Trang

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

04-04-2014 : THỨ SÁU TUẦN VI MÙA CHAY

04/04/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật IV Mùa Chay

Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".
Trích sách Khôn Ngoan.
Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh dự của những tâm hồn thánh thiện.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23
Ðáp: Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).
Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Dư Luận Về Chúa

Vào năm 1943, cô Chiara Lubic đã khởi xướng phong trào Focolare, tạm dịch là "Phong Trào Tổ Ấm" với lý tưởng hiệp nhất tất cả các thành phần dân Chúa. Chiara Lubic lúc ấy là một cô gái trẻ vừa tròn 18 tuổi. Tuy nhiên, cô đã có đời sống nội tâm sâu xa, yêu thích sống gần Thiên Chúa.
Một lần nọ, mẹ cô sai đi mua sữa cho em, cô vui vẻ làm công việc với tinh thần vui tươi hăng hái. Trên đường đi, cô cảm thấy dường như đã tìm được ơn gọi của mình là hành động bác ái giữa những người cùng khổ. Lúc đó, cô đang điều khiển một nhóm Công giáo tiến hành. Sau chuyến đi dự khóa hội thảo, cô đã quyết định theo Chúa bằng ba lời khuyên Phúc Âm: Khiết tịnh, Khó nghèo và Vâng phục.
Thế chiến thứ II bùng nổ, Chiara Lubic vẫn còn ở lại Trento để phục vụ các nạn nhân chiến tranh. Tình yêu của cô đối với tha nhân đã thu phục được nhiều thiếu nữ khác cùng sống lý tưởng "bác ái - hiệp nhất", nhìn thấy Chúa trong tha nhân, nhất là trong những người bị bỏ rơi và bị xua đuổi. Nếp sống ấy đã vượt ra khỏi ranh giới thành phố Trento.
Vào một ngày nọ, giữa năm 1948, một thanh niên 20 tuổi, chuyên viên điện, đến sửa điện ở nhà các cô, nghe các cô nói về Thiên Chúa và về kinh nghiệm sống, anh thích thú và muốn nghe mãi. Xong việc, thay vì nhận tiền công, anh ta lại xin được gia nhập làm thành viên của "Tổ Ấm" Chiara Lubic, vì nghe tiếng thiêng liêng buộc anh sống đời sống đó.
Rồi một kỹ sư nữa cũng đến xin gia nhập, thế là "Tổ Ấm" nam được thành lập. Trụ sở đầu tiên của "Tổ Ấm" nam là một chỗ nuôi gà, vịt được sửa lại. Ngày kia, có một linh mục đến gặp hai anh, thấy hai anh sống trong chuồng gà, ngài chê là điên. Các anh trả lời: "Chúng con điên vì tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng điên".
Anh chị em thân mến!
Trước Chúa Giêsu Kitô, con người phải có thái độ dứt khoát, Ngài là dấu hiệu muôn thuở. Ðối diện với Ngài, nhiều người khiêm tốn tuân phục, nhưng cũng có những kẻ khác tự kiêu, cố chấp từ chối, cho việc tin nhận Ngài là một hành động điên rồ. Nhưng để làm đồ đệ của Chúa thì chúng ta phải chấp nhận để người ta gọi mình là điên: "Ðiên vì tình yêu Chúa", qua đó ta có thể phân phát tình yêu Chúa cho anh em xung quanh.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã viết như sau: Người ngoài không hiểu được tại sao ta theo tiếng gọi của Chúa, và người ta cho là điên. Chính Chúa Giêsu cũng bị Hêrôđê gọi là điên, và chúng ta hãnh diện được ở trong nhà thương điên của Chúa.
Những người Do Thái được nhắc đến trong bài Tin Mừng hôm nay chưa hẳn gọi Chúa Giêsu là điên, nhưng có thể cho Ngài là người ngông cuồng. Họ tự phụ cho mình đã biết được ngọn nguồn của Chúa xuất thân từ một gia đình nghèo, con ông Giuse và bà Maria, sinh sống tại Nazareth. Thật không thể nào tưởng tượng được một con người xuất thân thấp hèn như vậy mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Mâu thuẫn của đức tin Kitô là thế đó. Con Thiên Chúa xuống thế làm người thấp hèn đến độ bị khinh thường như vậy.
Anh chị em thân mến!
Những người Do Thái tự phụ, cho mình là biết rõ ngọn nguồn của Chúa Giêsu. Nhưng thực sự họ không biết, vì tinh thần họ đã trở nên mù quáng trước những phép lạ, trước những dấu chỉ Chúa đã thực hiện trước mắt họ. Họ làm ngơ giả điếc trước mạc khải vô cùng quan trọng của Chúa Giêsu, về nguồn gốc thần linh của Ngài: "Ta bởi Thiên Chúa Cha mà đến, và chính Ngài là Ðấng đã sai Ta". Ðây là sự thật rất quan trọng và Giáo Hội đã đưa vào kinh Tin Kính để cộng đoàn và các đồ đệ của Chúa Giêsu tuyên xưng: "Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành... Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế..."
Sự cứu rỗi của nhân loại không phải là một tổ chức, nhưng là một mầu nhiệm; mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu chết và sống lại. Con đừng hoài nghi lúc thấy con đường hy vọng vắng bóng những người mà thế gian cho là khôn ngoan. Chúa Giêsu đã báo trước: "Lạy Cha, Con đội ơn Cha, vì Cha đã dấu những điều này cho những kẻ khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn". Con cảm tạ Chúa vì Ngài đã chỉ cho con biết sự khôn ngoan thật. Thế gian sợ khôn ngoan này, vì Chúa Giêsu gọi là đường hẹp, vì nó đảo lộn cuộc sống cũ, vì nó quấy rầy thế gian, vì nó đặt lại giá trị, vì thiên hạ cho là chướng tai. Nhưng những tâm hồn thiện chí, khiêm cung, những giới trẻ đầy nhiệt huyết qua mọi thời đại đã theo sự khôn ngoan thật này đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn, để con có thể lãnh nhận sự khôn ngoan thật của Chúa. Xin thương cho con được gặp Chúa và giúp anh em xung quanh đến với Chúa. Amen.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần IV MC
Bài đọc: Wis 2:1, 12-22; Jn 7:1-2, 10, 25-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin thế nào sẽ sống như vậy.
Nhu cầu học hỏi để biết phân biệt đúng, sai rất quan trọng. Lý do: Tin thế nào sẽ thực hành như vậy. Nếu một người biết đúng, người đó sẽ thực hành đúng; ngược lại, nếu người đó biết sai hay không biết, làm sao người đó có thể hành động đúng được? Vì thế, con người phải học hỏi và được dạy dỗ không ngừng để biết phân biệt phải, trái.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh các hành động sai lầm và độc ác của việc biết sai về Thiên Chúa và về Đấng Cứu Thế. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan phơi bày suy luận sai lầm và hành động ác độc của những người không tin nơi Thiên Chúa và cuộc sống đời sau. Họ truy tố và hành hạ người công chính để thử xem đức tin của người công chính có thắng vượt được những tra tấn dã man mà họ nghĩ ra! Trong Phúc Âm, vì không hiểu thực sự Đấng Thiên Sai là ai và cách cứu độ của Ngài, người Do-thái tìm cách bắt bớ và tiêu diệt Đức Kitô.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Niềm tin sai lầm về Thiên Chúa và về cuộc đời
1.1/ Niềm tin của những người vô thần dẫn tới hành động ác độc của họ:
(1) Niềm tin sai lầm: Họ nghĩ: “Đời ta thật buồn sầu, vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty.” Theo truyền thống Do-thái, niềm tin về đời sau của họ rất mơ hồ; đa số chỉ tin phần thưởng Thiên Chúa ban cho những ai bước đi trong Lề Luật của Ngài là sống lâu, con đàn cháu đống, và hạnh phúc ở đời này. Mãi cho đến thời của tiên-tri Daniel và anh em nhà Maccabees (3rd tới 2nd BC), niềm tin vào sự sống lại và hạnh phúc đời sau mới rõ nét hơn. Sách Khôn Ngoan cũng được viết trong khỏang thời gian này. Đối với những người vô thần, họ tin chết là hết và không có đời sau. Họ không tin Thiên Chúa, Đấng có thể giải thóat người công chính và trừng phạt kẻ tội lỗi và bất công.
(2) Hành động ác độc của người vô thần: Tin thế nào sẽ sống như vậy. Vì không tin đời sau, nên bao nỗ lực của họ dành cả cho đời này. Họ ghét người công chính, không phải vì người công chính làm hại họ, nhưng vì lối sống của những người công chính làm cho lương tâm của họ bị cắt rứt. Họ nói: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.” Họ đâu biết chính nhờ lương tâm cắn rứt, sẽ giúp họ nhận ra điều sai trái họ làm mà quay trở về với đàng ngay nẻo chính! Nhưng vì họ đã ở trong bóng tối quá lâu, họ mất sức mạnh để ra ngòai ánh sáng.
Họ muốn tất cả mọi người phải sống như họ. Họ cảm thấy khó chịu và bất an khi thấy có người nào sống khác họ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta, thấy mặt nó thôi là ta chịu không nổi. Vì nó sống thật chẳng giống ai, lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn.” Đây là thái độ của nhiều con người vô thần thời nay. Họ lạm dụng tự do ngôn luận để bắt ai cũng phải sống như họ: cấm không cho đọc kinh hay thinh lặng trước giờ học, bắt tất cả học sinh phải biết về vấn đề tình dục ở tuổi mới lớn, bắt người tin Thiên Chúa phải trợ phá thai hay bán uống thuốc phá thai …
1.2/ Cần phải học cho biết đúng về Thiên Chúa: Để tránh những hiểu biết sai lầm và những hành động ác độc giữa con người với con người, tất cả đều cần học biết về Thiên Chúa, Đấng dựng nên mọi sự và điều khiển muôn lòai. Điều trước tiên con người phải nhận ra là có Thiên Chúa qua những công trình tạo dựng và quan phòng của Ngài trong vũ trụ. Thứ đến, con người cần học để hiểu biết Ngài là ai và các ý định của Ngài khi dựng nên muôn lòai; nhất là các ý định cho con người cả đời này và đời sau.
Con người cũng cần phải học biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa: Giữa Thiên Chúa và con người có một sự khác biệt vô cùng, như tiên-tri Isaiah tuyên bố: tư tưởng và đường lối của Ta không phải là tư tưởng và đường lối của các ngươi; như Trời cao hơn đất thể nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như vậy. Vì thế, để thử xem có Thiên Chúa hay không bằng cách đánh đập những người công chính là chuyện khôi hài. Ngài có kế họach riêng cho con người phải theo, và Ngài không thay đổi kế họach đã có vì thách thức của con người.
Hơn nữa, ngay cả những cực hình mà những người vô thần dùng để thử thách những người công chính cũng nằm trong kế họach của Thiên Chúa. Chúng cần thiết để con người chứng tỏ niềm tin vào Ngài. Những người vô thần không chỉ thử thách Thiên Chúa, mà còn muốn nhìn thấy sự thay đổi niềm tin của người công chính vì sợ cực hình, như lời họ nói: “Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm."
2/ Phúc Âm: Niềm tin sai lầm về Đấng Cứu Thế cũng dẫn tới những hành động sai lầm.
2.1/ Niềm tin sai lầm vào Đấng Cứu Thế: Điều sai lầm trước tiên của người Do-thái là họ quá quan tâm đến nguồn gốc con người mà quên đi nguồn gốc Thiên Chúa của Ngài. Điều sai lầm thứ hai là họ lầm lẫn nơi Đức Kitô sinh ra và nơi Ngài lớn lên như trình thuật ngày mai sẽ đề cập tới. Điều một số người tuyên bố hôm nay chứng tỏ họ không rành rẽ Kinh Thánh: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả.” Tiên-tri Micah đã tuyên bố đích danh nơi sinh của Đấng Thiên Sai: “Phần ngươi, hỡi Bethlehem Éphratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mic 5:1).
Hành động sai lầm: Vì không hiểu rõ nguồn gốc cũng như Kế Họach Cứu Độ của Đấng Thiên Sai, nên những người Do-thái tìm vách bắt bớ và giết Ngài, chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
2.2/ Cần học hỏi để biết Đấng Cứu Thế thực sự là ai: Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng: "Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi." Hôm qua, chúng ta đã nói về 5 chứng nhân của Đức Kitô; qua 5 chứng nhân này, con người đã có nhiều hơn 2 nhân chứng mà Lề Luật đòi hỏi để họ tin vào Ngài. Những ngày kế tiếp, Đức Kitô sẽ tiếp tục mặc khải về Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Kiến thức về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, và về các ý định của Thiên Chúa cho con người rất cần thiết cho chúng ta để đạt tới đích điểm mà Thiên Chúa đã tiền định cho con người. Nếu chúng ta không biết ý định và đường lối của Thiên Chúa, chúng ta sẽ tin và làm theo những gì chúng ta suy nghĩ.
- Tất cả những kiến thức này đã được mặc khải và viết lại trong Kinh Thánh. Chúng ta cần bỏ thời gian để học hỏi trước khi có thể thi hành Kế Họach Cứu Độ theo đường lối của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Kn 2,1a.12-22 ; Ga 7,1-2.10.25-30

A. Hạt giống...
1. Bài đọc 1 trích sách Khôn ngoan nói lên một sự thật phũ phàng là kẻ gian ác không thích người công chính và bách hại người công chính. Bởi vì sự hiện diện và việc làm của người công chính càng làm lộ rõ sự gian ác của chúng, cụng như ánh sáng soi rõ những chỗ dơ dáy xấu xa trong các xó kẹt tối tăm.

2. Bài Tin Mừng : Chúa Giêsu chính là người công chính bị quân gian ác bách hại. Để khỏi mang tội giết Đấng Messia, họ lý luận rằng Đấng Messia phải có nguồn gốc lai lịch rõ ràng, còn Chúa Giêsu thì họ không biết xuất thân từ đâu. Nhân đó Chúa Giêsu nói cho họ biết lai lịch và nguồn gốc của Ngài là Chúa Cha “Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”. Nhưng nói như thế càng khiến họ muốn giết Ngài hơn. Tuy nhiên hiện giờ “họ chưa làm gì Ngài được vì chưa tới giờ Ngài”.

B.... nẩy mầm.
1. Người công chính thường bị kẻ gian ác bách hại. Tôi có thể áp dụng cho mình câu này về cả hai vế :

- Hãy tự hỏi tôi có phải là kẻ gian ác đang bách hại những anh chị em tôi vì họ công chính hơn tôi không ?

- Tôi có sẵn sàng chấp nhận những bách hại của kẻ khác để kiên trì sống theo lý tường công chính không ?

2. Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái kéo dài rất dai dẳng nhưng Ngài cũng chẳng làm cho họ tin Ngài được, trái lại càng ngày họ càng muốn giết Ngài. Cái gì đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế ? Thưa chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và về Đấng Messia của Thiên Chúa : họ tưởng họ biết Thiên Chúa là ai, Đấng Messia từ đâu đến, biết rành Thánh Kinh, biết rất rõ luật Môsê... Tất cả những gì ở ngoài cái khung hiểu biết ấy của họ thì họ đều coi là sai lạc, là từ Xatan...  Tôi có nghĩ rằng tôi đã biết tất cả về Chúa và về ơn cứu độ không ? Tôi có sẵn sàng và ngoan ngoãn để Chúa dạy tôi những điều bất ngờ không ?

3. Một lý do nữa khiến các thượng tế, luật sĩ và biệt phái tìm giết Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai làm họ khó chịu. Phải chăng tôi không bị cám dỗ bởi ý muốn dẹp bỏ những người làm tôi khó chịu, vì họ không giống tôi, vì họ dám nói ra những chỗ yếu kém của tôi, hay chỉ vì họ khá hơn tôi khiến sự hiện diện của họ làm cho tôi bị lu mờ đi... ?
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

04/04/14 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 4 MC
Th. I-xi-đo-rô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 7,1-2.10.25-30

BIẾT VÀ KHÔNG BIẾT
“Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi.” (Ga 7, 28-29)
Suy niệm: Biết một người thường được hiểu là biết những tương quan của người ấy, nhất là về nguồn gốc như cha mẹ, dòng họ, quê quán... Người Do-thái nghĩ rằng họ đã biết tỏ tường về Chúa Giê-su khi nắm bắt được cội nguồn của Ngài: Chúng tôi biết ông ấy xuất phát từ đâu rồi. Do đó, ông ấy cũng chẳng có điều gì ngoại thường và chắc chắn không phải là Đức Ki-tô! Thật ra, không phải tương quan sinh học hay địa lý đã làm nên Đấng Ki-tô, mà chính là mối tương quan thâm sâu mầu nhiệm với Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài. Chúa Giê-su khẳng định: để biết Ngài, người ta phải biết tương quan căn bản nhất làm nên con người Ngài là tương quan Con Một với Cha trên trời.
Mời Bạn: Đức Bê-nê-đi-tô XVI nhận định: “Nhờ đức tin, con người bày tỏ sự ưng thuận của mình với chứng tá của Thiên Chúa.” Thiên Chúa không ai thấy bao giờ và chỉ có Chúa Giê-su là Đấng biết Chúa Cha và chính Ngài mạc khải cho chúng ta. Chúa Giê-su làm chứng cho ta về Chúa Cha bằng mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh của Ngài.
Sống Lời Chúa: Tôi chiêm ngắm tình yêu đến cùng của Thiên Chúa dành cho mình qua Chúa Giê-su, nhất là trong Tuần Thánh sắp tới.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con chưa bao giờ biết được Chúa Cha, nhưng chính Chúa đã mạc khải cho chúng con bằng những dụ ngôn, qua cuộc sống, và qua cái chết cùng sự phục sinh của Chúa. Xin cho chúng con nhìn ngắm chính Chúa để xác quyết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Amen.

Giờ của Người chưa đến
Dân Giêrusalem không thấy được trọn vẹn con người Đức Giêsu. Họ đã giết Đấng Kitô đang ở gần bên họ, vì họ mơ một Đấng Kitô bí ẩn khác. 
Suy nim:
Lễ Lều là một đại lễ hàng năm qui tụ đông đảo dân chúng lên Đền thờ.
Đây là một lễ rất vui, kéo dài cả tuần (Lv 23, 34-36).
Mục đích chính là để tạ ơn Chúa vì hoa trái mùa màng Ngài ban,
và còn để nhớ lại tình thương Chúa trong thời gian 40 năm đi trong hoang địa.
Lễ Lều là một lễ hội tưng bừng và long trọng bậc nhất.
Những người tham dự cắm trại trong các lều làm bằng cành lá,
được dựng trên mái nhà, gần nhà hay ngoài đồng.
Mỗi buổi sáng có lễ rước nước từ hồ Silôam để rưới lên bàn thờ.
Mỗi tối, tiền đình phụ nữ nơi Đền thờ rực rỡ ánh nến và vang tiếng múa hát.
Đức Giêsu đã không muốn bỏ qua lễ hội này,
dù lên Đền thờ Giêrusalem bây giờ thật là nguy hiểm đến tính mạng,
vì người Do thái, nghĩa là giới lãnh đạo Do thái giáo, đang tìm cách giết Ngài.
Đức Giêsu đã chọn giải pháp lên Đền thờ một cách kín đáo (c.10).
Nhưng vào giữa kỳ lễ, Ngài đã giảng dạy công khai, không chút sợ hãi (c. 14).
Đức Giêsu dám đối mặt với thế lực đang đe dọa Ngài.
Ngài bình tĩnh giảng ngay nơi Đền thờ,
trước những thượng tế, những người Pharisêu, và dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Họ chẳng dám làm gì Ngài, vì giờ của ngài chưa đến (c. 30).
Xảy ra cuộc tranh luận giữa Ngài với dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Chẳng có chút thiện cảm nào với Ngài, họ chỉ muốn làm hại Ngài.
Họ tin vào điều này một cách vững chắc :
“Khi Đấng Kitô đến, chẳng ai biết Người đến từ đâu” (c. 27).
Nguồn gốc của Đấng Kitô, đối với họ, phải là một điều bí ẩn.
Họ không tin Đức Giêsu là Kitô, bởi lẽ họ “biết ông này đến từ đâu.”
Chắc họ đã nghĩ Đức Giêsu là dân vùng Nazareth,
làm nghề thợ mộc, sống với cha mẹ là Giuse và Maria.
Tự hào về cái biết đúng nhưng không đủ ấy của họ,
đã khiến họ ngừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu.
Đức Giêsu thật là Đấng Kitô.
Và đúng như dân Giêrusalem đã tin, nguồn gốc của Ngài thật không dễ biết.
Đức Giêsu biết nguồn gốc của mình.
Ngoài gốc nhân loại, Ngài còn gốc thần linh, gốc từ trời.
Ngài không tự mình mà đến, nhưng từ Thiên Chúa chân thật mà đến.
Ngài xuất thân từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đi (cc. 28-29).
Dân Giêrusalem không thấy được trọn vẹn con người Đức Giêsu.
Họ đã giết Đấng Kitô đang ở gần bên họ, vì họ mơ một Đấng Kitô bí ẩn khác.
Làm sao tôi có thể nhận ra Đức Kitô cao cả
đang ở bên những người tầm thường tôi gặp mỗi ngày?
Cầu nguyn:

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm
THÂN PHẬN

Những người Do thái không tin Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng hôm nay đã:
- Nhận xét Chúa Giêsu theo cái nhìn của họ.
- Hiểu Ngài theo cách hiểu của họ.
- Phê phán Ngài theo thành kiến của họ.
Chính vì nghĩ về Chúa Giêsu theo cái nhìn và cách nghĩ như thế, họ đã hiểu sai hoàn toàn về Ngài. Từ cái hiểu sai như thế, họ ngày càng xa cách Ngài và không tin vào Ngài.
Với những lý luận của phàm nhân, họ không thể nào hiểu và tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa lại mang thân phận của một con người. Dù họ hiểu biết như thế nào thì Chúa Giêsu vẫn là Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu cho biết Ngài là Thiên Chúa thật.
Trong đời sống đức tin của mình, nếu tôi cũng chỉ hiểu biết về Chúa theo cách hiểu của tôi, nếu tôi cũng chỉ nghĩ về Ngài theo cách nghĩ của tôi..thì có lẽ, tôi vẫn chưa tín thác trọn vẹn vào Chúa. Đức tin của tôi dễ bị chao đảo lạc đường.
Trong cuộc sống thường ngày, nếu tôi cũng nhận xét tha nhân theo cái nhìn của tôi, nếu tôi cũng hiểu tha nhân theo cách hiểu của tôi.. thì nhiều khi tôi  hiểu sai về người khác.
Những khi sống như vậy là lúc tôi xa cách Chúa và bất hòa với tha nhân.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu Chúa nhiều hơn để con yêu mến Chúa nhiều hơn. Xin cho con hiểu tha nhân nhiều hơn để con thông cảm và yêu mến tha nhân như Chúa dạy. Amen. 

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TƯ
Được Mai Táng Với Đức Kitô - Được Phục Sinh Với Người
Giáo Hội tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người đã chịu nạn, chịu chết, và chịu táng xác. Nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại.”
Trước khi sống lại từ cõi chết, Đức Kitô – với cái chết cứu độ của Người – đã chạm đến tội lỗi của con người qua mọi thế hệ. Người đã ghé thăm các linh hồn trong cõi âm ty với quyền năng cứu chuộc do cái chết của Người, với quyền năng trao ban sự sống do cái chết của Người. Hỡi sự chết, Ta sẽ là chính sự chết của ngươi!
Cũng vậy, chúng ta – những người còn đang sống – đã được dìm trong cái chết của Người (cf. Rm 6,3). Cái chết của Đức Kitô, cái chết cứu chuộc, cái chết trao ban sự sống, đã tiêu diệt di lụy của tội lỗi vốn có mặt nơi mỗi người chúng ta. Thật vậy, “chúng ta … được thanh tẩy để tháp nhập vào với Đức Giê-su Kitô” (Rm 6,3). Và Thánh Phao-lô nói tiếp: “Qua phép Rửa, chúng ta thật sự được mai táng với Người, để – cũng như Đức Kitô được phục sinh từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha – chúng ta cũng sẽ sống trong sự sống mới” (Rm 6,4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04-4
THÁNH ISIĐÔRÔ GIÁM MỤC, TIẾN SĨ, HỘI THÁNH
Kn 2, 1a.12-22; Ga 7, 1-2.10,25-30.

LỜI SUY NIỆM: Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi.”
Những khoảng khắc cuối đời của Chúa Giêsu, Chúa thường đi lại trong miền Galilê, để tránh người Do-Thái.Nhưng trong ngày Lễ Lều.Chúa Giêsu lại công khai giảng dạy trong Đền Thờ, nên đã làm cho dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Kitô.Chúa Giêsu đã công khai cho họ biết là chính Chúa.Chúa từ Chúa Cha mà đến và chính Chúa Cha đã sai đến trong thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho trong cuộc sống của mọi người trong gia đình chúng con luôn nhận ra Chúa trong mọi người để tôn trọng, yêu thương và phục vụ, giúp nhau cải thiện cuộc sống cho nhau vì nhau.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 04-04
Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)

Thánh Isidorô được coi như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đình thật đặc sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và Fulgentio. Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật có phúc vì được sinh ra sống giữa các vị thánh.
Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô. Một bức thư của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm chứng điều đó: - "Anh xin em hãy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng ta và đã trở về với Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em một người chị và hai người anh săn sóc".
Dù rất thương em. Nhưng Leander đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia vì sợ đòn và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết sức cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy hơi, cậu nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến kín nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây thừng cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải suy nghĩ: "Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả đá, còn tôi lại không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?"
Thật là một bài học lạ lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đã biến Ngài thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân, Ngài đã thông hiểu triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử Arevalo đã phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự thông hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê, sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự thánh thiện của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức thư của Isidorô, thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri: - "Đây là một tiên tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon".
Isidorô thụ phong linh mục và theo anh là Leander đang làm giám mục Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc người anh bị lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên kế vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho mình ở Tây Ban Nha.
Dầu không bao giờ là tu sĩ, thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu. Ngài giải thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha. Hơn nữa thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công đồng Tôleđo IV năm 633.
Nhưng trách vụ của Đức giám mục không ngăn cản công việc trước tác phong phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một từ điển các tiếng đồng âm, một khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các vĩ nhân và các nhân vật trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh hưởng nhất của Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết của thời đại Ngài.
Sau 36 năm nhọc mệt trong chức giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể nghiền nát thân xác, nhưng lại không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của Ngài. Trong sáu tháng cuối đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân nghèo đến với Ngài tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh nghèo túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho Ngài, một vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn tiếng xin Chúa thứ tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho, khuyên nhủ dân chúng sống bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về nhà, Ngài qua đời trong an bình của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.
Theo lời yêu cầu của thánh nhân, thi hài Ngài được mai táng với thánh Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua Ferdinand di chuyển hài cốt về Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong thánh Isidorô lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)



Ðánh Nhau Bằng Gậy Gộc
Họa sĩ Goya, người Tây Ban Nha vào đầu thế kỉ 19, đã để lại một loạt những bức tranh mô tả thân phận con người thật ý nghĩa. Một trong họa phẩm mà ông đã thực hiện trong thời nội chiến của người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18 mang tựa đề: "Ðánh nhau bằng gậy gộc".
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân xô xát nhau. Mỗi người cầm trong tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ chiếc dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời không để lộ một nét nổi bật nào. Người ta không đoán được trời sắp giông bão hay sắp sáng rỡ.
Thoạt nhìn qua cũng nghĩ đây chỉ là một bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: đó là hai người nông dân đang hầm hầm sát khí để loại trừ nhau này lại mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối.
Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng trên nhau cho bằng chính cát bụi đang từ từ chôn vùi họ.Thế nhưng thay vì giúp nhau để ra khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào thú dữ: họ cắn xé nhau. Họa phẩm "Ðánh nhau bằng gậy gộc" trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua.Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở quy mô thế giới, một nơi nào đó ngoài cuộc sống của chúng ta, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của chúng ta với những người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm tâm hồn chúng ta.
Bức tranh của họa sĩ Goya cũng chính là bức tranh của thân phận con người chúng ta. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, thay vì liên đới để bảo vệ nhau, người ta vẫn có thể đâm chém lẫn nhau.
Một nhạc sĩ nào đó đã có lý để tra vấn chúng ta: giết người đi thì ta ở với ai? Một trong những phương thế tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc: nếu có ai vả má bên phải của ngươi, hãy chìa luôn cả má còn lại... Trong những giờ phút cuối đời, khi đứng giữa những người đang đằng đằng sát khí muốn hủy diệt mình, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho họ.
(Lẽ Sống)

-4
Thánh Isidore ở Seville
(560? - 636)
rong 76 năm cuộc đời của Thánh Isidore là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo Hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi Thánh Isidore chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những người theo Arian -- họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công Giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gô-tích Arian).
Thánh Isidore là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu Châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng của những người man rợ.
Có thể nói Thánh Isidore sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha. Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và Fulgentius đều làm giám mục và Florentina làm mẹ bề trên.
Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi Thánh Isidore được gọi là "Sư Phụ của Thời Trung Cổ" vì cuốn bách khoa ngài viết, "Etymology" (Từ Nguyên Học) đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học.
Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isidore làm giám mục Seville trong 37 năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một đại diện chính phủ ở Âu Châu, đồng thời ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và thành lập các thượng hội đồng để thảo luận về đường hướng của Giáo Hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh Isidore viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gô-tích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha. 
Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo Hội tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Lời Bàn
Mọi người chúng ta phải bắt chước Thánh Isidore về học thức và sự thánh thiện. Lòng bác ái, sự hiểu biết có thể chữa lành và hòa giải những người đau khổ. Chúng ta không phải là những người man rợ như đã xâm lăng Tây Ban Nha thời Thánh Isidore. Nhưng những người sa lầy trong sự giầu sang và choáng ngợp bởi các tiến bộ khoa học và kỹ thuật có thể mất đi lòng bác ái đối với tha nhân.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét