Bài
Thương Khó Theo Thánh Matthêu
1. Nhận xét mở đầu.
1/ Trong Phụng Vụ Tuần Thánh hiện nay, ngày chúa nhật Lễ Lá, chúng
ta đọc Bài Thương Khó theo Thánh Matthêu (năm A); thánh Mac-cô (năm B); thánh
Luca (năm C). Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh thì năm nào cũng đọc Bài Thương Khó theo
Thánh Gioan.
Cũng là một phần trong các sách Tin Mừng, nhưng người đọc không
công bố theo công thức hàng ngày: “Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô…”, cũng không chào chúc : “Chúa ở cùng anh chị em”,
mà xướng : “Cuộc Thương Khó
Đức Giêsu Kitô theo thánh…” Công thức phụng vụ này nhiều khi làm
chúng ta quên rằng Cuộc Thương Khó cũng là Tin Mừng, và cùng với Tin Mừng Chúa
Phục sinh làm thành cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
2/ Lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ là công bố mầu nhiệm Chúa
Giêsu chết và phục sinh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu loan báo cái chết
và sự phục sinh của Chúa như hai thì của một biến cố duy nhất mà chúng ta gọi
là “mầu nhiệm Vượt Qua”, Chúa Giêsu vượt qua cái chết để vào cõi sống và dắt
chúng ta theo. Thời Trung Cổ, người ta thường vẽ Chúa Giêsu Phục Sinh bước ra
khỏi mồ, một tay dắt ông Adong, một tay dắt bà Evà; hoặc một tay cầm thánh giá,
một tay dắt ông Adong.
3/ Điều này giúp hiểu tại sao các sách Tin Mừng kể về cái chết của
Chúa Giêsu với nhiều chi tiết diễn tả những đau đớn, nhục nhã nhưng không cay
đắng, giận dữ, oán hận, trái lại rất điềm tĩnh, tế nhị và tinh vi nêu lên những
nét mà những người xét xử, hành hạ, sỉ nhục Chúa Giêsu tưởng mình thắng thế,
nhưng lại vô tình làm theo những gì đã được báo trước trong Kinh Thánh. Chính
yếu tố “hợp như lời Thánh Kinh” này
giúp ta nhìn ra ý nghĩa thật của cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
4/ Trong các sách Tin Mừng, trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục
Sinh của Chúa Giêsu nằm ở cuối sách, nhưng trong quá trình loan báo Tin Mừng
thì đây là điểm khởi đầu. Những người nghe lời công bố Tin Mừng và tin nhận Đức
Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa thì thống hối và chịu phép Rửa.
Họ họp với các môn đệ thành cộng đoàn tín hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các
Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Ở giai đoạn “giảng
dạy” này các Tông Đồ mới đưa người tín hữu ngược dòng, tìm hiểu những lời giáo
huấn và những việc Chúa Giêsu đã làm trước đó, dưới ánh sáng của biến cố chết
và Phục sinh là biến cố làm cho người ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là
Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian. Sách Tin Mừng thu tập các yếu tố đã
khai triển trong quá trình giảng dạy này và trình bày “mạch lạc” (x. Lc
1,1-4), nghĩa là giúp cho người đọc thấy được cuộc sống, hành động và lời rao
giảng của Chúa và cuộc Thương Khó cùng sự phục sinh của Chúa ăn khớp với nhau
như thế nào.
5/ Vì thế trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục sinh trong mỗi sách
Tin Mừng cũng có những tính cách riêng và phải đọc trong mạch văn của mỗi sách
Tin Mừng mới hiểu được; lý do là mỗi sách Tin Mừng có môt cách nhìn riêng về
Chúa Giêsu, cách nhìn này chi phối sự lựa chọn tư liệu, thứ tự và cách thức
trình bày, ăn khớp với nhau từ đầu đến cuối. Điều rất quan trọng là đừng “xào
chung” bốn bài Thương Khó với nhau hay bài Thương Khó trong sách Tin Mừng này
với các yếu tố trong toàn bộ sách Tin Mừng khác, vì sẽ tự gây những thắc mắc
khó khăn. Xin minh họa bằng một thí dụ : trong sách Tin Mừng Mt 5,39 và Lc 6,29, Chúa Giêsu
bảo: “Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa!”, nhưng trong
sách Tin Mừng Gioan 18,22-23,
khi tên thuộc hạ của Thượng Tế vả vào mặt Chúa để trấn áp thì Chúa không
đưa má bên kia mà lại hỏi anh ta: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở
chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi”. Nếu xào chung thì hóa
ra Chúa không thực hành lời Chúa dạy môn đệ à? Trong Mt và Lc,
Chúa dạy về thái độ không trả thù và hóa giải bạo lực: suốt cuộc Thương Khó
Chúa im lặng chấp nhận mọi sự hành hạ sỉ nhục, “để lại tấm gương cho chúng
ta” như thánh Phêrô nói (x. I
Pr 3,21-23); còn trong TM Gioan, Chúa Giêsu phải “làm
chứng cho sự thật” nên Chúa không cho phép ai dùng bạo lực trấn áp sự thật.
2. Những yếu tố giúp hiểu bài Thương Khó theo thánh
Matthêu.
1/ “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người
sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”
2/ “Em-ma-nu-en, Chúa ở cùng chúng ta”
3/ “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy
các bệnh hoạn của ta” (8,17).
4/ “Người đưa công lý đến toàn thắng và muôn dân đặt niềm
hy vọng nơi danh Người” (12,17-21).
5/ “Khi Đức Giêsu giảng dạy tất cả những điều ấy xong…”
6/ “Đây là máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội”
7/ Ba lần
Chúa Giêsu báo trước.
Như đã nói ở trên, quá trình khai
triển sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô đi từ mầu nhiệm Khổ Nạn – Phục
sinh ngược lên, nhưng khi viết sách Phúc Âm thì lại đi xuôi từ đầu cuộc sống
của Chúa Giêsu.
1-2/ Giêsu –
Em-ma-nu-en: Truyền thống rao giảng Tin Mừng trong đó sách Tin Mừng Matthêu
được viết ra, đã ngược lên tới thời thơ ấu của Chúa Giêsu, cho thấy Tin Mừng ơn
cứu độ không chỉ bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (x. Cv 1,21-22), nhưng ngay từ khi
thành thai trong lòng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria (Tin Mừng thời thơ ấu), Người đã
là Đấng Kitô, “Đấng Cứu dân mình hỏi tội lỗi của họ”. Tin Mừng thời thơ
ấu theo thánhMatthêu cho
thấy toàn thể mầu nhiệm Chúa Giêsu là sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa cho tổ
phụ Ap-ra-ham và Đavit. Chúa Giêsu vừa là điểm tới của lời hứa ban dòng dõi
theo huyết nhục, vừa là khởi đầu mới để lời hứa được thực hiện qua một dòng dõi
mới, không phải do huyết nhục nhưng do Thánh Thần. Khi sinh làm người, Chúa
Giêsu đã là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để thiết lập Giao Ước Mới, nhưng
khi đã chết và phục sinh để nhận mọi quyền trên trời dưới đất, thì Chúa là “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và muôn dân được vào trong
Giao Ước bằng Máu của Chúa, nhờ chịu phép rửa và tuân giữ mọi điều Chúa truyền
dạy.
3/ Người tôi tớ
đau khổ: Chết và phục sinh là cách Chúa cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ.
Tại sao lại như vậy? Sách Tin Mừng Mt dẫn chúng ta vào mầu nhiệm này bằng
cách vạch cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo.
Ngay sau bài giảng trên núi (công bố Luật của Giao Ước Mới, chúng ta sẽ trở lại
điểm này), Chúa Giêsu bắt đầu chữa lành bệnh tật, vốn được coi là hậu quả của
tội lỗi, Mt lý giải bằng cách cho thấy đó là
ứng nghiệm lời loan báo về người tôi tớ đau khổ trong sách Isaia 53,4: “Người đã mang
lấy các bệnh hoạn tật nguyền của ta”.
Bài ca “người tôi tớ đau khổ” (Is 52,13 – 53,12) được cả bốn sách tin Mừng vận dụng để
giải nghĩa cái chết và sự phục sinh của Chúa, mỗi sách vận dụng một cách
khác nhau; Mt trích dẫn rõ ràng ở đây để cho
thấy rằng khi chữa lành bệnh tật thì không phải Chúa xua trừ nó, nhưng là mang
lấy vào thân mình. Mc theo phong cách khác trong nghệ thuật
kể chuyện, không trích dẫn, nhưng kể rằng sau khi đưa tay chạm vào người phong
cùi để cho người ấy được lành thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào
được mà ở lại nơi hoang vắng (thế chỗ người phong cùi!) (Mc 1,45 à Is
53,3). Bài ca này còn chứa
nhiều yếu tố khác sẽ được ứng nghiệm trong mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và Phục
Sinh. Lc dùng như một sơ đồ để viết trình thuật
cuộc Thương Khó.
4/ Người tôi
tớ hiền lành: Sau bài giảng về cung cách và số phận của ngươi được sai đi
loan báo Tin Mừng (Mt 10), trong đó Chúa Giêsu đã nói đến sự bách hại và
điều kiện để làm môn đệ, Mt tiếp tục kể việc Chúa Giêsu đi rao
giảng, chữa lành và khi bị chống đối thì Chúa lánh đi và cấm người ta không
được tiết lộ Người là ai. Để lý giải thái độ này của Chúa, Mt 12,16-21 trưng dẫn bài ca thứ nhất về người tôi
tớ của Thiên Chúa trongIs 42,1-7. Hiền
lành, khiêm nhượng, thinh lặng là cung cách của người tôi tớ “không yếu hèn,
không chịu phục cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu”. Chúa Giêsu mời
gọi “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái,
gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Cung
cách hiền lành, khiêm nhường và thinh lặng sẽ thể hiện tuyệt vời trong cuộc
Thương Khó, qua đó Chúa Giêsu sẽ thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao như được
diễn tả trong bài ca: “Ta đã gọi ngươi vì muốn làm sáng tỏ Đức Công Chính
của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, giữ gìn ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh
sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những
người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is
42,6-7). Mt sẽ cho thấy khi chết là lúc Chúa Giêsu
đi vào phá ngục tù của cõi chết mà đưa những người bị giam giữ trong đó ra khỏi
tù.
5-6/ Tin Mừng thời thơ ấu của Mt đã có nhiều ám chỉ, so sánh với chuyện
Môsê và dân It-ra-en trong sách Xuất
Hành. Cấu trúc phần thân của
sách Mt gom lời giảng dạy của Chúa Giêsu thành
5 bài giảng, khiến chúng ta không thể không nghĩ tới Ngũ Thư (5 cuốn sách đầu
của Cựu Ước) được coi là Luật Giao Ước do Môsê ghi chép. Bài giảng đầu tiên là
bài giảng trên núi, trong đó Mt trình bày Chúa Giêsu như là “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta” để mở miệng dạy dỗ chúng ta: “Thấy đám đông dân chúng,
Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng…” (bản dịch CGKPV 1999
– đáng tiếc là lần tái bản năm 2008, nhóm “CGKPV” đã bỏ cách dịch này vốn theo
sát bản Hy Lạp, làm mất đi một khía cạnh quan trọng của sự tương phản với cảnh
trên núi Xinai như thấy sau đây).
Quang cảnh và cách Thiên Chúa nói trong sách Xuất Hành 19-20 thật là khác:
“Ông Môsê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng
dưới chân núi. Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà
xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… Ông Môsê nói và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm”
(Xh 19,17-18).
Kết quả là: “Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh
lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông
Môsê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên
Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19).
Lời truyền dạy của Chúa Giêsu là Luật của Giáo Ước Mới. Trong bài
giảng này Chúa Giêsu không bãi bỏ luật Môsê nhưng làm cho nó nên trọn
vẹn. Luật Giao Ước Mới được ghi trong lòng, trong tim nên phải tuân giữ
tận đáy lòng, phải thực hành với cả tấm lòng chứ không phải chỉ bề ngoài (x. Gr 31,33-34 và Ed 36,25-27).
Mỗi bài giảng đều kết thúc với một câu chuyển tiếp giống nhau:
“khi Đức Giêsu giảng
dạy những điều ấy xong, đám đông dân chúng sửng sốt” (7,26);
“khi Đức Giêsu ra
chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Người rời chỗ đó” (11,1);
“khi Đức Giêsu kể
các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó”
(13,53);
“khi Đức Giêsu giảng
dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Galilê”
(19,1);
“khi Đức Giêsu giảng
dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày
nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào
thập giá” (26,1).
Sau bài giảng trên núi, câu chuyển tiếp nêu phản ứng của dân chúng,
cấu trúc tương tự trong sách Xuất Hành, nhưng nội dung khác hẳn: “Khi
nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ
hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Môsê: “Xin chính ông nói với chúng
tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo
chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19). Còn
khi nghe Đức Giêsu thì “đám đông dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư
của họ” (Mt 7,28-29). Dân ở núi Xinai nghe sấm sét thì sợ, xin
Môsê nói, đừng để Thiên Chúa nói. Kinh sư giảng dạy Luật Môsê, chỉ lặp lại
những gì đã nghe chứ không dám nói điều gì mới. Chúa Giêsu giảng dạy như một
Đấng có uy quyền, hơn cả Môsê, vì Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để
“ngồi trên núi và mở miệng” rao truyền Luật Giao Ước Mới.
Sau bài giảng 2, 3, 4 câu chuyển tiếp nêu sự di chuyển trong không
gian: rời chỗ đó, đi khỏi nơi
đó, rời khỏi miền Galilê (bản
dịch ở đây sát với bản Hy Lạp).
Sau bài giảng thứ năm, câu chuyển tiếp có thêm một yếu tố: TẤT CẢ,
và không nêu di chuyển trong không gian, nhưng loan báo biến cố sắp xảy ra: “hai
ngày nữa là lễ Vượt Qua và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.”
Điều Chúa đã báo trước 3 lần, bây giờ sắp xảy ra: hai ngày nữa.
Câu chuyển tiếp này gợi lại lời ở cuối sách Đệ Nhị Luật: “khi
ông Môsê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể It-ra-en, thì ông bảo họ…”
(32,45).
Nhưng lời Chúa Giêsu bảo môn đệ “hai ngày nữa là lễ Vượt Qua và
Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá” lại gợi nhớ việc lập
Giao Ước trong Xh 24,1-8:
“Thiên Chúa phán với ông Môsê: “Hãy lên với Đức Chúa…
Ông Môse xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều
luật…
Ông Môsê chép lại mọi lời Đức Chúa…
Sáng hôm sau ông Môsê dạy sớm…Ông Môsê sai các thanh niên trong dân
It-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông
Môsê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn
thờ.
Ông lấy cuốn sách Giao Ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những
gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” Bấy giờ, ông Môsê lấy
máu rẩy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa
trên những lời này”.
Trình tự diễn biến sau đó đối chiếu sát đoạn sách Xuất Hành:
“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, các môn đệ đến thưa
với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ… Rồi
Người cầm lấy chén rượu… “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội…”
Trong sách Xuất Hành, theo lời Thiên Chúa truyền, ông Môsê lên với
Đức Chúa trên núi và “xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa”.
Trong Tin Mừng Mt 24,1-26,1 chúng ta gặp lại Chúa Giêsu trên núi,
lần này thì núi có tên: “Chúa Giêsu ngồi trên núi Ôliu, các môn đệ tới
gặp riêng Người và thưa: “Xin Thầy nói cho chúng con biết…”
Kết thúc: “khi Đức Giêsu giảng dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày
nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá”
Khi Chúa Giêsu đổ máu mình ra và chết trên thánh giá, chính là lúc
Chúa lập Giao ước bằng Máu của Chúa. Mặc dù trong bản văn Mt Chúa Giêsu chỉ nói Giao Ước, không
có chữ “Mới” như trong bản văn Lc, nhưng đây là Giao Ước bằng Máu của
Chúa chứ không phải bằng máu các con vật như ở núi Xinai, và máu này lại
đem ơn tha tội nữa, nên đương nhiên là Giao Ước Mới.
7/ Đến đây còn phải chú ý tới một điều trong thân sách Tin Mừng Mt,
đó là ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mặc dù trong
bài giảng về thân phận người được sai đi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu đã nói
đến điều kiện để theo Chúa, trong đó có sự bách hại và sự từ bỏ gia đình, Chúa
vẫn chưa nói đến thập giá. Chỉ sau khi thánh Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng
Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa mới bắt đầu nói đến viêc Chúa phải lên
Giêrusalem và bị giết chết và ngày thứ ba sống lại. Sau đó Chúa nói đến điều
kiện để theo Chúa là “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như
vậy cuộc Thương Khó là con đường Chúa phải đi qua mới nhận được quyền năng của
Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Sau khi Phục Sinh Chúa mới tuyên bố “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất… Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến
tận thế” (28,20).
Chết và phục sinh là cuộc tấn phong của Đức Kitô, là sự hiển linh
trọn vẹn của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
3. Chúa Giêsu tự ý đón nhận
cuộc Thương Khó.
Cuộc thương khó không phải là một bất ngờ với Chúa Giêsu, vì Chúa
đã báo trước ba lần, và khi kết thúc hoạt động rao giảng, Chúa báo rõ: “Còn
hai ngày nữa…” (26,1).
Phe lãnh đạo họp nhau âm mưu thủ tiêu Chúa Giêsu cho gọn lẹ, không
để dân chúng can thiệp. Trong khi ấy Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà một người từng
bị phong cùi và đón nhận chai dầu thơm quí giá do một người phụ nữ trút lên đầu
Chúa, coi như chuẩn bị mai táng Chúa.
Đavit được Sa-mu-en đổ nguyên một sừng dầu lên đầu để xức dầu cho
ông làm vua (I Sm 16,1-13). Chúa Giêsu cũng sắp nhận mọi quyền trên trời dưới
đất qua cái chết và phục sinh, nên Chúa chấp nhận được xức dầu.
Người ta nhân danh người nghèo để coi đó là phí phạm, thì Chúa nhận
mình là một người nghèo đặc biệt “không có mãi đâu”. Nghĩa tử là
nghĩa tận, chỉ có thể mai táng Chúa một lần thôi. Người nghèo thì người ta luôn
có bên cạnh. Cử chỉ của người phu nữ này đuợc gằn liền với Tin Mừng về cuộc khổ
nạn và phục sinh của Chúa: “Tin Mừng này được loan báo ở đâu trong thiên hạ,
thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô”. Trước khi Chúa
lập bí tích Thánh Thể để chúng ta làm mà nhớ tới Chúa thì Chúa đã bảo “kể
lại việc này mà nhớ tới cô”. Mt không cho chúng ta biết tên người phụ
nữ này, chúng ta chỉ nhớ đến “người phụ nữ đã đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu để
chuẩn bị mai táng”. Đứng trước cái chết của Chúa thì người ta chỉ có thể làm
một điều: yêu mến và biết ơn. Người phụ nữ không tên này là khung hình để trống
cho mỗi người ghép hình của mình vô.
Đối ngược với hình ảnh người phụ
nữ yêu mến và quảng đại, Mt tả Giuđa, một người trong nhóm Mười
Hai là những người thân tín nhất của Chúa, như một kẻ tham tiền đi bán Thầy.
Trong khi người ta âm mưu giết Chúa và một người trong nhóm 12 tiếp
tay cho họ, thì Chúa Giêsu sai môn đệ đi dọn ăn lễ Vượt Qua. Trong bữa ăn này
Chúa cho nhóm 12 biết là một người trong các ông sẽ nộp Chúa, rồi Chúa lập bí
tích Thánh Thể như bí tích của Giao Ước Mới. Người ta mưu giết Chúa nhưng Chúa
dùng bàn tay sát nhân của họ để hoàn thành sứ mạng của Chúa.
Chúa lại ra núi Ô-liu để chính thức đi vào cuộc khổ nạn từ chính
nơi Chúa đã báo: hai ngày nữa! Chúa cũng chấp nhận cả sự phũ phàng là đêm nay
đàn chiên của Chúa sẽ tan tác: nhóm 12 sẽ bỏ Chúa và Phêrô, người đã tuyên xưng
“Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” sẽ chối Chúa nhanh hơn gà gáy.
Chúa chấp nhận tất cả và Chúa báo cho họ biết là Chúa sẽ trỗi dậy và về Galilê
trước họ. Hẹn gặp lại ở Galilê, nơi Ngài và các môn đệ đã bắt đầu, để lại bắt
đầu.
Chúa đi vào cầu nguyện để thưa “VÂNG” với Chúa Cha. Một mình đối
diện với Chúa Cha thì Chúa Giêsu không dấu nỗi buồn rầu xao xuyến: “Tâm hồn
Thầy buồn đến chết được”. Nhóm 12 đã bỏ Chúa từ lúc này rồi. Ba người thân
tín nhất cũng bỏ Chúa một mình, không thức nổi với Chúa. Ba lần cầu nguyện,
Chúa chỉ làm một việc là nộp mình để thi hành ý muốn của Cha. Chúa đã chiến
thắng nỗi “buồn đến chết được” để ra đón cái chết: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa
kẻ nộp Thầy đã tới!”
Chúa Giêsu đã chiến thắng trong cầu, nguyện rồi nên giờ đây Chúa
hoàn toàn làm chủ tình hình: Chúa ra đón kẻ phản nộp và những kẻ đến bắt Chúa.
Chúa vạch cho Giuđa thấy ông ta đang làm gì, Chúa ra lệnh cho môn đệ không dùng
bạo lực, hãy để cho kế hoạch của Thiên Chúa thể hiện.
Chúa vạch trần sự ám muội của những kẻ đến bắt Chúa và cho thấy mọi
toan tình của họ không qua khỏi kế hoạch của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan
báo.
4. Phi pháp.
Luật Rôma cũng như luật Môsê đều không chấp nhận bắt người
ban đêm trừ khi là bắt quả tang trôm cướp. Vì thế Chúa Giêsu bảo bọn thủ lãnh
và sai nha đến bắt Chúa: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm
giáo gậy gộc đến bắt tôi…” Rồi Chúa cho biết đó là “để ứng nghiệm lời
chép trong sách các ngôn sứ.” Bài ca “người tôi tớ đau khổ” đã nói “Người
bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).
Không có luật pháp nào cho phép xét xử ban đêm, thế nhưng kinh sư
và kỳ mục đã tụ họp sẵn tại nhà thương tế Cai-pha chờ sai nha giải Chúa Giêsu
tới. Họ họp nhau không phải để xét xử, nhưng là “tìm lời chứng gian buộc tội
Đức Giêsu để lên án tử hình”. Hôm trước họ đã họp nhau “bàn tính
dùng mưu bắt Đức Giêsu” (26,4), bây giờ bắt được rồi thì phải tính bước
tiếp theo: “tìm lời chứng gian”. Họ thất bại thê thảm: “Nhưng
họ không tìm ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian”. Chúa Giêsu là Đấng Công Chính,
trong sáng đến nỗi tìm chứng gian cũng không nổi!
Đến lúc Thượng Tế Cai-pha chứng tỏ bản lãnh của ông: tìm chứng gian
không được thì ông phải dựa vào sự thật để kết án tử hình: “nhân danh Thiên
Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?” Chúa Giêsu vẫn thinh lặng khi người ta
tìm chứng gian. Bây giờ Thượng Tế đòi biết sự thật nhân danh Thiên Chúa hằng
sống. Sự thật ấy chính ông ta phát biểu, trùng với lời tuyên xưng của thánh
Phêrô lúc ở Galilê. Chúa Giêsu xác nhận lời ông nói và còn giải thích thêm bằng
lời trong sách Da-ni-en 7,13. Thượng Tế hùng hồn minh họa lời phán
xét bằng cử chỉ xé áo: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa?
Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng, quý vị nghĩ sao?”
“Họ liền đáp: nó đáng chết!” Thượng tế thành công một trăm
phần trăm! Họ hả hê đắc thắng. Chúa Giêsu tiếp tục im lặng, mặc cho họ đấm
đánh, khạc nhổ vào mặt và chế diễu. Người
tôi tớ bị ngược đãi của bài
ca thứ ba Is 50,4-9 đang ở trước mắt chúng ta: “Tôi đã
đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu. Tôi đã không che
mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”.
5. Phêrô khóc lóc thảm thiết.
Phêrô đã thề thốt quyết liệt: “Dầu có phải chết với Thầy,
con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (26,35).
Nhưng khi Chúa Giêsu đã tự nộp mình thì “bấy giờ tất cả các môn đệ bỏ Người
mà chạy trốn hết” (26,56).
Có một người tỏ ra lì hơn: “Ông Phêrô theo Người xa xa, đến tận
dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với đám thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao?”
Kết cuộc là thế này đây: đang khi trong đại sảnh, thượng tế dùng
đến thủ đoạn cuối cùng để yêu cầu Chúa Giêsu xác nhận điều ông Phêrô đã tuyên
xưng khi còn ở Galilê: “Lúc ấy ông Phêrô ngồi ngoài sân. Một người tớ gái
đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giêsu, người Galilê!”
Ông liền chối trước mặt mọi người: “Tôi không biết cô muốn nói gì!”
Chuyện lặp lại nguyên văn với một người tớ gái khác. Lần thứ ba thì
không phải một tớ gái mà là cả bọn đứng đó nhao nhao lên: “Đúng là bác cũng
thuộc nhóm họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay”. Bị bắt thóp,
hết đường chối, ông Phêrô cũng dùng biện pháp cuối cùng, đối xứng với thượng tế
ở trong kia: “Bấy giờ ông liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi
không biết người ấy”.
Nhưng có một lời mạnh hơn lời thề độc địa của ông: “Lúc đó gà
liền gáy. Ông sực nhớ lời
Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy đến ba lần”.
Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy đến ba lần”.
Tim ông tan chảy khi nhớ lại lời ấy: “Ông ra ngòai khóc lóc thảm
thiết”.
6. Giuđa không biết khóc.
Cuộc họp ban đêm kết thúc với lời hô hoán: “Nó đáng chết!”.
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng
trấn Rôma là Philatô. “Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong
dân bàn kế hại Đức Giêsu để giết được Người. Rồi họ trói Người lại và điệu đi
nộp cho tổng trân Philatô”.
Phêrô theo vào trong sân để xem kết cuộc ra sao. Kết cuộc là ông
chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, rồi nhờ tiếng gà gáy ông nhớ lại lời Chúa
Giêsu và “ra ngoài khóc lóc thảm thiết”.
Mt không cho
biết Giuđa ở đâu trong đêm ấy.
Đến khi “họ trói Chúa Giêsu lại và điệu đi nộp cho cho tổng trấn
Philatô” thì Mt cho chúng ta gặp lại Giuđa: “Bấy
giờ Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận”.
Làm sao bây giờ?
Giuđa không nhớ lại lời nào của Chúa, nhưng nhớ lại lời những kẻ đã
ngả giá với ông và quay lại gặp họ: “Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho
các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội”.
Thật phũ phàng. Họ đâu phải là bạn hữu của Giuđa. Tiền trao cháo
múc. Chúa Giêsu đà vào tay họ, tiền đã trao tay Giuđa: “Can gì đến chúng
tôi. Mặc kệ anh.”
Đất sụp dưới chân Giuđa. Không còn ai, không còn gì trên mặt đất
niú ông lại.
Giuđa bỗng thấy mình lơ lửng giữa trời và đất. Ông chọn ở lại trong
tư thế này.
Sợi giây vĩnh viễn không bao giờ cho tiếng khóc bật lên từ cổ họng
ông được nữa.
7. Philatô và máu người vô tội.
Các tổng trấn Rôma cai trị xứ Giuđa từ khi A-khê-la-ô con của
Hêrôđê Cả bị phát lưu (năm 6 sau CGS), chẳng có vị nào yêu thương cái dân bị
trị này. Họ chỉ đua nhau tàn ác và bóc lột. Philatô sau này cũng sẽ bị phát lưu
vì quá tàn bạo.
Hôm nay lãnh đạo dân Giuđa lại tỏ ra phục quyền, dẫn một người đến
xin ông Philatô xử. Philatô chỉ hỏi Chúa một câu: “Ông có phải là vua dân Do
Thái không?” Chúa cũng chỉ trả lời một lần. Câu trả lời của Chúa nghe bí ẩn
: “Chính ngài nói đó”.
Những kẻ tố cáo thì um sùm. Chúa Giêsu chỉ im lặng. “Tổng trấn
Philatô rất đỗi kinh ngạc”. “Thật vậy, ông thừa biết vì ghen tị mà họ
nộp Người.”
Bà vợ làm cho ông thêm lúng túng với lời nhắn: “Ông đừng nhúng
tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải
khổ nhiều vì ông ấy”.
Philatô phải đối diện với những kẻ đòi giết. Làm sao né vụ này đây.
Philatô đề nghị tráo con bài:
Tráo mạng Giêsu, người vô tội bằng mạng “một người tù khét tiếng
tên là Ba-ra-ba”. Philatô tính sai nước cờ. Ba-ra-ba là người của họ! Họ
xúi dân (đám đông có mặt đó) hô “Ba-ra-ba!”. Philatô ra mặt bênh người
vô tội: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Nhưng họ chỉ muốn giết,
không cần lý do gì cả: “Đóng đinh nó vào thập giá”.
“Ông Philatô thấy đã chẳng đươc ích gì mà còn thêm náo động, nên
lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói:”Ta vô can trong vụ đổ máu người
này. Mặc các ngươi liệu lấy”.
Các thượng tế và kinh sư cùng đám đông hùa theo họ hiểu rất rõ cử
chỉ của Philatô, và họ chấp nhận: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con
cháu chúng tôi.” Philatô
nhượng bộ hoàn toàn: “Bấy giờ ông thả Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giêsu thì ông
truyền đánh đòn, rồi trao nộp Người để Người chịu đóng đinh vào thập giá.”
Có những điều nghịch lý cần nghiền ngẫm ở đây.
Các thượng tế và kinh sư phủi tay với Giuđa: “Can gì đến chúng
tôi. Mặc kệ anh”
Philatô rửa tay trước mặt họ: “Ta vô can trong vụ đổ máu người
này. Mặc các ngươi liệu lấy”
Câu hỏi của ông chứng tỏ ông biết và nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội và
đám đông hiểu ông muốn nói gì. Khi định đoạt về số tiền Giuđa quăng trả lại,
các thượng tế và kinh sư biết đó là “giá máu”. Nhưng trong phút quyết liệt này
họ nhận trách nhiệm: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi”.
Họ không biết là máu Chúa Giêsu là “máu Giao ước đổ ra cho muôn
người được tha tội”.
Cái vô lý là tất cả: Giuđa, Philatô, các thượng tế và kinh sư, đều
nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội nhưng vẫn bắt Chúa phải chết.
Giuđa nhìn nhận: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội”
Philatô với “bàn tay sạch” trao Chúa Giêsu để chịu đánh đòn. [Đánh
đòn là để cho mau chết trên thập giá]. “Rồi ông trao nộp Chúa Giêsu để Người
chịu đóng đinh vào thập giá”.
Mt kể vắn tắt
như thể lính đánh đòn rồi điệu đi đóng đinh không qua trước mặt Philatô nữa,
nhưng câu tóm tắt vừa nêu lại cho thấy là hai hồi khác nhau và đều có sự chỉ
đạo của Philatô: “Ông truyền đánh đòn rồi trao nộp để Người chịu đóng đinh
vào thập giá.”
Lính của tổng trấn thực hiện việc đổ máu.
Đấng vô tội thì im lặng như con chiên bị đem đi làm thịt, “Người
chẳng hề mở miệng”
Lính đem Chúa Giêsu đi đánh đòn, chế diễu dựa trên câu hỏi đầu tiên
họ đã nghe từ miệng Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”
“Chế diễu chán… chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá”.
Thế là Giuđa nộp máu người vô tội, Philatô cũng nộp máu người
vô tội.
Các thượng tế và đám đông hứng máu người vô tội cho mình và cho con
cháu.
Mt 27,25 viết: “toàn
dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và
con cháu chúng tôi”. Trong lịch sử, người Kitô hữu thường hiểu rằng
dân Do Thái bị tan tác vì đã đổ máu Chúa Giêsu. Nhưng Sách Thánh không cho phép
giải thích như vậy, bởi vì Máu Chúa Giêsu là máu ban ơn tha tội như chính Chúa
tuyên bố khi lập bí tích Thánh Thể. Thư gởi tín hữu Hip-ri cũng nói: “Anh em
đã tới cùng vị trung gian Giao Ước Mới là Đức Giêsu và được Máu của Người rảy
xuống, máu đó kêu lên còn mạnh hơn cả máu A-ben” (Hr 12,24). Máu
A-ben kêu lên xin Thiên Chúa xét xử, còn máu Chúa Giêsu “mạnh hơn” vì đem lại
ơn tha tội và đưa vào Giao Ước mới.
“Ông Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo
động” (27,25)
Cái “ích” mà Philatô tìm là cái gì? Ông muốn tha Chúa Giêsu
hay muốn dân để cho ông yên? Nếu ông muốn tha “người công chính” vì “ông
thừa biết vì ghen tị mà họ nộp Người” thì đề nghị của ông là sai lầm lớn.
Nếu ông muốn bênh vực công lý thì ông chỉ có một đường là thi hành trách nhiệm
và chấp nhận hậu quả. Ông cứ việc tuyên bố tha Chúa Giêsu vì không có lý do gì để
buộc tội. Nhưng cái “ích” mà ông tìm là được yên thân! Khi quyết định “trao
nộp Người để chịu đóng đinh vào thập giá” thì ông cũng đi vào cái vòng di
chuyển của họ: “vì ghen tị mà họ nộp Người” cho ông và gào xin “đóng
đinh nó vào thập giá”, đến
lượt ông thì vì muốn yên thân “ông trao nộp Người để chịu đóng đinh vào thập
giá” như họ xin.
Tất cả những điều nghịch lý, những cái biết và không biết Mt gợi cho
người đọc trình thuật cuộc Thương Khó này tới đây đã cho thấy là những gì ngôn
sứ Isaia mô tả trong bài ca “người tôi tớ
đau khổ” (52,13 – 53,12) được thực hiện rất sát. Bài ca này làm rõ
nghĩa cái chết có vẻ vô nghĩa của Chúa Giêsu. Đến đây có thể tạm ngừng để
nghiền ngẫm bài ca củaIsaia một
lần trước khi đọc tiếp bài Thương Khó.
8. Chúa Giêsu trên thập giá.
“Lính điệu Chúa Giêsu đi
đóng đinh vào thập giá.Đang đi ra, chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là
Si-môn, chúng bắt ông vác thập giá của Người”.
Mt không nói
tại sao lại như vậy và chúng ta cũng đừng “chia trí” đi hỏi tại sao. Hãy nhìn
hình ảnh Si-môn vác thập giá và để cho những lời khác trong sách Tin Mừng vang
vọng trong tâm trí để hiểu Mtmuốn
truyền đạt điều gì.
Chúa Giêsu đã tuyên bố điều kiện để theo Chúa là vác thập giá.
Những người đã theo Chúa bấy lâu nay đều đã bỏ chạy. Si-môn Phêrô, người thề
thốt hùng hồn quyết liệt nhất thì đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy và bây giờ đang
ngồi đâu đó khóc lóc thảm thiết. Lính gặp một người trùng tên Simôn, chỉ có
điều ông là người Kyrênê, bên kia Địa Trung Hải… tình cờ đi ngang bị lính gặp
và bắt vác thập giá của Chúa.
Thập giá của Chúa?! Thật ra thì cả trình thuật đã cho thấy rõ là
Chúa vô tội, mọi người trong cuộc đều nhận ra là Chúa vô tội. Vậy thì thập giá
này là của ai? Của mỗi người chúng ta là kẻ có tội đấy. Chúa vác là để cho
chúng ta có thể vác mà đi đàng sau Chúa. Vác thập giá một mình và đi một mình
thì chẳng có nghĩa gì cả. Simôn vác thập giá là hình tượng người môn đệ đúng
nghĩa Mt khắc họa cho chúng ta đấy.
Chúng cho Người uống rượu pha mật đắng (Tv 69,22) đến đây Mt kể những chi tiết gợi nhớ các thánh
vịnh về người công chính bị bách hại: 69; 38; 22 và 18. Các thánh vịnh là lời
kinh quen thuộc của các tín hữu, nên chỉ cần nêu lên những từ ngữ quen thuộc
trong đó là người nghe liên kết được liền và thấy rõ Chúa Giêsu đang chịu số
phận của người công chính bị bách hai. Lời sách Thánh ứng nghiệm đến từng chi
tiêt.
Đóng đinh Người vào thập giá xong… Mt không nói đến hình dạng cây thập giá cũng không nói đến những
chi tiết khác, chúng ta cũng đừng “chia trí”, cư theo sát những gì được kể cho
chúng ta. Chúng đem áo Người
ra bắt thăm. Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người” (Tv 22,18-19).
“Người này là Giêsu, vua dân Do Thái”. Đó là bản án viết treo trên
thập giá phía trên đầu Người. Thế là Philatô chiếu tướng ngược! Philatô đã hỏi
Chúa Giêsu “Ông có phải là vua dân Do Thái không”; dĩ nhiên là ông nghe
qua những kẻ nộp Chúa Giêsu cho ông. Phe lãnh đạo và đám đông nhất định
đòi đóng đinh người vô tội, mặc dù Philatô nuốn tha. Bị áp lực phải đổ máu
người vô tội thì Philatô biến thành công trạng của mình, bằng cách viết bản án
như thế. Ông có thể báo cáo thành tích là đã đóng đinh được vua dân Do Thái,
mọi người đều có thể làm chứng cho ông! Chuyện sẽ đến tai Hoàng đế ở Rôma và
Philatô sẽ được ghi công.
Một bất ngờ nữa trước mắt chúng ta: “Cùng bị đóng đinh với
Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, mỗt tên bên trái”. Điều Chúa
Giêsu chất vấn những kẻ đến bắt Chúa thì bây giờ họ trả lời: họ đặt Chúa giữa
hai tên cướp, coi như Chúa là tướng cướp. Hợp như lời Kinh Thánh: “Người bị
liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).
“Kẻ qua người lại đều nhục mạ người”. Dậu đổ bìm leo. Những
cám dỗ của Xatan trong hoang địa bây giờ trở thành khúc khải hoàn với một giàn
hợp xướng nhiều bè: kẻ qua người lại, thượng tế và kinh sư, hai tên cùng bị
đóng đinh. Điệp khúc là một biến tấu của câu “Nếu hắn là Con Thiên Chúa”.
Nỗi đau xé lồng ngực Chúa Giêsu trên thập giá vì không chỉ Người, mà chính Chúa
Cha bị nhục mạ, thách đố.
“Âu cũng vì Ngài mà con bị người đời thóa mạ,
chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày…
Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời,
Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ không được một
ai,
đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu”
Thay vì đồ ăn chúng trao mật đắng, con khát nước lại cho uống giấm
chua”
(Tv 69,8.21-22) .
9. Thiên Chúa trả lời
“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín”
Lời mô tả này gợi cho chúng ta hình ảnh cuộc hiển linh của Thiên
Chúa để phán xét: “Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến
cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng” (Amốt 8,9) và
cũng là để cứu độ. Khi đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập, “Chúa giăng mây làm màn
che phủ họ” (Tv 105,39; x.Xh 14,19).
Khi Thiên Chúa xuống trên núi Xinai để ban truyền Luật Giao Ước thì
“Núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tói mây đen mù mịt. Đức Chúa phán
với anh em từ trong đám lửa, anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy hình
bóng nào, chỉ có tiếng thôi” (Đnl 4,11-12).
Cả ba khung cảnh này đều có thể giúp chúng ta hiểu về bóng tối giữa
trưa. Thiên Chúa đến phán xét và cứu Con của Người đồng thời xác lập Giao Uớc
bằng Máu của Chúa Giêsu. Thiên Chúa trả lời những kẻ thách đố: “Hắn cậy vào
Thiên Chúa thì bây giờ Thiên Chúa đến cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương
hắn! Vì hắn đã nói: Ta là con Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa đã nói với Chúa
Giêsu ở bờ sông Giođan và với các môn đệ ở trên núi. Thiên Chúa hiển
linh, lấy bóng tối che cho Con trong cuộc Vượt Qua này. Thánh vịnh 18 (17) diễn tả cảnh
người công chính tin tưởng vào Chúa và kêu cầu khi “sóng tử thần dồn dập chung
quanh…” thì:
“Chúa nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù, ngự trên thần
hộ giá, trên cánh gió lượn bay: Chúa
dùng bóng tối làm màn bao phủ, lấy mây đen nghịt làm trướng che thân…”(câu10-12)
Trong quang cảnh hiển linh ấy, Mt cho chúng ta nghe lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu quathánh vịnh 22(21), là
thánh vịnh diễn tả rất sát hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Lời cầu
nguyện cũng bị xuyên tạc để chế diễu. Có kẻ đưa giấm lên cho Chúa uống: ứng
nghiệmthánh vịnh 69,22. Thánh
vịnh 18 vừa kể trên : “Lúc ngặt nghèo
tôi kêu cầu chúa… Từ Thánh Điện Người đã nghe tiếng tôi cầu cứu” (câu 7).
“Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn rồi trút hơi” (dịch sát
bản Hy Lạp). Tiếng thét này gợi lên tiếng của Thiên Chúa phán xét và tiếng của
Con Thiên Chúa đã nát tan kiệt sức. Cha Con gặp nhau trong một tiếng thét
chung, làm nên nét bi hùng nhất:
Khi Thiên Chúa hiển linh để bênh vực Đấng Ngài đã xức dầu: “Nổi trận lôi đình Ngài quát
nạt”( Tv 2,5); “Chúa nổi sấm vang trời, Đấng Tối Cao lớn tiếng”( Tv 18,14).
Tv 38,9: “Bị suy nhược, nát tan kiệt sức, Tim thét gào thì miệng
phải rống lên”.
10. Khai mở một
kỷ nguyên mới
“Bỗng bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống
dưới.”. Bức màn
trướng trong Đền Thờ tức là bức màn ngăn nơi Cực Thánh, mỗi năm thượng tế qua
bức màn này vào phía trong nơi Cực Thánh một lần ngày lễ xá tội (Xh
26,31-34; 36,35-36 à Levi,16). Thư Hip-ri, chương 9
diễn tả ý nghĩa của cái chết hiến tế của Chúa Giêsu: Nơi Cực Thánh trong Đền
Thờ chỉ là hình bóng: “Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào thánh điện chưa
được mở bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó” (Hr 9,8). “Đức Kitô đi
qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn… Máu của Đức Kitô còn thanh tẩy lương
tâm chúng ta… để chúng tra phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Đó là máu của Đấng
đã tự hiến tế, làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí hằng hữu thúc
đẩy. Bởi vậy Người là trung gian của một Giao Ước Mới”(Hr 9,11-15).
“Đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an
nghỉ được trỗi dậy”. Khi Thiên
Chúa ngự xuống trên núi Xinai thì “cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,18).
Khi Thiên Chúa xuất hiện để bênh vực người công chính: “Trái đất bỗng ầm ầm
rung chuyển, chân núi đồi chấn động lung lay và Chúa nổi lôi đình” (Tv
18,8).
Bóng tối và động đất là dấu hiệu hiển linh của Thiên Chúa. Với cái
chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã hiển linh để khai mở một ỷ nguyên mới, trong
đó Thiên Chúa thật sự “ở với chúng ta”, không còn bức màn ngăn cách.
Cuộc hiển linh này là cuộc chiến thắng cả trong cõi chết: Chúa
Giêsu đi vào cõi chết, tiêu diệt cả quyền lực của cái chết vốn ngự trị từ khi
tội lỗi vào được thế giới loài người.
Mt sử dụng
một ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh rất hiện đại để gợi cho chúng ta cảnh Chúa
Giêsu đi vào cõi chết và chiến thắng.
Chúng ta hãy mường tượng một cuốn phim, trong đó vị anh hùng phải
tiêu diệt cho được một kẻ thù hung dữ vốn ẩn núp rất kỹ. Cuối cùng trên màn
hình chúng ta thấy vị anh hùng một mình một súng thận trọng từng bước tiến về
một ngôi nhà trong rừng sâu mà ta chỉ đoán được vì có một đốm lửa phía trước…
rồi ta bỗng nghe tiếng súng nổ, lửa chớp qua khung cửa sổ vừa bật tung… rồi im
lặng … vị anh hùng với họng súng còn bốc khói đứng giữa mấy cái xác chết, trong
một góc, mấy ngượi bị bắt làm con tin đang ngóc đầu lên, vừa mừng vừa sợ.
“Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những
người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là
Con Thiên Chúa”. Những
người ngoại đạo nhận ra ý nghĩa của các dấu hiệu. Mt 8, 5-13 đã kể chuyện một viên đại đội trưởng
đến xin Chúa chữa một tên đầy tớ của ông và được Chúa khen: “Tôi không thấy
một người nào trong dân It-ra-en có lòng tin như thế” và Chúa tuyên bố: “Từ
phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng Ap-ra-ham, I-xa-ac và
Gia-cop trong Nước Trời”. Lời ấy đã thành sự thật ngay lúc này. Họ đã nhận
ra sự hiển linh của Thiên Chúa. Họ là những người đầu tiên nhận ra vị anh hùng
đến giải cứu.
“Ở đó, có nhiều phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã đi theo
Đức Giêsu từ Galilê để phục vụ Người…” Nhìn hình ảnh này, chúng ta lại chợt hỏi, các bà đứng đây, tuy đứng
nhìn từ đàng xa, còn những người môn đệ thân tín thì đâu hết rồi! Mt cho chúng ta thấy nốt quang cảnh
người “tội nhân lâm cơn cùng khốn” mô tả trong thánh vịnh 38,12: “Con
bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa”.
Chúa Giêsu vô tội nhưng đã bị liệt vào hàng tội nhân và chịu tất cả thân phận
của một tội nhân, “nhưng thực ra Người đã mang lấy tội muôn người” (Is
53,12).
“Chiều đến, có một nguời giàu sang đến…”. Mt tiếp tục gợi cho chúng ta hình ảnh người
tôi tớ đau khổ, bị liệt vào hàng tội nhân, chết giữa các tội nhân nhưng lại có
phần mộ với người giàu có (Is 53,9). Ông Giô-xép người Arimathê, là
người giàu sang mà cũng là môn đệ Đức Giêsu, lần đầu tiên xuất hiện trong sách
Tin Mừng. Ông xin được xác Đức Giêsu, “lấy tấm vải gai sạch mà liệm và đặt
vào ngôi mộ mới ông đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông.”
Thế là thập giá của Chúa thì ông Simôn vác nhưng Chúa chịu đóng
đinh trên đó,
còn mộ của ông Giô-xép thì chính ông lai đặt xác Chúa Giêsu vào đó,
“lăn tảng đá lấp cửa mộ, rồi ra về. Thế
là trọn vẹn: người đã chết và chịu mai táng vì đã mang lấy tội lỗi của chúng
ta.
Một lần nữa Mt kéo chúng ta chú ý tới hai người
phụ nữ cùng mang tên Maria, hai bà ngồi lại đó, quay mặt vào mộ. Hình ảnh
chuyển tiếp sang cảnh tiếp theo.
Ta hãy tạm ghi nhận tên các nhân vật: Giô-xép và Maria. Mở đầu sách
tin Mừng, Mt đã kể trong gia phả: “ông Gia-cóp sinh ông Giuse, chồng
của bà Maria, do bà mà Đức Giêsu sinh ra, gọi là Kitô”. Trong phân đầu gia
phả có tên ông Giacop. Ông Giacop cũng có một người con tên là Giuse,
người đã bị bán sang Ai Cập, nhưng lại cứu được cả gia đình khỏi chết đói bằng
cách đưa cả gia đình sang ai Cập. Ông Giuse mới cũng có nhiệm vụ cứu “hài
nhi và mẹ người” khỏi tay Herođê bằng cách trốn sang Ai Cập.
Khi Chúa Giêsu chết thì laị có một ông Giuse cứu xác Chúa khỏi bị
quăng vào hố tập thể, mai táng đàng hoàng trong ngôi mộ của ông, có hai bà cùng
tên Maria ngồi quay vào mộ.
Trong truyện Môsê thì Môsê được đặt trong thúng, thả giữa đám sậy
trên sông Nin, có “ngườichị (tên
là Maria) đứng đàng xa để xem
cho biết cái gì sẽ xảy ra…” (Xh 2,1-5).
Cùng với hai bà ta hãy chờ xem cái gì sẽ xảy ra!
11. Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi một.
Giết được Chúa Giêsu rồi mà phe thượng tế và kinh sư vẫn chưa chịu ngồi
yên. Họ đến xin Philatô cho niêm phong và đặt lính canh mộ. Họ gọi Chúa Giêsu
là “tên bịp bợm” và họ cũng biết lời Chúa báo trước là “sau ba ngày
Ta sẽ trỗi dậy”, họ sợ môn đệ “đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là
hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ
hại hơn chuyện trước”.
Lối châm biếm của Mt thật là thú vị. Chúa bị bắt thì môn đệ
chạy trốn hết, còn ai mà đến lấy trộm xác! Có một ông môn đệ “chui” bỗng dưng
xuất hiện thì lại để đi xin xác mà chôn. Niêm phong và đặt lính canh để làm gì?
Để làm chứng là Chúa đã sống lại thật à?!
Hãy chờ xem ai là kẻ bịp
bợm, đâu là chuyện bịp bợm
truớc và đâu là chuyện bịp bợm cuối cùng?
12. Tin Mừng
chiến thắng
“Khi ngày thứ nhât trong tuần sắp bắt đầu”, ta lại thấy hai
bà trùng tên Maria hôm trước ngồi quay vào mộ bây giờ đi ra mộ.
“Bỗng đất rung chuyển dữ dội; thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến
lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo Người như ánh chớp, và y phục trắng
như tuyết”.
Đất lại rung chuyển dữ dội như khi Chúa Giêsu trút hơi. Lần này thì
không thấy đá vỡ, nhưng có sứ thần của Chúa từ trời xuống lăn tảng đá lấp cửa
mồ ra, rồi ngồi lên trên. Mt cho biết ngay nhân vật nay là sứ
thần của Chúa từ trời xuống, diện
mạo như ánh chớp, áo trắng như tuyết, so với lúc Chúa Giêsu hiển dung: “dung
nhan Người chói lọi như mặt trời vày phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”
thì thua xa. Vậy thì đúng là thiên sứ chứ không phải là chính Chúa Giêsu phục
sinh. Sau khi Chúa Giêsu chiến thắng Xa-tan trong hoang địa thì “có các
thiên sứ đến hầu hạ Người”, hôm
nay Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, vào trong vinh quang, thi thiên sứ đến
với diện mạo như ánh chớp để long trọng mở cửa mồ và ngồi lên
trên. Hình ảnh rõ ràng diễn tả sự chiến thắng, như trong đô vật, người chiến
thắng ngồi lên trên kẻ thua. Hình ảnh gợi lên thánh
vịnh 110,1: “Bên hữu Cha đây Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha
sẽ đặt làm bệ dưới chân con.”
Tình thế đảo ngược: “Thấy Người, lính canh sợ hãi run rẩy
và ra như chết” (dịch sát).
Còn các bà thì được thiên sứ cho biết là “phe ta” và cho biết cái
gì đã xảy ra trong ngôi mộ mà hôm trước các bà đã ngồi nhìn: “Phần các bà,
các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh. Người không
có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã
nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi
chết, và Người đi đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người.
Đấy, tôi xin nói cho các bà hay. ”
Thế là chuyện mà mấy ông thượng tế và Pharisêu lo sợ thì đã xảy ra,
nhưng không phải như họ tuởng tuợng: Người không còn trong mộ. Đất sợ rung
chuyển mạnh, lính sợ run lẩy bẩy, ra như chết; Thiên sứ từ trời xuống phục vụ:
mở cửa, tiếp khách, trả lời, mời các bà vô nơi Người đã nằm mà kiểm chứng,
truyền đạt mệnh lệnh. Mọi sự đúng như lời Chúa đã báo trước. Ngay trên đường ra
núi ô-liu, khi Chúa Giêsu báo trước việc các môn đệ tan tác thì Chúa đã bảo “sau
khi trỗi dậy Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.”
“Các bà vội vã rời khỏi mồ, vừa sợ hãi, vừa rất đỗi vui mừng,
chạy về báo tin cho các môn đệ Đức Giêsu”. Đi báo Tin mừng thì lòng đầy vui
mừng, phải vội vã chứ làm sao mà đi chậm được!
Nhưng Chúa Giêsu cũng nóng ruột không chờ được. Chúa đón gặp các
bà, cho các bà niềm vui được thấy, được ôm lấy chân Chúa và được nghe chính
Chúa truyền lại điều thiên sứ nói.
13. Chuyện
bịp bợm cuối cùng, hồi cuối.
Trong khi các bà rất đỗi vui mừng chạy đi báo tin, được Chúa đón
gặp, cho niềm vui trọn vẹn và xác nhận sứ mạng của các bà là đi báo tin cho các
môn đệ, thì bọn lính canh cũng hoàn hồn, lo lắng chạy về báo cáo cho những
người đã trao nhiệm vụ cho họ “biết mọi việc đã xảy ra”. Lại một phen
lúng túng hơn nữa. Họ họp, bàn và có giải pháp: tiền! lại tiền! Công quỹ thiếu
gì tiền! Người Việt nam thế kỷ 21 cũng nói: “Tiền nhà nước tiêu như nước”. Hôm
trước họ cho Giuđa ba chục đồng bạc để nộp Chúa cho họ, hôm nay “họ cho lính
một số bạc lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: “Ban đêm đang lúc chúng
tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Nếu sự việc này đến tai tổng
trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với ông ấy và lo cho các anh được vô sự”.
Thế là vừa có tiền vừa được nhà cầm quyền che chở!
Thực tế hai ngàn năm trước lại phản ánh đúng bài vè trào phúng của
người Việt Nam thế kỷ hai muơi mốt, khai triển câu châm ngôn “có tiền mua
tiên cũng được”:
“Ôi đồng tiền, là tiên là phật, là sức bật của con người, là
tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là
cái lọng để che thân, là cán cân của công lý. Ôi đồng tiền: hết ý”.
“Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được
phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay”.
Chỉ cần có một giọt trí khôn cũng đủ để biết thắc mắc: “Sao bọn
lính có nhiệm vụ canh gác mà lại ngủ? Ngủ thì làm sao biết là môn đệ đến lấy
trộm xác? Sao lính không hoàn thành nhiệm vụ mà không bị phạt? Sau này trong
sách Công Vụ (ch.12,1-19), một toán lính 16 người canh ngục giữ ông Phêrô. Ban
đêm thiên thần vào ngục giải cứu ông Phêrô. Đến sáng cửa ngục vẫn đóng, lính
vẫn gác nghiêm chỉnh chứ không ngủ, nhưng không thấy ông Phêrô đâu! Cả 16 người
đã bị vua Agrippa truyền xử tử.
Nhưng chuyện cho tiền bọn lính để ra quán rượu tung tin, cũng làm
trọn thêm lời thánh vịnh:
“Bọn ngồi lê đôi mách cứ gièm pha,
Quân rượu chè cũng đặt vè châm chọc” (Tv 69,13)
Thế là bằng một lối châm biếm thâm thúy, Mt vạch cho thấy ai là kẻ bịp bợm, đâu là
sự bịp bợm cuối cùng. thượng tế và kỳ mục là giới lãnh đạo, có nhiệm vụ dạy dỗ
dân, đã thành thầy dậy sự dối trá.
14. Gia
phả tiếp tục với những người rao giảng sự thật.
Mt tiếp tục
kể chuyện mười một môn đệ sau khi nhận được tin nhắn của Chúa Giêsu: “Về
Galilê gặp lại”. Tin nhắn vắn gọn được tiết lộ cho chúng ta không nói rõ
điểm hẹn. Nhưng các môn đệ biết điểm hẹn: “các ông đến ngọn núi Đức
Giêsu đã truyền”.
Trong truyện tổ phụ Ap-ra-ham, Thiên Chúa truyền cho ông: “Hãy
đem con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ac, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng
nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,3).
Trong cuộc tế lễ này Thiên Chúa đã liệu một con cừu để thế cho I-xa-ac, rồi
Thiên Chúa phán với ông Ap-ra-ham: “Ta lấy chính Danh Ta mà thề: bởi vì
ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nênTa sẽ
thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như
sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…” (22,16-17).
Hôm nay Con thiên Chúa, sau khi dâng mình làm hy lễ, chỉ thị cho
các môn đệ về xứ Galilê, đến ngọn núi Chúa đã truyền. Hai ngọn núi này liên hệ
gì với nhau? Cả hai đều không có tên, nhưng trước là ngọn núi Thiên Chúa truyền
cho Ap-ra-ham, sau là ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ.
Tới nơi các ông gặp thấy Chúa đang chờ, “các ông bái lạy, nhưng
có mấy ông lại hoài nghi”. Chúa cũng chẳng cần sửa dạy thêm, nhưng: “Chúa
đến gần, nói với các ông”. Hôm Chúa lên núi để giảng (núi ấy cũng không có
tên!) thì “Chúa ngồi xuống, các môn đệ tới gần, Chúa mở miệng dạy”, hôm
nay thì “các ông bái lạy, Chúa đến gần, nói với các ông”.
Hôm nay Chúa không dạy các ông nữa mà truyền cho các ông đi dạy.
Hồi sai các ông đi thực tập, Chúa bảo “không được đến với dân ngoại”, nhưng
hôm nay vì Chúa đã được (Chúa Cha) trao mọi quyền trên trời dưới đất, nên Chúa
sai các ông đi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ… và
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.
Còn Chúa làm gì? “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến
tận thế.”
Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa đã nhận mọi quyền
trên trời duới đất và ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bọn lính được
sai đi tung tin dối trá thì có tiền và có nhà cầm quyền bảo trợ. “Lính đã
nhận số bạc và làm theo lời họ dạy”. Các môn đệ đuợc sai đi làm cho muôn
dân trở thành môn đệ và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền thì không có
tiền, không được nhà cầm quyền bảo trợ, nhưng có “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”,
Đấng đã nhận mọi quyền trên trời dưới đất trực tiếp ở với họ mọi ngày cho đến
tận thế.
Hai ngọn núi.
Trên ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham đem con lên tế lễ, Thiên Chúa hứa ban cho ông dòng dõi đông đúc và
nhờ dòng dõi ông muôn dân sẽ được chúc phúc (22,16-18)
Trên ngọn núi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lời Thiên Chúa hứa cho
Ap-ra-ham được thực hiện. Chúa Giêsu vừa là dòng dõi Ap-ra-ham vừa là Con Thiên
Chúa, đã đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần và là Thiên Chúa ở cùng chúng ta,
đứng trên núi này để sai nhóm Mười Một đi làm cho muôn dân thành môn đệ, bằng
cách làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Người đã truyền cho các ông.
Thế là gia phả từ Ap-ra-ham tới Chúa Giêsu không ngừng lại nhưng
tiếp tục và mở rộng đến mọi dân tộc nhờ quyền năng Thánh Thần, mọi dân tộc
thành dòng dõi Ap-ra-ham nhờ phép rửa và giáo huấn của Chúa Giêsu.
Hai người phụ nữ cùng mang tên Maria.
Từ chương thứ hai, Mt đã gợi cho chúng ta đối chiếu với
chuyện Môsê và dân It-ra-en bên Ai-cập trong sách Xuất Hành.
Pharaô ra lệnh cho hai bà đỡ phải trông chừng khi đỡ cho các bà mẹ
Hip-ri, thấy con trai thì giết, thấy con gái thì cho sống. Hai bà kính sợ Chúa
nên không làm theo lệnh vua. Vua hỏi thì cac bà nói là các bà mẹ Hip-ri khỏe
lắm, bà đỡ chưa tới kịp thì họ đã sanh rồi. Hai bà trùng tên Maria, đi ra mộ,
tới nơi thì mộ đã mở toang rồi và thiên sứ đón ở cửa báo tin: Người không còn ở
đây vì Người đã trỗi dạy rồi. Cửa mồ đã mở, sự sống mới đã ra khỏi mồ rồi.
Khi Môsê bị bỏ trong đám sậy ở sông Nin, thì người chị tên là
Maria đứng xa xa trông chừng xem chuyện gì sẽ xảy ra. Hai bà cùng tên Maria đã
đứng xa xa nhìn xem khi Chúa Giêsu bị thả trong dòng nước của đau khổ và cái
chết, rồi hai bà ngồi nhìn vào mộ. Khi thấy công chúa đã vớt em lên thì Maria
chạy lại hỏi: bà có muốn con tìm cho bà một người mẹ để nuôi em bé này không.
Công chúa đồng ý. Maria chạy về gọi mẹ ra… Hai bà Maria đi ra mộ để xem lại (Mt
không nói là hai bà đem thuốc thơm để ưóp xác), được tin Chúa đã trỗi dậy, vội
vã chạy về báo tin cho môn đệ.
Nghệ thuật kể chuyện của Mt ở phần này đạt tới đỉnh cao: không lý
giải, nhưng gợi những hình ảnh để cho chúng ta chiêm ngắm và nghiền ngẫm mà cảm
nếm ý nghĩa của những điều xảy ra, từ lúc Chúa đi vào cuộc Thương Khó cho đến
lúc Chúa gặp lại các môn đệ trên núi, vì ngôn ngữ loài nguời không thể diễn tả
hết được.
Giêrusalem, Mùa Chay 2014
Linh Mục
Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét