12/10/2014
Chúa Nhật 28 Quanh
Năm Năm A
(phần II)
GLPÂ CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM A
CHÚA NHẬT
XXVIII QUANH NĂM, NĂM A
Sách Ngôn Sứ Isaia 25.6-10;
Thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê
4,12-14.19-20
và Phúc Âm Thánh Matthêô 22.1-14
I. Giáo Huấn P.Â.:
Nước Trời được ví như một bữa tiệc hoàng
gia:Phòng tiệc rộng và đẹp.
Thức ăn ngon miệng và dư thừa. Chủ tiệc tận tình
mời khách.
Nhiều khách mời có tên trong danh sách từ chối
thẳng thừng vì nhiều lý do cá nhân. Họ là những người không biết giá trị tuyệt
đỉnh của nước trời và lời mời của Chúa.
Sự từ chối của những khách mời mở rộng lời mời
đến tất cả mọi người. Nước Trời hay bàn tiệc thiên quốc được dành cho tất cả
mọi người, bất kể sang hèn.
II. Vấn
nạn P.Â.
Liên
quan giữa dụ ngôn vườn nho trong những Chúa Nhật trước và dụ ngôn tiệc cưới
hoàng gia trong Chúa Nhật XXVIII quanh năm hôm nay.
Dụ ngôn hay ngụ ngôn là những câu chuyện giả
tưởng được xử dụng với ngụ ý hay dụng ý nhằm truyền đạt một giáo huấn hay một
bài học dạy đời. Đây là hình thức văn chương thông dụng ngày xưa. Trong
kho tàng văn học thế giời, chúng ta thấy có ngụ ngôn Lã phụng Tiên (Lafontaine)
vào thế kỷ thứ 17. Kho tàng văn chương Việt Nam cũng có nhiều dụ ngôn hay ngụ
ngôn như chuyện Lưu Bình Dương Lễ để dạy về tình bạn hay chuyện Cô Tấm Cô Cám
để dạy về luân lý sống hiền lành.
Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giảng dạy. Người
ta đếm được khoảng 30 dụ ngôn trong các Phúc Âm. Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII quanh
năm hôm nay cho chúng ta dụ ngôn tiệc
cưới hoàng gia. Đây là những chương Phúc Âm Matthêô nối tiếp nhau với những dụ ngôn có ý
nghĩa liên đới: Chúa Nhật 25 Quanh Năm, Phúc Âm Matthêô 20,1-16, dụ ngôn chủ
vườn nho từ sáng sớm ra đi mướn thợ làm vườn nho mình. Có người được mướn từ
sáng sớm và phải làm việc lâu giờ và chịu nắng nôi vất vả. Có người
chỉ được mướn vào cuối ngày, chỉ làm việc có một giờ. Sau cùng tất cả đều được
lãnh phần tiển công như nhau. Nước thiên đàng hay phần rỗi linh hồn của mỗi
người là phần thưởng sau cùng của đời sống. Dù giữ đạo từ nhỏ hay lúc tuổi già…
Tất cả đều có nước thiên đàng như nhau.
Biệt Phái và Luật Sĩ luôn tự hào vì chuyện mình
được nên công chính vì lề luật hay vì con cháu Abram. Họ quên rằng Thiên Chúa
là chủ vườn nho. Thiên Chúa ban phần thưởng cho con cái mình giống nhau. Những
ai đã giữ đạo lâu đời, xin hãy cám ơn chúa, vì mình đã có hướng đi ngay từ còn
bé. Những ai giữ đạo lâu đời, hãy thương đến những anh chị em khác, không ai
mướn hay không nhận được hướng dẫn cần thiết để nhận biết Chúa. Họ trông ngóng
cả ngày, cuộc đời vô định.
Dụ ngôn hai người con trong Matthêô 21.28-32 nhằm ám chỉ Biệt Phái và lãnh đạo
Do Thái. Họ tự nhận mình là những đứa con chí hiếu luôn làm những gì Chúa dạy.
Kỳ thực, họ không đi làm vườn nho cho chúa hay đúng hơn: họ giả bộ làm vườn nho
mà thôi. Dụ ngôn những tá điền bất trung, được tường thuật trong
Matthêô 21,33-46 nhằm nói đến những Luật Sĩ và Biệt Phái trong Do Thái
Giáo. Họ là dân Chúa chọn. Họ được sống trong vườn nho Chúa. Họ được chăm sóc
chu đáo mọi mặt. Nhưng họ đã phản bội tình thương Chúa. Họ không sinh hoa kết
trái trong đời sống mình mà còn phá hoại vườn nho và giết chết những sứ giả của
Chúa.
Hôm nay đây, Chúa Nhật XXVIII quanh năm, Phúc Âm Thánh Matthêô với dụ ngôn tiệc
cưới hoàng gia. Những khách được mời có trong danh sách đều viện dẫn lý do để
không đến dự tiệc. Sau cùng, mọi người đều được mời, được gom vào cho đầy phòng
tiệc. Rõ ràng, Dân Do Thái, Dân Thiên Chúa đã từ chối lời mời nhập tiệc. Nói
khác đi, họ có những lề luật, những lối sống riêng mà họ nghĩ là tốt hơn tiệc
cưới hoàng gia. Sau cùng tất cả mọi dân nước trên thế giời đã làm đầy
phòng tiệc nước trời.
Những
trưng dẫn trên, thoạt đầu chúng ta thấy đây là khuyến cáo hay chỉ trích của
Chúa dành cho giới lãnh đạo Do Thái. Điều nầy không sai, tuy nhiên các dụ ngôn
và các lời khuyến cáo cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời và cho chúng ta.
Thật vậy, nhiều người công giáo giữ đạo lâu đời, nghĩ mình có công hơn
những người khác hay lấy cái lý lịch công giáo gốc của mình để phê phán hay chỉ
trích người khác. Nhiều người công giáo giữ đạo lâu năm, bề ngoài như những đứa
con ngoan của Chúa. Kỳ thực, họ không đi làm vườn nho nước chúa mà chỉ làm
những gì có lợi cho riêng mình. Có nhiều người công giáo giữ đạo lâu năm, được
sống trong Giáo Hội và được chăm sóc chu đáo, nhưng đã không mang lợi cho Chúa.
Họ quên bổn phận làm con cái Chúa và phải làm cho nhiều ngưởi nhận biết Chúa.
Dụ
Ngôn Tiệc Cưới Hoàng Gia
Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia được tường thuật
trong Phúc Âm Thánh Matthêô và Thánh Luca.
Đọc giả của Phúc Âm Matthêô là những người chính
gốc Do Thái. Họ thấm nhuần Kinh Thánh Cựu Ước. Họ là dân chúa, được Chúa chọn
và trao phó sản nghiệp nước trời. Tuy nhiên họ đã là những đứa con xem chừng
ngoan ngoãn nghe lời Chúa, nhưng lại không thực hành Lời Chúa. Chúng ta sẽ thấy
cùng một dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia nầy, nhưng Phúc Âm Matthêô dài hơn và
nhiều tình tiết hơn, đặc biệt phần cho tống vào nơi khóc lóc nghiến răng khách
dự tiệc mà không mặc áo cưới.
Đọc giả của Phúc Âm Luca là dân ngoại mới tòng
giáo, tức những người không là “đạo gốc”. Họ là dân ngoại được cảm hóa và gia
nhập Kitô giáo. Nên Phúc Âm Thánh Luca trong dụ ngôn nầy không có phần cuối tức
phần không mặc áo cưới và bị tống vào nơi khóc lóc và nghiền răng. Rất dễ hiểu:
Dân ngoại đi tìm lòng thương xót Chúa. Chúa đã mời gọi họ vào cho đầy phòng
tiệc. Điều đó là đủ để diễn tả dụ ngôn nước trời như tiệc cưới hoàng gia, không
cần thêm chi tiếc về nghi thức phải mặc áo cưới và trừng phạt.
Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được
mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết
vào tiệc cưới.
Thực tế trong dụ ngôn, những khách đã được mời
coi thường tiệc cưới, có người viện dẫn lý do từ chối, có người hung bạo đánh
giết người đi mời. Như vậy việc khinh thường lời mời của nhà vua đã làm cho
những khách nầy trở nên không xứng đáng, tức họ tự loại mình ra khỏi danh sách
khách danh dự được mời. Nước trời như tiệc cưới hoàng gia, đã dành chỗ cho dân
Chúa chọn. Tuy nhiên, người ta đã từ chối. Sự từ chối làm cho khách mời trở nên
không xứng đáng. Nước Trời luôn có chỗ cho mọi người. Ơn cứu độ có tính cách
phổ quát, tức dành cho muôn người. Ai cũng xứng đáng cả nếu chấp nhận lời
mời gọi. Mình chỉ không xứng đáng hay không có chỗ khi chính mình từ chối lời
mời hay khinh thường ơn cứu độ.
Đạo Chúa là đạo công giáo, đạo dành cho hết mọi
người. Ai cũng được kêu mời vào đạo. Nên đạo công giáo không khước từ con
người, chỉ có con người mới khước từ đạo mà thôi. Nên khi tôi không được cứu
độ, phần trách nhiệm về phía tôi, chứ không về phía Chúa hay giáo hội. Vì “các
ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”
III.
Thực hành P.Â.:
Khách mời và người đi mời khách
Nếu chúng ta là những người đạo Công Giáo. Chúng ta
đã được mời dự tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta đã được mời bằng việc sinh ra
trong gia đình có Cha Mẹ Công Giáo. Chúng ta được mời bằng cách lớn lên trong
một hoàn cảnh thuận lợi cho đức tin, như trong xóm đạo công giáo. Chúng ta được
mời bằng việc được giáo dục trong nền giáo dục công giáo…Những sinh hoạt công
giáo thuần túy nầy nhiều khi làm chúng ta quên rằng mình là khách mời. Nhiều
khi làm cho chúng ta có cảm tưởng mình là chủ bữa tiệc hay đạo Công Giáo là đạo
của riêng mình. Yếu tố “toàn tòng” nầy làm cho mình khinh thường hay lấy làm lạ
khi nhìn thấy người khách không có đạo. Có nhiều khi những ông bà “làm chủ đạo”
nầy nặng lời với những anh chị em lương dân là “quân vô đạo!” Không! Chúa
là người khoản đãi tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta chỉ là khách được mời, chứ
không là chủ tiệc. Đừng chiếm lấy vai trò làm chủ nước trời. Tốt hơn chúng ta
hãy biến mình thành người đi mời khách vào cho đầy bàn tiệc nước trời.
Thường vào cuối tuần, ở trước các nhà hàng và bên
vệ đường có nhiều người qua lại, có những người đứng mời khách. Họ thường ăn
mặc bắt mắt người qua lại thí dụ có chiếc mũi to, hay chiếc nón to và cao. Có
khi họ đeo một tấm bảng trước ngực để làm mọi người chú ý. Họ thường có thái độ
lịch sự và tạo cảm tình với mọi người. Có nhiều khi người ta chưa đói hay chưa
muốn ăn, nhưng thấy người mời khách dễ thương, người ta lại vào nhà hàng. Có
nhiều khi cha mẹ không quan tâm, nhưng các con lại thích kiểu mời mọc nầy, nên
lại muốn cha mẹ ghé vào nhà hàng ăn.
Hãy làm một khách mời dễ gây cảm tình và chú ý
cho người ở các ngã đường. Đạo Công Giáo phần nhiều bị thất bại trong cách mời
khách vào đạo. Thường người công giáo bảo: Đó là việc của Chúa, nếu Chúa chưa
gọi thì mình không làm gì được. Cũng có những người trình bày một gương mặt hay
một thái độ kẻ cả không gây được cảm tình với người khác. Tệ nhất là có những
người đã vào đạo, nhưng vì lối hống hách của cha cố hay chủ cả của những kẻ cho
mình là đạo gốc nầy mà họ xa rời phòng tiệc nước trời.
Mình đã được mời vào bàn tiệc nườc trời. Xin hãy
là một người mời khách thật “ăn khách” bằng lời lẽ nhẹ nhàng, thoải mái và chân
thành, bằng những việc làm bác ái vô vụ lợi, bằng những thái độ khiêm nhường
gần gũi và nhất là bằng đời sống đạo đức chân thật.
Lm
Phêrô trần Thế Tuyên
Tiệc cưới đã sẵn sàng
Suy Niệm
Dụ ngôn hôm nay nói về một
tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và
tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà
vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách
từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân
trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật
không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến
nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự
tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các
đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở
thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh
nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng
tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời
tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết
định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường,
gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ
vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được
kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi
thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của
những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục
lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi
anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người
khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì
để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là
điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta
dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị
đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện
của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do-thái,
những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng
tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa
phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có
người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người
được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần
lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một
cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời
sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các kitô hữu chúng ta đã
được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và
được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta
nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ
cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được
chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi
chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời
mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ
được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội
Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia
rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt
lúa.
Xin đừng để khó khăn làm
chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng
con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên
men
được vùi sâu trong khối bột
loài người
để bột được dậy lên và trở
nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây
to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ
nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi
dân nước,
nơi mọi người được hưởng
niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh
tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng
trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở
trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời
ở gần bên. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Lectio Divina: Chúa
Nhật XXVIII Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 12 Tháng 10, 2014
Lời mời rộng rãi đến bàn tiệc Nước Trời
Đón nhận ơn cứu rỗi với sự chuẩn bị xứng đáng
Mt 22:1-14
Đón nhận ơn cứu rỗi với sự chuẩn bị xứng đáng
Mt 22:1-14
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Thánh Thần của chân lý, được Chúa Giêsu sai đến để
hướng dẫn chúng con tìm đến sự toàn chân, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con để
chúng con có thể hiểu được lời Kinh Thánh. Ngài là Đấng đã rợp bóng
trên Đức Maria và khiến bà thành mảnh đất màu mỡ nơi Lời của Chúa có thể nẩy
mầm, xin hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi trở ngại hướng đến Lời
Chúa. Xin giúp chúng con học hỏi theo gương Đức Maria xưa kia với
trái tim trinh khiết và tốt lành để lắng nghe Lời Chúa nói với chúng con trong
cuộc sống và trong Kinh Thánh, để chúng con có thể tuân giữ Lời Chúa và sinh
sản được hoa trái tốt tươi qua sự kiên trì của chúng con.
2. Bài Đọc
a) Bối
cảnh:
Ý nghĩa của bài dụ ngôn
khá rõ ràng khi chúng ta đọc trong bối cảnh của nó. Nó đi kèm ngay
sau một dụ ngôn khác về Nước Trời (21:33-43) và là một phần của cuộc tranh luận
giữa Chúa Giêsu và các thượng tế và người Biệt Phái về sứ vụ và quyền hạn của
Người (xem 21:23-46).
Trong dụ ngôn trước,
dụ ngôn về vườn nho, Chúa Giêsu tóm tắt lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa đã
bao phủ dân Israel với sự chăm sóc đặc biệt và hy vọng rằng với sự chăm nom như
thế sẽ nảy sinh hoa trái dưới hình thức một đời sống trung thành và công bằng. Đôi
lúc, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở dân chúng về kết quả mà Thiên
Chúa đã mong đợi, nhưng sứ vụ của họ luôn gặp phải sự chống đối của dân
Israel. Cuối cùng, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người, nhưng
họ đã giết Người Con ấy. Tại thời điểm này, Chúa Giêsu nói rằng bởi
vì dân Israel tiếp tục chối bỏ Nước Trời, cho nên Vương Quốc Nước Trời sẽ được
trao lại cho một dân tộc khác, đó là, dân ngoại (21:43). Lời công bố
này cho chúng ta chìa khóa dẫn đến bài đọc dụ ngôn của chúng ta, thực ra nó lặp
lại sứ điệp của bài dụ ngôn trước nhưng dùng một hình ảnh khác và với các sắc
thái khác nhau.
Chúng ta phải khẳng
định rõ ràng rằng cả hai dụ ngôn không thể có cách chi biện minh cho ý tưởng
rằng Thiên Chúa đã phế bỏ dân tộc Israel để dành đặc ân cho Giáo
Hội. Chỉ cần đọc Thư gửi tín hữu Rôma các chương 9-11 để được thuyết
phục ngược lại. Chúa Giêsu nói những lời nghiêm khắc, những điều
tiên tri, để kêu gọi dân của Người ăn năn hối cải và để họ
chấp nhận Người. Ngoài ra, các dân ngoại, những người mới được mời,
cũng có nguy cơ bị ném ra ngoài nếu họ không mặc y phục lễ
cưới.
b) Phúc
Âm:
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão
trong dân những dụ ngôn này rằng: ‘Nước Trời giống như vua kia làm
tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi những người đã được mời dự
tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà
rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này Ta đã dọn
tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn
sàng. Xin mời các ông đến dự tiệc cưới.” Nhưng những
người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người
thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết
đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru
diệt bọn sát nhân đó, và thiêu hủy thành phố của chúng. Bấy giờ vua
nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ
được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất
cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới.” Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp
ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự
tiệc. Đoạn vua đi vào quan sát những người khách dự tiệc, và thấy ở
đó có một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy
rằng: ‘Này bạn, sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ
cưới?’ Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các
đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ
phải khóc lóc nghiến răng!” Vì những kẻ gọi thì nhiều, còn những kẻ
được chọn thì ít.’
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Các khách
mời từ chối lời mời dự tiệc đại diện cho những ai?
b) Các khách
mời được tìm thấy trên các ngả đường đại diện cho những
ai?
c) Người
khách mà không mặc y phục lễ cưới đại diện cho những ai?
d) Trong đời
sống của tôi, có “những việc cấp bách” nào đã ngăn trở tôi nhận lời mời của
Thiên Chúa không?
e) Y phục lễ
cưới mà Thiên Chúa muốn tôi mặc để tham dự vào tiệc cưới của Vương Quốc Nước
Trời là gì?
5. Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
· Bàn tiệc Nước Trời
Các ngôn sứ thường công bố những lợi ích của ơn cứu rỗi và cách
đặc biệt cho những người vào thời kỳ cánh chung thông qua hình ảnh của bữa
tiệc. Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này (Is 25:6-10a) là một
ví dụ. Giống như Đức Giêsu, ngôn sứ Isaia cũng nói về một bữa tiệc
được chuẩn bị bởi Thiên Chúa cho mọi dân tộc. Tuy nhiên, dân tộc
Israel và đặc biệt là thành phố Giêrusalem vẫn là tâm điểm của kế hoạch Thiên
Chúa như là trung gian của ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi
người. Tuy nhiên trong phần Tân Ước, mặc dù có một sự thừa nhận rằng
“ơn cứu độ đến từ dân Do Thái” (Ga 4:22), Đấng trung gian duy nhất của ơn cứu
rỗi là Chúa Giêsu, Đấng tiếp tục thực hiện sự hòa giải của mình thông qua cộng
đoàn các môn đệ của Người, đó là Giáo Hội.
· Y phục lễ cưới
Thật là một sự xúc phạm đến người đã đạt lời mời đến dự bữa đại
tiệc mà người dự tiệc lại mặc quần áo làm việc thường ngày. Đó là
dấu hiệu của việc coi thường cơ hội mà người ấy được mời tham
dự. Hình ảnh này, được dùng trong dụ ngôn về Nước Trời, muốn truyền
đạt ý tưởng rằng người ta không thể bước vào Nước Trời mà không có sự chuẩn bị,
và việc chuẩn bị duy nhất là thay đổi. Trong thực tế, việc thay đổi
y phục trong Kinh Thánh có nghĩa là thay đổi lối sống hoặc được cải đổi (xem ví
dụ ở Rm 13:14; Gal 3:27; Êph 4:20-24).
· “Những kẻ được gọi thì nhiều mà những người
được chọn thì ít”
Câu nói này là một cách nói của người Do Thái. Trong
trường hợp không có sự so sánh, Kinh Thánh Do Thái dùng câu diễn tả được dựa
trên sự đối chọi mạnh mẽ. Vì thế, câu diễn tả này không nói gì về mối quan
hệ tỉ số giữa những kẻ được gọi gia nhập Hội Thánh và những người được chọn vào
sự sống đời đời. Tuy nhiên, nó cũng đúng là dụ ngôn làm cho sự phân
biệt giữa lời mời gọi của ơn cứu độ với sự chọn lựa và lòng kiên trì cuối
cùng. Lòng quảng đại của người cai vị quân vương thật là to lớn, nhưng
chúng ta phải nghiêm túc về những yêu cầu của Nước Trời. Câu nói này
là lời kêu gọi cấp bách rằng nếu chỉ là tư cách hội viên chính thức dân riêng
của Thiên Chúa thôi thì chưa đủ đâu. Chúng ta không thể xem ơn cứu
rỗi là điều tất nhiên. Ở đây Chúa Giêsu theo sát cách chặt chẽ lời
giảng dạy của các ngôn sứ. Xem lại sách Gr 7:1-15 và Ov
6:1-6.
6. Thánh Vịnh
47
Thiên Chúa là vua dân
Israel và khắp địa cầu
Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì ĐỨC CHÚA là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì ĐỨC CHÚA là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.
Chính Người bắt muôn dân muôn nước
phải phục quyền và quỵ luỵ chúng tôi.
Người chọn lựa cho chúng tôi phần cơ nghiệp,
cơ nghiệp làm cho kẻ Người thương là Gia-cóp
được nở mặt nở mày.
Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
CHÚA ngự lên, vang dội tiếng tù và.
phải phục quyền và quỵ luỵ chúng tôi.
Người chọn lựa cho chúng tôi phần cơ nghiệp,
cơ nghiệp làm cho kẻ Người thương là Gia-cóp
được nở mặt nở mày.
Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
CHÚA ngự lên, vang dội tiếng tù và.
Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa!
đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!
Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu,
hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.
Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,
Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.
đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!
Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu,
hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.
Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,
Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.
Kìa vương hầu các dân tề tựu
cùng dân Thiên Chúa, Chúa của Ábra-ham.
Mọi thủ lãnh trần gian thuộc quyền Thiên Chúa,
Đấng siêu việt ngàn trùng!
cùng dân Thiên Chúa, Chúa của Ábra-ham.
Mọi thủ lãnh trần gian thuộc quyền Thiên Chúa,
Đấng siêu việt ngàn trùng!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa, Chúa của toàn thế giới và là Vua của muôn dân, từ thuở
sơ khai Chúa đã chuẩn bị bữa tiệc linh đình cho con cái Người và Chúa muốn tề
tựu chúng con chung quan bàn tiệc Chúa để chia sẻ trong chính cuộc sống của
Chúa. Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã gọi chúng con vào trong Hội
Thánh Chúa qua Đức Giêsu, Con của Chúa. Nguyện xin cho Thần Khí Chúa
làm cho chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng tiếp tục chấp nhận lời mời của
Chúa và xin cho chúng con, qua Chúa Thánh Thần, trở nên con người mới, được tạo
dựng ra theo ý Thiên Chúa trong công lý và trong sự thánh thiện đích thực,
trong hình ảnh của Chúa Kitô, để chúng con có thể cùng tiến vào bàn tiệc của
Nước Chúa với vô số các anh chị em. Xin hãy dùng chúng con, nếu Chúa
muốn thế, để tiếp tục kêu gọi những người khác đến dự bàn tiệc chung của Vương
Quốc Chúa.
Chúng con cầu xin điều này qua Đức Kitô là Chúa của chúng
con. Amen!
Chú giải và gợi ý suy niệm Chúa nhật 28
thường niên A: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Bản văn có thể chia thành bốn phần: 1) Mở (22,1); 2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại
(22,2-7); 3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13): a) Mời mọi người (cc. 8-10), b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13); 4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu
(22,14).
Chú giải và gợi ý suy
niệm Chúa nhật 28 thường niên A: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Lm FX Vũ Phan Long,
ofm:
1. Ngữ cảnh
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho(21,33-46)
và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các
thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang mộtsứ điệp rất giống
nhau. Bằng các dụ ngôn này, với mộtlời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc,
mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với
Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào,
nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân
cho kịp thời.
Thật ra các dụ ngôn và các lời
khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng
được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Ngài ngỏ với
chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm
việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp
hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới.
Không mộtai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại
lượng ước muốn rằng lời mời của Ngài được đón nhận.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn
phần:
1) Mở (22,1);
2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại
(22,2-7);
3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công
(22,8-13):
a) Mời mọi người (cc. 8-10),
b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);
4) Kết luận: Lời bình của Đức
Giêsu (22,14).
3. Vài điểm chú giải
- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước(Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính
nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Ngài.
- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô),
là mộtđộng từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả
mộtquyết định rõ ràng.
- Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công
thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như mộtmệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn
đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).
- các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu
hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không
chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết
thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên
cương của vương quốc.
- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi,
một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc
hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối,
sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14
hiểu theo nghĩa thứ hai này.
- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm
ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung
với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào mộtlúc nào đó để chào cách quan
khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội
Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào
đây để sửa chữa mộtlối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội
Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh
của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.
- không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời
phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ,
trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ
đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng
là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái
của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính”
thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem
thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.
- kẻ được gọi thì nhiều, mà
người được chọn thì ít (14): Ngôn
ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh
(comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do
đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì
mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…
4. Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1)
Dụ ngôn này được ngỏ với những
thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45),
những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.
Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13.
Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2,
dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn
bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời
thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc
bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người
được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.
Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn
trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở
đây là mộtvị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi;
đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường
hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả
hai trường hợp, có liên quan đến một“người con [trai]”. Những điểm song song đó
cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến mộtsố nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho
và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã
tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những
người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật
duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một mình ông nói, chứ không có đối
thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh
truyền của nhà vua.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại
(2-7)
Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có
những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi
hỏi về công bình; ở đây là mộtlời mời, mộtvinh dự diễn tả cho mộtai đó. Một bên
là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối
đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường
hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn
chuyện vi phạm mộtquyền, nhưng là mộtxúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái
độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì
sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ
vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn
phải là mộtđe dọa, nhưng là mộthành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia
sang dụ ngôn này, có mộtsự tiệm tiến.
Những “người đã được mời” (keklêmenous)
là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu,
những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà
vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt
của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được mộtsự từ
khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những
mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới
ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc
giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc.
4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc
giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn
những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người
Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới
giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể
Israel (x. 10,5-6.23).
Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ
thì … , người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những
kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng
các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng dụ ngôn đang nói về
các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như
nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng
c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không
còn cỗ bàn, bò tơ, thú béo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có
thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi,
người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu
đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c.
8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ
từ khước.
Đức vua đã huy động quân lính đi
“tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được
mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia
trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ
chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là mộtvài người trong số khách được mời thôi.
Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này,
cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối
câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các
thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là mộtcâu lạc lõng. Rất có
thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ
điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán mộttầm quan trọng đặc biệt cho
chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân
không phải chỉ là mộtvài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả
các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như
thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các
lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta
cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi
của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được
Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được
coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thành
công (8-13)
Phân đoạn này gồm hai truyện khác
nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c.
10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể
còn tiếp.
Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ
ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả
những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn
[h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn
tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết
vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công.
Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy mộtkhối người đa tạp. Sự đa tạp này không do
khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là
mộtsự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt” (c. 10).
Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ
tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế
là lời mời được gửi đến mộtdân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là mộtdân gồm
những người trong sạch và các thánh, mà là mộtxã hội đa tạp gồm những người xấu
và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như
cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng
tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn
vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có mộtcuộc biện phân quyết định: lời mời
không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên
phải có mộtcuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu
của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).
Đến đây khung cảnh vẫn là bữc
tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn
phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình
nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy
có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh
ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan
nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo
cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời
đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này
cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề mộtcái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã
được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong
phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu.
Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải
là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải
“khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị
tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là
đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh
dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân
trọng, không biết ơn.
Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên
sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong
Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một“sự công chính
dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các
tương quan với Thiên Chúa.
Nhận được lời mời không đương
nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều
này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều
kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả
năng đi vào không có nghĩa là mộtbảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh
không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân
biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không
cơ sở là mình có ơn cứu độ.
* Kết luận (14)
Câu kết luận này là một lời bình
của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”,
thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được
chọn” đây là những người được nhận mộtơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề
hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi
thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ
nhận được mộtơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định
của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều
được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ
khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.
Cả hai cách giải thích này đều có
phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người
khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào mộtnhóm nhỏ gồm những
người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều
tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không
thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này
là mộtngười ngoại chứ không phải là mộtngười Do Thái; thế nhưng lại chính vào
lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người
được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với
các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị
loại trừ; làm sao có thể nói đến mộtsố “ít” (nhỏ) những người được chọn?
Do đó, giải pháp đơn giản nhất
nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn
ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì
nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta
thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có
những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi,
nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý
mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa
chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).
+ Kết luận
Tầm nhìn của bản văn có thay đổi:
Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành mộtminh họa
đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của
Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng,
từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái
độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế
hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy
tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các
khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm
phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân
Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô
hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Tuy nhiên, chính chúng ta phải
thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên
Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Ngài.
5. Gợi ý suy niệm
1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm
là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự
đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả
sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là mộtđề nghị không
quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta
có mộttự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các
hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu
đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là
những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối,
Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc
trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa
lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải
chịu mộtkết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ
bị loại trừ (22,8).
2. Chúng ta có thể chọn lựa tự
do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của
chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về
cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên
Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta
với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi
không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.
3. Bữa tiệc không chứa những yếu
tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra
những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội
Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là
“những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên
trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng
mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.
4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và
Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằng Hội Thánh cũng là một
phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các
thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà
không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là
từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.
5. Vào ngày chúng ta được rửa
tội, chúng ta đã được mặc mộtáo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó
được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội
này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo
là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và
lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của
tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã
“tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được
bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà
đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay
Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng-không.





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét