23/03/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
V Mùa Chay
Bài
Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)
"Ðây
tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".
Trích
sách Tiên tri Ðaniel.
Trong
những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là
Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà
là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất
giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà
ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm
đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy
rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là
những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông
Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi
dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ
lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất
lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự
xét xử công minh.
Hai
ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa,
bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc
bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà
nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng
cửa vườn lại để ta tắm".
Khi
hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna
và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi
say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng
tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một
thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".
Bà
Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế,
tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi
tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước
mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố
cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu
la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị
kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào
nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày
hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ
lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta
giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con
ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả
cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều
khóc lóc.
Khi
hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna
thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ
lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với
hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng
thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó
chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả
tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh
ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt
được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho
chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai
ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử
hình cho bà.
Bấy
giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi
bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây
con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa
nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là
Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi
người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa
trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội
thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu
nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".
Bấy
giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi
giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ
lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và
cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi
hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc
ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công,
đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán:
"Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà
Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả
lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây
sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn
ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ
không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm
hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì
sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của
ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội
dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói:
"Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm,
chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy
giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông
cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai
ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu
theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ
oan.
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62
Trích
sách Tiên tri Ðaniel.
Trong
những ngày ấy, dân chúng lên án tử hình bà Susanna. Bấy giờ bà Susanna kêu lớn
tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước
khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con
không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa
nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là
Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi
người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa
trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội
thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu
nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".
Bấy
giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi
giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ
lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và
cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi
hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc
ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm. Ông đã xét xử bất công,
đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán:
"Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà
Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả
lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây
sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn
ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chứ
không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm
hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì
sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của
ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội
dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói:
"Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm,
chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy
giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông
cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai
ông đã vu khống; họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu
theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ
oan.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Dù bước đi
trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).
Xướng:
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả
tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi,
Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2)
Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy
Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3)
Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì
Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4)
Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong
nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây
là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc
Âm: Ga 8, 1-11
"Ai
trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ.
Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật
sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy,
thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ
nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy
Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay
viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong
các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại
viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người
nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng
đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những
người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa
Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị.
Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Sự Sáng Thế Gian
Thánh
Phanxicô Salêsiô, Giám mục giáo đoàn Sáp (Chable) thuộc miền Nam nước Pháp, là
người sống cùng thời với Giám Mục Bossuet. Cả hai đều là những vị Giám mục lỗi
lạc thông thái. Nhưng Giám mục Phanxicô Salêsiô được tôn phong hiển thánh, còn
Giám mục Bossuet là một văn hào và là một nhà hùng biện nổi tiếng ở Âu Châu thời
đó.
Trong
văn chương nước Pháp, ngày nay người ta vẫn còn học những tác phẩm của Ngài, gồm
các diễn văn, các bài giảng và các tranh luận tôn giáo. Chính Ngài đã viết một
pho sách lớn trả lời những vấn nạn của phong trào thệ phản lúc đó. Nghe danh
Ngài, mọi người đều nể phục. Trong khi đó, Ðức Cha Phanxicô Salêsiô cũng là một
người thông minh xuất chúng, lại có một lối bênh vực đạo Chúa khác hẳn với cách
thức của Giám mục Bossuet. Ngài rất nhân từ, bình dân, giản dị và niềm nở tiếp
đón mọi người, lắng nghe mọi người, tìm hiểu và giải quyết những thắc mắc của họ.
Ngài sẵn sàng đối thoại cả với những anh chị em lạc giáo có ác tâm muốn bắt bẻ
Ngài. Nhưng cuối cùng chính họ là những kẻ bị Ngài chinh phục. Ngài không ngại
mất thì giờ nghe họ như thể chỉ có mình Ngài với họ thôi. Có người góp ý:
"Ðức Cha tiếp họ làm gì cho mất công. Họ cố ý đến để bài bác Ðức Cha
đó". Nhưng Ngài trả lời: "Mỗi linh hồn đã là một giáo phận đối với một
vị Giám Mục".
Nhờ
tìm hiểu, đón tiếp từng cá nhân như vậy mà Ngài đã làm cho trên 10,000 người
theo lạc giáo trở lại Công giáo. Ðức Cha Bossuet khiêm tốn nhìn nhận điều này
và đã tuyên bố như sau: "Ai muốn tranh luận về giáo lý thì hãy đến với tôi,
tôi sẽ làm cho họ thua lý. Nhưng ai muốn theo đạo thì hãy đến với Ðức Cha
Phanxicô Salêsiô, vì Ngài hiền từ, không tranh luận, nhưng có một khả năng
chinh phục lạ thường".
Anh
chị em thân mến!
Khi
rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô đã cho mọi người nhìn thấy Ngài có một khả
năng chinh phục lạ thường. Không ai có uy quyền như Ngài để làm những việc kỳ
diệu, nhưng phép lạ để chứng minh mình là Con Thiên Chúa, là Ðấng Thiên Sai được
Chúa Cha sai đến. Những lời Ngài nói có sức hấp dẫn đến độ dân chúng nghe Ngài
đã nhận xét: "Không ai giảng dạy hấp dẫn như Ngài".
Tuy
nhiên, quyền năng chinh phục của Chúa Giêsu không hủy diệt sự tự do chọn lựa của
con người. Ðây là một mầu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của chúng ta.
Bài
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu Kitô và những người
biệt phái, những vị lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái. Những người này không
tin Chúa, mặc dù họ đã chứng kiến những việc Chúa làm trước mắt. Phần Chúa
Giêsu thì Ngài tận dụng mọi lý lẽ, mọi phương thế có thể để thuyết phục họ tin
nhận.
Anh
chị em thân mến!
Trên
trần gian này, có thể nói chưa có một đại diện nào đã hành động như Chúa Giêsu.
Ngài hạ mình xuống trần làm người, sử dụng ngôn ngữ của con người để mạc khải sự
thật cao cả của Thiên Chúa. Những sự thật có sức cứu rỗi là Ngài làm ngơ trước
những lạm dụng về khả năng trí tuệ và ý chí của con người mà họ bắt bẻ Ngài đủ
thứ, đủ chuyện. Thái độ không tin và bắt bẻ Chúa của những người biệt phái như
vừa được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay đáng cho chúng ta lưu ý và nhắc lại
chính thái độ sống đức tin của mình. Thử hỏi đã có bao nhiêu lần Chúa Giêsu thực
hiện những dấu lạ trong đời sống cá nhân chúng ta, cùng như trong sinh hoạt của
cộng đồng mà Ngài đã thành lập là Giáo Hội, để nhắc nhở chúng ta rằng: Ngài là
Ðấng Cứu Thế, là Ánh Sáng, là Sự Thật cứu rỗi. Nhưng chúng ta đã nhìn thấy ánh
sáng và sống sự thật Ngài đã truyền dạy với hết lòng chân thành khiêm tốn hay
chưa? Tin nhận Chúa là một điều khó.
Ðức
cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng"
đã khuyên các tín hữu như sau: Thành thực cầu xin như các thánh tông đồ xưa:
"Lạy Thầy, xin ban đức tin cho chúng con". Con phải can đảm sống đức
tin hằng ngày như các thánh Tử Ðạo đã can đảm giữ vững đức tin xưa. Ðối với người
Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu
thương vô cùng. Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến. Nói đúng hơn,
Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn.
Nhân
loại ngày nay đã tiến bộ vượt mực về khoa học và kỹ thuật. Nhân loại đã có đủ sức
mạnh khủng khiếp có thể tự sát với vũ khí hạt nhân. Nhân loại đầy đủ phương tiện
hỗn loạn hầu như no nê không thiếu gì nữa. Nhân loại cảm thấy làm được mọi sự,
nhưng không biết tại sao mình sống? Mình đi về đâu? Và tương lai thế nào?
Nhân
loại đang trải qua một cơn khủng hoảng hy vọng. Phải! Nhân loại đang trải qua
cơn khủng hoảng hy vọng và có thể chính cá nhân chúng ta cũng đang gặp phải cơn
khủng hoảng hy vọng. Vì chúng ta không có đức tin trọn vẹn, không chấp nhận sự
thật của Chúa mạc khải: "Ngài từ đâu đến và đi về đâu?" Mạc khải Con
Người từ đâu đến và đi về đâu: "Ta là Ánh Sáng, ai theo Ta sẽ không đi
trong tối tăm. Nhưng có Ánh Sáng ban sự sống". Ðó là bí quyết niềm hy vọng
của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu.
Lạy
Chúa, xin gia tăng đức tin còn non yếu của con. Xin hướng dẫn con theo ánh sáng
sự thật của Chúa, để con trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp, hầu làm vinh danh
Chúa và phục vụ anh em đồng loại. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần V MC
Bài đọc: Dan
13:1-9, 15-17, 19-30, 33-62; Jn 8:1-11 or 8:12-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không được kết án
tha nhân.
Con
người thường dễ phê bình và kết án tha nhân, hơn là nhìn vào chính mình để xét
mình và để nhận ra những ước muốn sai trái và tội lỗi của mình. Nhiều khi vì
ham muốn tình dục, uy quyền, danh vọng, hay của cải, con người có thể sẵn sàng
làm chứng gian để kết án người vô tội, hay tìm đủ mọi cách để tha bổng kẻ đắc tội.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ không được kết án bất cứ ai, vì quyền phán xét là quyền
của Thiên Chúa, và không ai sạch tội để có thể kết án tha nhân.
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề kết án tha nhân. Trong Bài Đọc I, TT Daniel
phá vỡ âm mưu của hai vị thẩm phán làm chứng gian để kết án người vô tội. Họ
ham muốn sắc đẹp của Bà Suzanna và lập mưu để thông gian với Bà. Khi Bà từ chối
không chịu, họ đã tri hô Bà phạm tội ngọai tình với một thanh niên trẻ. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng phá vỡ âm mưu của các kinh-sư và Biệt-phái khi họ đặt
Ngài vào thế lưỡng nan: hoặc phải giữ luật Moses hoặc phải giữ luật yêu thương.
Ngài trả lời họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Không được làm chứng gian để kết án người lành.
1.1/
Sự ác độc của hai vị thẩm phán:
(1)
Lòng ham muốn tình dục của hai vị thẩm phán: Là những người xét xử dân chúng, lẽ
ra họ phải giữ tâm hồn sáng suốt để xét xử công minh cho dân, hai vị thẩm phán
này đã để “tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng
nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa.” Họ ham muốn sắc đẹp của bà
Suzanna, rình rập khi Bà tắm trong vườn, và sửa sọan sẵn một âm mưu để cưỡng bức
Bà hoặc phải thông gian với họ, hoặc sẽ bị ném đá chết vì tội ngọai tình.
(2)
Làm chứng gian khi âm mưu không thành: Hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu
bà, và làm chứng gian: "Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ
này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã
thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một
góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với
nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa
chạy mất. Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là
ai. Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều
ấy."
1.2/
Thiên Chúa bảo vệ những ai biết kính sợ Người.
(1)
Khác với hai vị thẩm phán, Bà Suzanna là người biết kính sợ Thiên Chúa. Cha mẹ
bà là người công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Moses. Khi bị cưỡng bức bởi
hai vị thẩm phán, Bà Suzanna biết họ có quyền phán xét luận tội mình, nên phân
vân: "Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu
không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà
sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!" Vì thế, Bà
Suzanna liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Khi bị kết án
oan uổng, Bà vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào
Chúa. Bà Suzanna kêu lớn tiếng: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những
điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng
gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã
vu cho con."
(2)
Thiên Chúa gởi TT Daniel đến để xét xử cho Bà: Trời có mắt, Thiên Chúa đã nghe
tiếng bà kêu. Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm
trí thánh thiện của một thiếu niên tên là Daniel. Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng:
"Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này!" Toàn dân đều quay về
phía cậu thiếu niên và hỏi: "Lời cậu vừa nói có nghĩa gì?" Cậu đứng
giữa họ và nói: "Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Israel? Các
người đã lên án một người con gái Israel mà không xét hỏi và cũng không biết rõ
sự việc ra sao! Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để
hại người phụ nữ này."
Cách
xét xử của Daniel: Cậu ra lệnh: "Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi."
Câu hỏi của Daniel: Nếu đã thấy họ phạm tội, thì phạm tội dưới cây nào? Hai người
làm chứng khác nhau:
*
Người thứ nhất: "Dưới cây trắc."
*
Người thứ hai: "Dưới cây dẻ."
Bấy
giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những
kẻ trông cậy vào Người. Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Daniel đã dựa
vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian.
Theo luật Moses, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người
khác phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan.
2/
Phúc Âm:
Không được kết án tha nhân vì không ai sạch tội.
2.1/
Bẫy giăng để hại Chúa Giêsu: Trình thuật của Gioan nói rõ: “Họ nói thế nhằm thử Người, để có
bằng cớ tố cáo Người.” Chúa Giêsu bị họ đặt vào giữa hai thế lưỡng nan: hoặc
trung thành với giáo huấn Ngài dạy là luật yêu thương và không được kết án tha
nhân, hoặc vi phạm Luật Moses dạy phải ném đá chết người bị bắt quả tang phạm tội
ngọai tình.
2.2/
Chúa Giêsu muốn mọi người phải xét mình.
(1)
Phải sạch tội trước khi tố cáo người khác: Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng
lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi." Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước
người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và
người phụ nữ thì đứng ở giữa.
(2)
Cách Chúa Giêsu đối xử với người phụ nữ: Người ngẩng lên và nói: "Này chị,
họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông,
không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị
đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!" Qua những lời đối thọai
này, Chúa Giêsu muốn chị nhận ra những điều sau:
a)
Chúa cho chị cơ hội thứ hai để trở nên tốt đẹp hơn: Tôi biết chị đã phạm tội,
nhưng cuộc đời chị vẫn còn thời gian để sửa đổi. Tôi cho chị cơ hội thứ hai để
chị làm lại cuộc đời.
b)
Chúa tha thứ lỗi lầm của chị: Không giống như những người biệt-phái và kinh-sư
chỉ lo tìm dịp để luận tội và kết án chị, Chúa lợi dụng cơ hội để tha thứ và để
chữa lành chị.
c)
Chúa khuyến khích chị trở thành người tốt hơn: Tội lỗi hủy diệt con người. Chị
hãy tránh xa tội lỗi để cuộc đời chị tốt đẹp hơn.
d)
Chúa tin tưởng mọi người đều có thể trở nên tốt nếu được cho cơ hội: Tôi tin chị
sẽ trở nên tốt nếu tôi cho chị cơ hội để sửa đổi.
e)
Chúa cũng cảnh cáo chị hậu quả sẽ xấu hơn nếu chị không chịu thay đổi: Nếu chị
không nắm lấy cơ hội để sửa đổi, chị sẽ phải lãnh nhận hậu quả nghiêm trọng
hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không bao giờ được làm chứng gian để hại người khác (điều răn thứ 9).
-
Quyền xét đóan thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta không có quyền xét đóan tha nhân nếu
chúng ta không có bổn phận với họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/03/15 THỨ HAI TUẦN 5
MC
Th. Tu-ri-bi-ô Môn-rô-vê-khô, giám mục
Ga 8,1-11
Th. Tu-ri-bi-ô Môn-rô-vê-khô, giám mục
Ga 8,1-11
Suy niệm: Chiếu
theo luật Do Thái, cái giá mà ‘người phụ nữ ngọai tình’ này phải trả là án tử hình.
Nếu người ta giết chị, điều đó hẳn cũng… bình thường thôi. Luật mà! Nhưng sự
việc đã không diễn ra như thế, vì có Đức Giê-su ở đó! Và Ngài đang bị buộc phải đưa ra một lời tuyên
án. Trái với lòng mong đợi của những kẻ tố cáo và sắp ném đá người phụ nữ này,
Đức Giê-su chất vấn lương tâm của chính họ. Công tố viên bỗng nhiên trở thành
bị cáo. Không ai dám tự nhận mình là vô tội để ném viên đá đầu tiên. Họ đã
không thể giết chị vì Đức Giê-su, con người vô tội duy nhất ở đó, cũng không
kết án chị. Điều luật kia, đối với Người, là hoàn toàn vô nghĩa. Người phụ nữ
được trắng án và tha bổng kèm theo lời nhắc nhở: “Từ nay đừng phạm tội nữa!”
Mời Bạn: Mỗi
lần lãnh nhận ơn tha thứ trong bí tích giao hòa, chúng ta cũng được Chúa nhắc
bảo ‘đừng
phạm tội nữa!’ Nghĩa là Ngài cũng ban cho chúng ta cái khả năng giữ mình tinh
sạch kể từ đây - (vì chẳng lẽ Chúa bảo ta làm một điều vượt quá khả năng mình!)
Chia sẻ: Để
không phạm tội nữa, chúng ta – những con người yếu đuối – phải dựa vào một điểm
tựa. Theo bạn, đâu là điểm tựa ấy và phải làm sao để đừng vụt mất điểm tựa ấy?
Sống Lời Chúa: Mỗi
lần lãnh nhận bí tích hoà giải, bạn cộng tác với ơn Chúa bằng việc “ăn năn dốc
lòng chừa” một cách tích cực và cụ thể để “từ nay đừng phạm tội nữa”.
Cầu nguyện: Con nay trở về cùng Chúa, Chúa ơi. Quyết chí ăn năn chừa lỗi, đây
trái tim con tận hiến Ngài.
Đừng phạm tội nữa
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài
còn làm sống lại một đời người.
Suy niệm:
Bị bắt quả tang phạm tội là
điều đáng xấu hổ.
Nhưng nếu tội đó là tội
ngoại tình
thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ
nữ ấy, xốc xếch, rối bù,
bị lôi đi, mắt cúi xuống
tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Ðền
Thờ Giêrusalem,
Ðức Giêsu đang ngồi giảng
dạy cho đám đông.
Chị ta bị đặt trước mặt
Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và pharisêu hí
hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một
cơ may hiếm có
để họ có bằng chứng tố cáo
Ngài.
“Luật Môsê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng người này.
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Quả là một câu hỏi bất ngờ,
lịch sự và nham hiểm.
Ðức Giêsu không thể nói
ngược với luật Môsê,
và cũng không thể nói ngược
với trái tim của mình.
Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ
nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không
muốn can dự vào
hay Ngài đang suy nghĩ cho
ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi
qua, các kẻ tố cáo sốt ruột.
Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng
Ngài bị dồn vào thế bí.
“Ai trong các ông vô tội thì
hãy ném đá trước đi.”
Ngài trả lời, rồi lại cúi
xuống viết trên đất.
Câu trả lời của Ngài bất ngờ
vang trong tĩnh lặng,
bắt người ta phải trở về đối
diện với lòng mình.
Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng
chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm
kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong
tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác,
người ta thường quên tội của mình.
Không thấy cái xà ở mình mà
lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã
khiêm tốn xét mình.
Họ lần lượt rút lui, gián
tiếp nhận mình có tội.
Kẻ trước người sau, người
lớn tuổi đi trước.
Chúng ta trân trọng thái độ
chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người
mà họ tố cáo và định tố cáo.
Cuối cùng chỉ còn lại người
đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm
hơn cho cuộc đối thoại.
Ðấng duy nhất có thể ném đá
lại nói:
“Tôi không lên án chị đâu!
Chị về đi,
từ nay đừng phạm tội nữa.”
Lắm khi việc áp dụng luật
lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt
răn đe hữu hiệu,
nhưng lại không ích lợi gì
cho người phạm tội.
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu
một mạng người,
Ngài còn làm sống lại một
đời người.
Dù con người vốn yếu đuối,
dễ sa ngã,
nhưng Ngài vẫn tin tưởng,
yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái
xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt
còn đang yên ngủ nơi người
phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của
Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con
quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình
cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung
tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an,
trong sáng,
không một biến cố nào làm
xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy
động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi
gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người
thù ghét con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23
THÁNG BA
Chúng
Tôi Rao Giảng Đức Kitô Chịu Đóng Đanh
Mùa
Chay, Giáo Hội không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh
Phao-lô, Giáo Hội còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đanh” trên Núi
Can-vê.
Thuở
xưa, người Do Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan – như một điều
kiện để họ tin vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời
nay cũng có thái độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ.
Hay nói đúng hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi
khi chúng ta gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của
Thiên Chúa một cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời
tuyên bố của Tông Đồ Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh”
(1Cr 1,23).
Nơi
Đức Kitô, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối
nhắm vào các huấn lệnh của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một
Đức Kitô chịu đóng đanh. Thập giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh
mẽ hơn loài người” (1Cr 1,25).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
23-3
Thánh
Turibiô Môgrôvêjô giám mục
Đn
13,1-9.15-17.19-30.33-62; Ga 8,1-11.
LỜI
SUY NIỆM: Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẫng lên và bảo họ: “Ai trong các
ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”… Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ
trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Trước
giáo huấn đầy yêu thương của Chúa Giêsu Người Pha-ri-sêu khó chấp nhận. Nhân việc
bắt được người phụ nữ phạm tội ngoại tình công khai. Họ đưa đến với Chúa Giêsu,
để xem Người thực hiện lòng yêu thương tha thứ như thế nào. Dưới sự đòi hỏi của
họ khi dựa vào Luật Mô-sê, cũng như sự a tòng của đám đông. Chúa Giêsu đòi hỏi
nơi họ ai là kẻ sạch tội, thì cứ lấy quyền lên án. Nhưng tất cả đã nhận ra mình
là kẻ có tội. Người càng cao tuổi lại càng thấy rõ tội lỗi mình; tất cả không
ai ném đá người phụ nữ. Để rồi chỉ còn lại chị ta với Chúa Giêsu và Người nói với
chị: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa hằng yêu thương và rộng lòng tha thứ cho tất cả những ai biết
sám hối. và dóc lòng chừa. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con
luôn biết xét mình với sự dóc lòng chừa, đặc biệt biết khiêm tốn trong yêu
thương, để không bao giờ lên án bất cứ ai, nhưng luôn cầu nguyện cho những tội
nhân biết ăn năn trở lại cùng Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
23-03: Thánh TURIBIÔ MONGRÔVEJO
Giám
mục (1536 - 1606)
Có
những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm.
Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây
Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này
mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng
nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế
nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.
Ở
trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo,
Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những
hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết
sống đúng đắn.
Khi
đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua
Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm
1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một
giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết
thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những
bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ
phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm 1581.
Địa
phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chận Ngài lại nếu
Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều
thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.
Người
Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa
bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho
dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm
được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc
của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và
tình thương ngự trị.
Vị
mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ,
thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha
quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm
đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho
Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng : Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ
phán xét Ngài.
Turibiô
học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng
bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo
lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu
và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát
tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả
những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập
các chủng viện, các viện cứu tế.
Trong
hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba
lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta
nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên.
Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi
có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài
cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm
trong tay.
Trong
khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại
lời thánh Phaolô : "Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết
hiệp với Chúa Giêsu Kitô".
Gần
chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh : - Tôi vui mừng
khi nghe nói cùng tôi : chúng ta đi về nhà Thiên Chúa
Thế
là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời
chính chúa Kitô : - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa.
Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với
Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.
(daminhvn.net)
23
Tháng Ba
Cầu Xin và Cảm Tạ
Một
buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp
trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào
phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và
em nói với cô giáo: "Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn
gọi dây nói để cảm ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp".
Nếu
đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ
phải đặt ra hai đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây
dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận
rộn. Trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ
ngôn kia thuật lại như sau:
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau
một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời.
Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có
vẻ nhẹ như đựng toàn bông gòn.
"Ông
mang gì mà nặng thế?", một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời:
"Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn
ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?".
"À,
tôi được sai đến để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài
luôn ban cho họ".
Sự
thật về hai cái cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên
cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật
lại như sau: Một trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng
ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà
người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì
không phải cả 10 người được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy
ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?".
Ðể
sống trọn lời Chúa, ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời
khuyên sau đây: Hãy chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới
mình được yêu thương.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét