Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng
Bài Ðọc
I: Is 45, 6b-8. 18. 21b-26
"Trời
cao, hãy đổ sương mai!"
Trích sách
Tiên tri Isaia.
Chính Ta
là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng
nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao,
hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh
Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng
nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng
nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu
hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và
không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào
khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.
Hỡi các
người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát.
Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công
chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt
Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính
và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn.
Toàn thể dòng dõi Israel
sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai! Hỡi ngàn mây, hãy mưa
Ðấng Công Chính! (Is 45,8).
Xướng: 1)
Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa,
để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. - Ðáp.
2) Lòng
nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm.
Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. -
Ðáp.
3) Vâng,
Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức
công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người.
- Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người, chính Người là Hoàng tử Bình an. -
Alleluia.
Phúc Âm:
Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)
"Hãy
thuật lại với Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
"Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào
khác?" Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng:
"Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến,
hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Ngay lúc đó, Chúa chữa những
người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy.
Ngài đáp lại rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông
đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được
sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng;
và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu
đến không làm những chuyện kinh thiên động địa, không gây những tiếng tăm vang
lừng. Ngài sống bình thường như mọi người. Ngài chỉ biết xả thân vì anh em nhất
là những người đau khổ: mù, què, nghèo, khổ. Chúng ta thường chỉ có hình ảnh về
Thiên Chúa là một đấng quyền uy cao vời, mà chúng ta quên mất nét đậm của Thiên
Chúa là một người Cha yêu thương vô cùng. Vì yêu nên mới sống giữa chúng ta, vì
yêu nên mới đến làm dịu bớt nỗi khổ và chữa lành bệnh tật của chúng ta. Ôi! Một
hình ảnh về Thiên Chúa tuyệt đẹp. Thiên Chúa tình yêu!
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa là hiện thân của một Thiên Chúa tình yêu, là hiện thân của Cha nhân
hiền. Trong Chúa, chúng con cảm nghiệm được hạnh phúc vì biết mình đang được
yêu, được yêu tha thiết.
Lạy Chúa!
Chúa là Ðấng phải đến rồi, chúng con không chờ ai khác nữa. Chúa là vị Cứu tinh
đích thực của chúng con. Chỉ có Chúa mới đem lại hạnh phúc cho chúng con. Chúa
là tất cả của chúng con. Amen.
Hai Hạt Ngọc
Gia đình
kia có người con duy nhất nhưng lại cứng đầu và ương ngạnh.
Cha cậu bé
làm nghề đánh cá, sống nhiều giờ ngoài biển khơi hơn là ở nhà với gia đình. Vắng
bóng cha, cậu bé thường hay vô lễ với mẹ, người mẹ hết lời khuyên răn sửa dạy
con, nhưng tính nào tật ấy, những lời khuyên dạy xem ra như vô ích. Một hôm, bà
mẹ đợi tới khuya người con mới trở về nhà, bà muốn dạy con một bài học nên
không mở cửa cho con vào. Bà nói:
- Con sẽ
không được trở về nhà nếu con không tìm được hai hạt ngọc trong sáng nhất đem về
cho mẹ. Hai hạt ngọc đó không đáng giá một đồng x nào, nhưng đối với mẹ sẽ là
những hạt ngọc quí báu nhất.
Cậu bé
nhún vai, dửng dưng không muốn ra đi trong đêm tối, nhưng rồi cũng đành phải ra
đi và cố tìm hai hạt ngọc đem về cho mẹ để được trở về nhà. Ði được một quãng,
đến góc đường, cậu bé nhìn thấy hai điểm sáng, mừng thầm trong lòng tưởng đó là
hai hạt ngọc, nhưng khi đến gần, hai điểm sáng lại biến mất. Thì ra đó là điểm
sáng của hai con mắt của con mèo đen trong đêm tối.
Ðây này,
hai điểm sáng nữa, nhưng đó lại chỉ là hai bóng đèn điện trên cột đèn cao, cậu
không thể nào leo lên được.
Ô kìa! lại
hai điểm sáng nữa, nhưng quá thấp bởi vì chỉ là phản chiếu ánh sáng mặt trăng
chiếu xuống hồ nước. Ði thêm một đoạn đường nữa, dõi mắt theo mấy cái đóm trên
bãi cỏ, nhưng đến gần thì chỉ là mấy con đom đóm chập chờn đó đây.
Trời về
khuya càng thêm lạnh, bụng đói như cào, vừa chán nản, vừa buồn tủi, cậu bé quyết
định tìm đường trở về nhà, khi nhìn thấy hai ngọn đèn sáng trước nhà, cậu lại định
đi luôn. Nhưng sau cùng, nỗi ân hận trào dâng, nước mắt chảy dài trên hai gò
má, cậu đến gõ cửa nhà. Bà mẹ ra mở cửa, vừa nhìn thấy con bà thốt lên:
- Ô kìa!
Thật mẹ không lầm. Ðây chính là hai hạt ngọc quí báu nhất.
Cậu bé ngạc
nhiên hỏi mẹ:
- Hai hạt
ngọc ở đâu? Thưa mẹ.
- Ở trên
hai gò má. Ðây là những giọt nước mắt đầu tiên của con. Ðây là những hạt ngọc
quí báu nhất của lòng ăn năn hối hận.
*
* *
Quí vị và
các bạn thân mến,
Phải công
nhận là nhiều khi với cặp mắt ướt đẫm lệ của lòng ăn năn thống hối, chúng ta mới
biết nhìn thấy thực tại của đời sống chúng ta một cách rõ ràng hơn. Ðời sống
con người thường bị đe dọa bởi đủ thứ bệnh tật của thể xác, nhưng lại cũng có
những thứ căn bệnh khác trầm trọng và nguy hại hơn nữa mà ngay cả các bác sĩ
chuyên môn và tài giỏi cũng không thể nào chữa trị được. Ðó là tội lỗi, là bệnh
tật của linh hồn. Tội lỗi làm lu mờ con mắt của linh hồn, kiệt quệ ý chí. Vì thế,
chỉ khi nào chúng ta biết nhìn nhận tội lỗi của mình với cái nhìn mới, với ánh
sáng mới. Ðó là ánh sáng của tình thương Chúa luôn chờ đợi và mời gọi chúng ta
ăn năn hối cải để được tha thứ và được đổi mới. Ðó cũng chính là sứ điệp của
Chúa Giêsu rao giảng cho dân chúng khi Ngài bắt đầu đời sống công khai. Ngài
nói: "Anh em hãy sám hối vì nước Thiên Chúa đã tới gần".
Chúa Giêsu
đến trần gian đem ánh sáng tình thương của Thiên Chúa Cha cho mọi người không
phân biệt ai, như cho mặt trời mọc lên soi sáng cho người lành cũng như cho kẻ
bất lương. Ngài luôn tìm mọi phương cách để mời gọi tất cả mọi người cởi mở con
mắt tâm hồn để cho ánh sáng tình thương của Chúa chiếu soi tất cả mọi góc xó, mọi
khúc cạnh đời sống chúng ta. Ai không biết đón nhận tình thương, tức là chấp nhận
đi trong bóng tối và trong sự cô đơn giá lạnh, trong sầu khổ của tội lỗi, là
như càng đi xa hơn vòng tay yêu thương của Thiên Chúa Cha, và gây chia rẻ hận
thù, là đào thêm những hố sâu của ngăn cách giữa những kỳ thị vànghi ngờ. Chỉ
có tình thương của Chúa mới có sức mạnh đổi mới tâm hồn và canh tân tất cả đời
sống chúng con.
Lạy
Chúa, Chúa biết rõ con không thể bước đi một mình trên con đường lữ hành trần
gian. Con cần được Chúa dẫn dắt và sửa dạy như người cha, người mẹ hiền giáo dục
con cái mình. Con cần được Chúa tha thứ và cần học bài học tha thứ cho người
khác nữa.
Xin dạy
con biết quí trọng và luôn biết sẵn sàng thực thi những cử chỉ yêu thương nhỏ
bé nhưng quí giá như những hạt ngọc trong sáng. Ðó là những phương thức huấn
luyện lòng khiêm tốn để có thể đến với người khác trong tinh tình thương chân
thành. Ðó là chứng tá đầu tiên và cái mới mẻ của Tin Mừng cứu độ của Chúa.
Amen.
14/12/2011 - THỨ TƯ TUẦN 3 Mùa Vọng
Lc 7,16-23
*******
DẤU HIỆU ĐỂ NHẬN RA CHÚA
“Ngài là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Đấng
nào khác?” (Lc 7,19)
Suy niệm: Dân Do Thái thao thức
trông đợi Đấng Cứu Tinh sẽ đến như lời Thiên Chúa đã hứa; thế mà khi Chúa Giêsu
đến và ở giữa họ, họ lại không nhận biết. Họ đã mong đợi một Đấng Cứu Thế theo
lối suy nghĩ của họ chứ không phải theo đường lối của Thiên Chúa. Chính vì mang
cùng một lối suy nghĩ đó mà các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã rơi vào tâm trạng
hoang mang về Chúa Giêsu: Ngài được giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, nhưng liệu
Ngài có phải là Đấng phải đến hay không? Chúa Giêsu đưa ra cho họ dấu hiệu để
phân định bằng cách nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: “…người mù được thấy, kẻ què được
đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Mời Bạn: Thiên Chúa hứa ban Đấng
Cứu Thế để giải thoát con người ra khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi; nhưng con người
lại mong chờ một cuộc giải phóng bằng quyền lực để thoả mãn những nhu cầu của họ
ở trần thế này. Họ muốn thoả mãn khát vọng thống trị bằng tiền của và quyền lực.
Con Thiên Chúa làm người trong khó nghèo, khiêm tốn để đem lại tình yêu, an
bình và sự sống. Phải loại bỏ cái nhìn thế tục thì con người mới có thể nhận ra
Con Thiên Chúa nhập thể trong thế gian.
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm: Trong cách sống của tôi có điều gì đi ngược với
tinh thần khiêm nhu, nghèo khó của Tin Mừng không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở mắt đức tin cho con, để con nhận ra Chúa
đang đến với con trong mỗi việc con làm, và trong từng người con gặp gỡ.
(5 Phút Lời Chúa)
*****************************************
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14/12 - Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh;
Is 45, 6b-8.21b-25. Lc 7, 19-23.
LỜI SUY NIỆM:
Môn đệ của
ông Gioan thấy Chúa Giêsu làm những việc lạ lùng thì về báo lại cho Gioan
biết. Ông liền sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng
phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc7,19).
Như chúng ta đều biết: Gioan Tẩy Giả với Chúa
Giêsu có bà con với nhau, Gioan lại sinh trước Chúa Giêsu. Gioan biết ông là tiếng
hô trong hoang địa để dọn đường cho Chúa Giêsu, ông xác nhận Chúa Giêsu cao trọng
hơn ông. Trên sông Gio-đan, Gioan cũng đã nhận ra Chúa Giêsu, và ông loan báo:
“Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối.” (Mt
3,11a) Còn chính Chúa Giêsu rửa anh em trong Thánh Thần và lửa để nhận ơn tha tội.
Thế tại sao hôm nay Gioan lại sai môn đệ của mình đến hỏi trực tiếp Chúa Giêsu
như thế? Có phải chăng theo cách suy nghĩ của Gioan Tẩy Giả. Khi Chúa Giêsu đến
Ngài sẽ tiêu diệt sự ác, khôi phục sự lành và thánh thiện, như ông đã loan báo:
“Cái rìu đã để sát gốc cây; bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và
quăng vào lữa.” (Mt 3,10) hay là: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa
trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt
mà đốt đi.” (Mt 3,12). Trong khi ông là người đứng về sự thật, bảo về sự thật
thì bị tống vào ngục, còn Hêrôđê một con người của tội ác lại có quyền trên
ông, tống ông vào ngục. Chúa Giêsu đã bảo hai môn đệ Gioan: “Các anh cứ về thuật
lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi,
người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, ngươi chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe
Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” Trong đời sống người
Ki-tô hữu cũng phải biết canh tân suy nghĩ của mình; để được thấy ánh sáng của
Tin Mừng.
Mạnh Phương
*****************************************
Gương Thánh Nhân
Ngày 14-12:
Thánh GIOAN THÁNH GIÁ
Linh Mục Tiến Sĩ (1542 -
1591)
Gioan
de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila .
Tây Ban Nha ngày 24 tháng 6 năm 1542. Cha Ngài làm thợ dệt, bị gia đình giàu có
làmnghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém hơn. Mẹ Ngài là một người
đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với
3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đã học nghề thợ mộc,
may vá, điêu khắc, hội họa trong tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
Trong
mọi việc, Ngài có thói quen tự hỏi: - "Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ
làm gì ?"
Ngài
không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với
các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của Ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu,
Ngài đã dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học
văm phạm và triết học nơi các cha dòng Tên.
Năm1563,
Gioan gia nhập dòng Carmêlô và năm sau được gửi học tại đại học Salamanca . Năm 1567 Ngài
thụ phong linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila . Thánh nữ đã khuyên
Ngài thực hiện việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với
Ngài: - "Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải
chịu khổ tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ".
Gioan
trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị
52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây
là nguồn gốc của dòng Carmêlô canh tân đi chân không, Ngài lấy tên là Gioan
Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, Ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn
dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào.
Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi
những việc hư hỏng, tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh.
Sau
khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành
tuyên úy của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái
mình: - "Cha là vị thánh".
Sự
thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến
Ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thày dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thày
dòng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, Ngài bị cầm tù
ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với Ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa Ngài tới
nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng Ngài cảm thấy đang đi đúng đường
Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ
tăng thêm đức tin và lý tưởng của Ngài. Đáp lại, Ngài yêu mến nhiều hơn và
trong hầm tối thiếu khí trời, Ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành
cuốn "Thánh ca thiêng liêng" (cantiques spirituelles).
Được
9 tháng thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, Ngài dừng lại
trong một dòng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về "hạnh phúc của đau khổ"
và bỗng Ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được
chịu khổ vì Chúa đã làm cho Ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong
tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói: -
"Không có cách gì để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất
thần ngay và lôi kéo người khác theo".
Một
ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh
linh như muốn nâng Ngài lên. Khiêm tốn, Ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng
hoạt động thần linh đã nâng Ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt Ngài cũng
xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi
các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.
Đức
Thánh cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải
nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn
Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua
các thành Tây Ban Nha, Ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính
Ngài đã xây dựng một thủy lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, Ngài đã viết cuốn
"ngọn lửa tình yêu sống động" (la vive flamme d'amour). Cuối cùng
Ngài trở thành Tổng đại diện Andalousia.
Sự
trong trắng của thánh nhân đã tạo cho Ngài một quyền năng trên quỉ thần. Ngài
đã giải thoát nhiều bị quỉ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá Ngài
dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện, Ngài dập tắt một hỏa hoạn. Các thú vật quí mến
Ngài. Để giữ mình trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất
thương cảm những đau khổ của người khác, Ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những
đau khổ tinh thần mà Ngài gọi là "đêm tối của tâm hồn". Nhưng Ngài hiểu
rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được
nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn.
Thường
nhà dòng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh
nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc
vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà
dòng. Các tu sĩ trở lại phòng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: - "Oi,
vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu.
Ngài đã sớm thương hại chúng ta".
Lần
kia, Ngài đã trả lời Chúa Giêsu khi Ngài hỏi về phần thưởng Ngài muốn rằng: -
"Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa".
Và
Ngài đã xin ba ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là
bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.
Những
tháng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã hủy hoại thân thể
Ngài. Mệt nhọc vì du hành tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân,
các vết thương mở rộng. Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia Ngài nói với
người đối thoại: - "Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và
đau nhức".
Thánh
nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta qúi mến,
hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với Ngài. Ngài đã chọn tu viện
Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho Ngài đau đớn thêm. Nhưng Ngài càng ôm chặt
thánh giá vào lòng. Vị tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì
lòng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin Ngài tha thứ.
Gioan
báo trước mình sẽ chết đêm 14 tháng 12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh
hồn, Ngài xin đọc sách Diễn tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi
chuông reo giờ kinh sáng, Ngài cầm thánh giá nói: - "Lạy Chúa, con phó
linh hồn trong tay Chúa".
Ngài
còn nhìn các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: - "Vào xế chiều
cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu".
Gioan
Thánh Giá để lại nhiều sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, đêm tối
tâm hồn, Ngọn lửa tình yêu sống động, thánh ca thiêng liêng. Ngài được tuyên
thánh năm 1726. Và Đức Piô XI đã đăt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.
(daminhvn.net)
*****************************************
14 Tháng Mười Hai
Cánh Tay Của Người Ganh Tị Và Tham Lam
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy
ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng
vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập
hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ
quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy,
tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người
thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt
mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn
người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở
miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong
lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu
người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn
hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố:
"Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...". Hắn cảm thấy sung sướng với
ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có
và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng
ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về
người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
(Lẽ Sống)
*****************************************
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần III MV
Bài đọc: Isa 45:6b-8, 18, 21b-25; Lk 7:18b-23.
1/ Bài đọc I: Ta là ĐỨC CHÚA, không còn chúa nào khác. 7 Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối
tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là ĐỨC CHÚA, Ta làm nên tất cả.
8 Trời cao hỡi, nào hãy
gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính;
đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên.
Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã làm điều ấy.
đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên.
Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã làm điều ấy.
18 Đây là lời của ĐỨC CHÚA,
Đấng tạo dựng trời cao
- chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững;
Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -,
Người phán thế này: Ta là ĐỨC CHÚA, chẳng còn chúa nào khác.
- chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững;
Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -,
Người phán thế này: Ta là ĐỨC CHÚA, chẳng còn chúa nào khác.
Há
chẳng phải Ta, chẳng phải ĐỨC CHÚA? Ngoài Ta ra, không có thần nào nữa,
chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại trừ Ta.
chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại trừ Ta.
22 Nào muôn dân khắp cõi địa
cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ,
vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác.
vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác.
23 Ta lấy chính danh Ta mà
thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta,
Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng:
Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng:
24 Chỉ mình ĐỨC CHÚA mới cứu
độ và làm cho mạnh sức.
Hết thảy những ai giận ghét Người sẽ phải đến với Người và thẹn thùng xấu hổ.
Hết thảy những ai giận ghét Người sẽ phải đến với Người và thẹn thùng xấu hổ.
25 Còn tất cả giống nòi
Ít-ra-en sẽ nhờ ĐỨC CHÚA mà vẻ vang toàn thắng.
2/ Phúc Âm: Ông Gio-an liền gọi hai người trong nhóm môn đệ
lại,
19 sai họ đến hỏi Chúa rằng:
"Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác?"
20 Khi đến gặp Đức Giê-su,
hai người ấy nói: "Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: "Thầy
có thật là "Đấng phải đến" không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác?"
21 Chính giờ ấy, Đức Giê-su
chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều
người mù được thấy.
22 Người trả lời hai người ấy
rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai
nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng,
23 và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.
Con
người có thể lỗi phạm đến Thiên Chúa cả khi sung sướng hạnh phúc lẫn khi đau khổ
buồn sầu. Con người quên Thiên Chúa trong lúc được sung sướng hạnh phúc, vì họ
cho đó là công sức của họ hay một thần nào khác. Con người từ chối Thiên Chúa
khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đau khổ, vì họ đặt câu hỏi nếu Thiên Chúa
có uy quyền thay đổi và yêu thương rất mực, tại sao Ngài lại để những đau khổ xảy
ra cho con người, nhất là những người "vô tội?" Vì thế, họ kết luận
hoặc Thiên Chúa không uy quyền hoặc Thiên Chúa không yêu thương, nên họ từ chối
tin vào Ngài!
Các
Bài Đọc hôm nay xác tín chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Ngài quan phòng mọi sự
trong trời đất này. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết chỉ có một Thiên
Chúa, Ngài tạo dựng mọi sự trong vũ trụ, quan phòng mọi chuyện xảy ra: tốt cũng
như xấu, và có quyền giải thoát và ban ơn cứu độ cho những ai vững tin vào
Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: "Thầy
có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Chúa Giêsu trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông
Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người
cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng,
và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta là Đức Chúa, ngoài Ta ra, không có thần nào
nữa.
1.1/
Thiên Chúa duy nhất: Khi nói đến uy quyền của Thiên Chúa, truyền thống Do-thái
cũng như Giáo Hội thường đề cập đến ba hoạt động chính của Ngài: tạo dựng, quan
phòng, và cứu độ. Trình thuật của Isaiah hôm nay dẫn chứng ba điều này như sau:
(1)
Ngài tạo dựng nên mọi sự trong vũ trụ: Tiên-tri Isaiah loan báo: "Đây là lời
của Đức Chúa, Đấng tạo dựng trời cao - chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất
thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu,
nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ."
(2)
Ngài quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất: "Ta là Đức Chúa, không còn
chúa nào khác. Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng
nên tai hoạ. Ta là Đức Chúa, Ta làm nên tất cả." Theo giáo huấn của Giáo Hội,
Thiên Chúa, trong sự quan phòng trời đất, dựng nên cả ánh sáng và tối tăm, những
tai họa của trời đất như: núi lửa, động đất, mưa bão... nhưng tội lỗi luân lý
là hoàn toàn do con người, vì Ngài đã cho con người được tự do chọn lựa.
(3)
Ngài ban ơn cứu độ cho con người: Thiên Chúa có quyền dạy dỗ con người bằng
cách để những tai nạn xảy ra cho họ, như bệnh tật, đau khổ, tù đày; nhưng nếu
con người biết ăn năn xám hối, chỉ một mình Ngài có uy quyền giải thoát con người.
Trong lịch sử, Ngài giải thoát họ bằng cách sai Moses và Aaron đưa dân ra khỏi
đất nô lệ Ai-cập; hay dùng Cyrus, vua Ba-tư để phóng thích cho dân hồi hương để
xây dựng lại Đền Thờ và quê hương; hay gởi Đấng Thiên Sai tới để chuộc tội cho
dân, như lời tiên-tri Isaiah loan báo: "Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương,
mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời
chính trực sẽ vươn lên. Ta là Đức Chúa, Ta đã làm điều ấy."
1.2/
Thái độ của con người trước Thiên Chúa: Trước tiên, con người cần xác tín: những
gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài không bao giờ rút lại. Tiên-tri Isaiah dẫn chứng điều
này qua sấm ngôn của Đức Chúa: "Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật
này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi
người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho
mạnh sức."
Để
được Thiên Chúa cứu độ, con người cần qui hướng và đặt trọn vẹn niềm tin tưởng
nơi Thiên Chúa: Nếu con người cậy dựa vào Thiên Chúa, họ sẽ chiến thắng vẻ
vang; nhưng nếu con người cậy dựa vào sức mình hay nơi các thần khác, Ngài sẽ để
mặc họ cho các sức mạnh của ma quỉ và của thế gian hành hạ họ, và họ sẽ phải nhục
nhã và thẹn thùng xấu hổ.
2/ Phúc Âm: Phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi.
2.1/
Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả: Có nhiều giả thuyết khác nhau chung quanh câu hỏi của
hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là
chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
(1)
Ông nghi ngờ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái tin một Đấng
Thiên Sai uy quyền, khi Ngài tới, Ngài sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để đanh đuổi
ngoại bang và phục hồi địa vị ưu việt cho người Do-thái. Khi không thấy điều
này xảy ra, niềm tin của ông vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bị lung lay.
(2)
Tuy Gioan tin Chúa Giêsu, nhưng ông muốn hai môn đệ của ông tự tìm ra và củng cố
niềm tin của họ bằng cách gởi họ trực tiếp tìm câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu.
Một người có thể nghe người khác nói về Chúa Giêsu hay đọc những sách nói về
Ngài; nhưng để có niềm tin vững mạnh vào Ngài, họ cần có kinh nghiệm trực tiếp
với Chúa Giêsu.
(3)
Gioan đang bị giam giữ khốn khổ trong ngục thất, và sự giam giữ này làm lung
lay đức tin của Gioan. Tại sao Chúa Giêsu không dùng uy quyền ra tay giải thoát
hay sai các thiên sứ của Ngài đến để cứu ông thoát khỏi cảnh tù tội?
Cả
ba giả thuyết đều có lý do, vì dựa trên câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai môn
đệ.
2.2/
Câu trả lời của Chúa Giêsu: Thánh sử Lucas chú trọng đến ba điều quan trọng
trong câu trả lời của Chúa Giêsu:
(1)
Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: "Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người
khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy."
Hai môn đệ của Gioan đã chứng kiến tất cả những việc này, và niềm tin của hai
ông phải được củng cố bởi những phép lạ của Chúa Giêsu.
(2)
Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho Gioan: Đau khổ khi bị tù đày cần thiết để thanh
luyện và củng cố đức tin cho con người. Trong câu cuối, Ngài gián tiếp nhắn nhủ
Gioan và hai môn đệ của ông: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi."
(3)
Chúa Giêsu nhắc nhở cho Gioan biết Ngài là Đấng mà tiên-tri Isaiah đã loan báo,
và Ngài làm cho lời tiên-tri Isaiah được ứng nghiệm: "Các anh cứ về thuật
lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được
đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được
nghe tin mừng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được củng cố và làm cho lớn mạnh mỗi
ngày, để có thể giúp chúng ta đứng vững trước phong ba của cuộc đời. Nếu không,
chúng ta sẽ dễ dàng bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần khác.
-
Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, thay vì trách Thiên Chúa, chúng ta hãy tự
kiểm điểm xem tại sao những điều ấy xảy ra: có thể là tiếng kêu gọi thức tỉnh để
trở về với Thiên Chúa hay có thể là dịp để chúng ta luyện tập đức tin cho vững
vàng hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
*****************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét