Hội tôn trọng và khuyến khích những tinh hoa và những đặc
tính riêng của các chủng tộc và dòng giống... Miễn sao sự hợp nhất cốt yếu của
nghi lễ Rôma vẫn được duy trì, việc tu chỉnh các sách phụng vụ phải được phép
thay đổi và thích nghi với các tổ chức khác nhau, sự sùng bái và các dân tộc
khác nhau, nhất là trong xứ truyền giáo" (Hiến Chế về Phụng Vụ, 37, 38).
13
Tháng Hai
Mang Tên Một Vị Thánh
Hiện nay, những người
vẽ bản đồ tại Liên Xô đang phải điên đầu vì tên của các thành phố. Khắp nơi
trong toàn lãnh thổ, dân chúng yêu cầu hoàn lại tên cũ cho thành phố, tên mà
Stalin và những người kế vị của ông đã xóa bỏ. Tại Leningrat chẳng hạn, dân
chúng yêu cầu đòi lại đô thị của họ với tên cũ là Petersburg hay St.
Petersburg, nghĩa là đô thị của Thánh Phêrô. Ðây là một trong những đề tài nóng
bỏng mà hội đồng thành phố đang đưa ra thảo luận. Trong một chương trình truyền
hình địa phương người hướng dẫn chương trình đã tránh dùng tên Lenigrat mà lại
gọi tắt là Peter, nghĩa là tên gọi cũ của đô thị. ngững người yêu cầu hoàn trả
tên cũ lại cho các đô thị nói rằng: cũng như những người có quyền giữ tên cha
sinh mẹ đẻ của mình, thì cũng thế, một đô thị cũng phải được quyền giữ tên khai
nguyên của nó.
Tại cộng hòa Georgia,
trường đại học kỹ thuật Tbilisi đã xóa bỏ tên của Lênin và ngay cả tượng của
ông cũng bị đạp đổ. Tại nhiều nơi khác, người ta cũng xóa bỏ tên mới của các đô
thị để lấy lại tên cũ vốn đã có từ thời các đô thị này được thiết lập. Gorky sẽ
được phục hồi lại như trước kia là Novgorod. Bezhnev sẽ được mang tên cũ là
Nabereznye, Zhadanov sẽ được phuc hồi là Mariupol, nghĩa là đô thị của Ðức
Maria.
Mỗi người chúng ta, khi chịu phép rửa cũng đều mang một tên mới. Chúng ta thường
gọi đó là tên thánh. Thánh bởi vì đó là tên của một vị Thánh, nhưng thánh bởi
vì tất cả chúng ta đều được mời gọi để nên thánh, hay nói như Thánh Phaolô, tất
cả chúng ta đều là những người thánh. Thật thế, nhờ Phép Rửa, người tín hữu
Kitô được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa; nhờ Phép Rửa, người
tín hữu Kitô trở thành Ðền Thờ thánh thiện của Chúa Thánh Thần.
Ðó là nguồn gốc, là căn tính của người Kitô chúng ta. Mang lấy tên của một vị
thánh, người Kitô luôn được nhắc nhở rằng bản chất của họ chính là nên thánh,
nguồn gốc của họ chính là sự thánh thiện. Chính vì nguồn gốc ấy, cho nên họ
luôn được mời gọi để làm việc thiện, để cầu nguyện, để chịu đựng, để sống tử tế,
để sống vui tươi, để sống phục vụ. Nói tóm lại, vì thông dự vào sự thánh thiện
của Thiên Chúa, người Kitô luôn được mời gọi để sống như Ðức Kitô, Ðấng qua cái
chết và sự Phục Sinh, đã thể hiện chính sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét