Ngày 25 tháng 3
Lễ Truyền Tin Cho Ðức
Mẹ
Lễ Trọng
Bài
Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này
trinh nữ sẽ thụ thai".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ngày
ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu
ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ
không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi
nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên
Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên
Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng:
1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không
đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".
- Ðáp.
2)
Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa,
và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
3)
Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm
môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
4)
Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung
thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và
lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Dt 10, 4-10
"Ở
đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý
Chúa".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong
thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng,
nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của
lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã
nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của
lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không
nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy
Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước
để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc
hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia hoặc Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab
(Mùa
Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia,
alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta,
và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 26-38
"Này
Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét,
đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng:
"Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa
các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý
nghĩa gì.
Thiên
thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ
thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi
là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người.
Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng
Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết
đến người nam?"
Thiên
thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao
trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên
Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và
nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có
việc gì mà Chúa không làm được".
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và thiên thần cáo biệt Bà.
Ðó
là lời Chúa.
SUY NIỆM :
Mỗi
khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi
mở đầu cuộc truyền tin: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng
Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà". Ðây chính là
lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con
người.
Quả
thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của
người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc
cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ
thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức
trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ
chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng
một câu trả lời đầy thuyết phục một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng
Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối
chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môisen hay cho
thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng
để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà
có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ
đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp
nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối
vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.
Trong
cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có
liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh
mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với
chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên
Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu
chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình
cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay
cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động
linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm.
Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không
biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu
tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp
theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những
sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những
công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến
cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng
lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc
ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời
Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên
Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra
cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến
đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của chúng ta như Người đã
chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy
Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những
công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con
người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không
dám tiến thân. Hôm nay, khi suy niệm về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm
thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với
tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Truyền Tin, Năm ABC
Bài đọc: Isa 7:10-14; Heb
10:4-10; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự vâng phục mang lại
ơn cứu độ cho con người.
Con
người được Thiên Chúa ban cho có tự do để làm quyết định; nhưng khi con người
quyết định chọn điều gì, là con người phải lãnh nhận hậu quả do quyết định ấy
mang lại. Thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình
có thể quyết định mọi sự. Trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn
gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái
cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của cuộc bất
tuân là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền nọc độc của tội Tổ Tông cho
con cháu.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tuân phục hay bất tuân lời Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được tiên-tri Isaiah truyền chỉ tuân phục một mình
Thiên Chúa, vua Ahaz của Judah vẫn bất tuân sang cầu viện Ai-cập. Hậu quả là nước
mất nhà tan, từ vua đến dân bị lưu đày qua Babylon. Trong Bài Đọc II, tác giả
Thư Do-thái so sánh các hy lễ đền tội của Cựu Ước với sự vâng phục của Đức
Kitô, và đưa đến kết luận: Thiên Chúa trân quí sự vâng phục của Đức Kitô hơn
ngàn vạn chiên cừu, và cái chết của Ngài trên Thập Giá có sức mạnh xóa sạch tội
và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, lời thưa “Xin Vâng” của Đức
Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin đã bắt đầu kỷ nguyên cứu độ: Chúa Thánh
Thần đã rợp bóng trên Mẹ, và hài nhi Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, đã hình
thành trong lòng Mẹ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Vua
Ahaz bất tuân lời Thiên Chúa.
1.1/
Vua Ahaz nghi ngờ Thiên Chúa: Rezin là vua sau cùng của Damascus. Năm 732 BC, vua Assyrian,
Tiglath-pileser III phá hủy Damascus và giết vua Rezin. Sự liên hiệp giữa
Assyria và Israel làm vua Judah khủng hỏang, vua sợ liên hiệp này sẽ đem quân
thôn tính Judah. Liên hiệp hai nước phác họa kế họach truất phế vua Ahaz, và
thay thế ông với hòang tử của Bet Tabel, một lãnh thổ của Aram, miến Bắc của
khu vực Transjordan. Hoàng tử này có lẽ là người Judah, con trai của Jotham hoặc
Uzziah với công chúa của Tabel.
(1)
Sự bất trung của vua Ahaz: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz
để khuyên nhà vua tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài mới có thể
bảo tòan lãnh thổ của nhà Judah. Vua Ahaz không tin tưởng vào sự can thiệp của
Thiên Chúa, và vào lời khuyên của tiên tri Isaiah; ông cầu viện với vua Ai-cập
để xin sự bảo vệ. Hậu quả là Chúa để cho vương quốc của ông rơi vào tay vua
Babylon.
1.2/
Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz lần thứ hai.
(1)
Hãy xin một dấu lạ để Thiên Chúa làm cho: “Một lần nữa Đức Chúa phán với vua
Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một
dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi
sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Vua không xin một dấu từ
Thiên Chúa vì vua ngoan cố, không muốn nghe những lời khuyên của tiên-tri
Isaiah.
(2)
Dấu lạ Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David!
Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của
tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người
thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.”
-
Isaiah không dùng chữ đặc biệt để chỉ trinh nữ (betula), nhưng dùng chữ
(alma) để chỉ một phụ nữ trẻ tới tuổi thành hôn, có thể là trinh nữ kay
không. Lời tuyên sấm này được loan báo trước hòang gia, có thể mang ý nghĩa
giòng dõi của David sẽ bị tận diệt. Nếu điều ấy xảy ra, lời hứa của Thiên Chúa
đã làm với giòng dõi David sẽ bị chấm dứt (2 Sam 7:12-16).
-
Con trẻ sắp sinh ra có thể là trẻ Hezekiah, mà Judah đang hy vọng sẽ tiếp tục sự
hiện diện của Chúa giữa dân Ngài, và là một canh tân của lời hứa đã được ký kết
với vua David.
-
Dẫu vậy, sự nghiêm trọng của lời tuyên sấm và tên con trẻ tương lai “Emmanuel”
cho chúng ta thấy lời của tiên-tri Isaiah không chỉ dừng lại với sự sinh ra của
Hezekiah; nhưng chỉ thẳng tới vị vua lý tưởng của giòng tộc David, mà qua vị
vua này, Thiên Chúa mới thực sự ở với con người.
-
Thánh sử Mathhew và Giáo Hội đã nhìn sự sinh ra của Đấng Cứu Thế bởi Trinh-Nữ
Maria là sự hòan tất của lời tiên tri này.
2/
Bài đọc II:
Thi hành ý muốn của Thiên Chúa cao trọng hơn các hy lễ tòan thiêu và hiến tế
chiên bò.
2.1/
Máu thú vật không thể xóa bỏ tội lỗi con người: Trong Cựu Ước, mỗi khi con người
muốn được Thiên Chúa tha tội, họ lên Đền Thờ, sát tế thú vật, và dâng cho Thiên
Chúa như trong ngày lễ Day-at-onement. Nhưng những hy lễ này chỉ có thể tha những
tội vô tình họ xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; còn những tội cố tình,
không một hy lễ nào có thể xóa được; đó là lý do tại sao tác giả Thư Do-thái
nói: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.” Vì thế,
con người cần một cách khác để được tha tội; và Thiên Chúa đã chuẩn bị một cách
thức hiệu quả để tha tội cho con người: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô
nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.” Tạo
cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có tai để lắng nghe và vâng lời; có trí óc
để hiểu và có ý chí để làm theo những gì Thiên Chúa muốn; và có một thân xác để
có thể hy sinh, chịu đựng đau khổ, để đền tội thay cho con người.
2.2/
Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho con người: Tác giả trưng dẫn
Thánh Vịnh 40:6-9: “Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ
con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách
Thánh đã chép về con.”
-
Trước hết, Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã
chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề
Luật truyền.” Điều này hiển nhiên vì tất cả những điều này thuộc về Thiên Chúa.
Con người có dâng tiến những lễ vật này cũng là lấy những của Thiên Chúa ban để
dâng lại cho Ngài. Đó là chưa kể đến tội mà các tiên tri đã tố cáo con người
nhiều lần: dâng của dư thừa, dâng cho qua lần chiếu lệ, dâng lễ vật mà vẫn đang
toan tính phạm tội, dâng lễ vật mà lòng xa Thiên Chúa vạn dặm …
-
Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ
các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức
Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” Sự vâng phục của
Chúa Giêsu là lễ hiến tế duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa, và máu của Người đổ ra
chỉ một lần là đủ để Thiên Chúa tha thứ tất cả cho con người.
-
Nếu chúng ta muốn thiết lập mối giao hòa với Thiên Chúa, vâng lời làm theo
thánh ý Ngài là cách thức duy nhất. Thiên Chúa muốn con người tin và tuân phục
những gì Đức Kitô đã mặc khải và dạy dỗ con người.
3/
Phúc Âm:
Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria bắt đầu Kế Họach Cứu Độ của Thiên
Chúa.
3.1/
Biến cố Truyền Tin: Khi
Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một
thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người
tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria.
-
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức
Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy
có nghĩa gì. Thông thường, con người dễ hãnh diện khi được người khác khen
mình; nhưng Mẹ là người rất khiêm nhường, Mẹ biết mình không xứng đáng với lời
chào này; nên bối rối, băn khoăn về lời chào ấy.
-
Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.
Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ
nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến
muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Bà Maria thưa với sứ
thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh để lo việc của Thiên Chúa. Điều khó hiểu ở đây
là thánh Luca đã đề cập tới việc Mẹ đã đính hôn với Giuse ở đầu trình thuật. Tại
sao đã khấn giữ mình đồng trinh, lại còn đính hôn với Giuse? Điều này chỉ có thể
giải nghĩa hoặc Luca lầm lẫn hoặc bản văn bị sắp xếp lẫn lộn thứ tự giữa 2 biến
cố: truyền tin và đính hôn.
-
Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao
sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa.”
3.2/
Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Chúng ta không chắc Mẹ Maria có
thể hiểu thế nào là sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần; nhưng Mẹ tin những
gì thiên thần Gabriel nói vì hai lý do:
(1)
Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể làm cho bà
Elisabeth, người họ hàng với Mẹ, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người
con trai; còn việc gì Thiên Chúa không làm được?
(2)
Niềm tin của Mẹ vào Thiên Chúa: Mẹ biết Thiên Chúa là ai, và Mẹ biết mình là
ai. Mẹ tuy không hiểu những gì Thiên Chúa nói, nhưng sự khôn ngoan dạy Mẹ cứ
mau mắn vâng lời; vì tất cả những gì Thiên Chúa muốn đều tốt đẹp. Vì thế, Mẹ thưa
với thiên thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa biết chắc các điều tốt
đẹp cho con người. Bất tuân Thiên Chúa là cách dễ dàng nhất gây ra đau khổ cho
con người.
-
Vâng lời Thiên Chúa không lấy đi sự tự do của con người, nhưng chứng tỏ sự khôn
ngoan. Giống như một con trẻ chưa đủ khôn ngoan để làm quyết định cho mình, em
phải vâng lời cha mẹ là những người khôn ngoan hơn. Chúng ta cũng thế, khi chưa
hiểu kế họach của Thiên Chúa cho cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu và
Đức Mẹ: xin vâng làm theo ý Thiên Chúa.
-
Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ những gì Thiên
Chúa hứa ban cho tới khi thành sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/03/15 THỨ TƯ TUẦN 5
MC
Truyền tin cho Đức Ma-ri-a
Lc 1,26-38
Truyền tin cho Đức Ma-ri-a
Lc 1,26-38
Suy niệm: Đức
Ma-ri-a đã tỏ ra bối rối trước lời chào đầy kính trọng của vị thiên sứ lúc
truyền tin. Thiên thần đã trấn an Mẹ “đừng sợ” chỉ vì Mẹ “đẹp lòng Thiên Chúa.” Quả thế, người “đẹp lòng Chúa” thì được “Chúa ở cùng” và như thế không có gì có thể làm hại họ được.
Biết bao lần Chúa Giê-su đã trách các môn đệ: “Sao lại hoảng sợ.” Ngay trước lúc chịu khổ nạn, Ngài đã khẳng
định: “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian”(Ga 16,33). Thánh
giáo hoàng Gioan-Phaolô II, khi lên ngôi Giáo Hoàng, đã chọn khẩu hiệu “Đừng
sợ!” Đức Bê-nê-đi-tô XVI ngay từ đầu triều giáo hoàng của mình cũng nhấn mạnh
điều đó. Vậy ở bên Mẹ, là có Chúa. Và có Chúa, tat không lo sợ chi!
Mời Bạn: Trước những vấn đề hiện nay của Giáo Hội, của
xã hội, nơi các cộng đoàn cũng như đối với từng cá nhân, bao người đang bất an
lo lắng vì dường như sự dữ đang thắng thế. Điều đó có vẻ đúng, dưới con mắt
nhân loại, nhưng mời bạn nhìn với con mắt đức tin như Đức Ma-ri-a để xác tín
rằng “Đối với Chúa, không có gì là
không thể làm được” (Lc
1,37).
Chia sẻ: Lời
Chúa nói trước khi về trời: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế” có
giúp bạn xua tan mọi nỗi sợ và luôn bình an trong niềm cậy trông vào Ngài
không?
Sống Lời Chúa: Mỗi
lần tham dự cử hành phụng vụ, hãy chú ý lắng nghe và cảm nghiệm lời chào này :
“Chúa ở cùng anh chị em”, để luôn chuẩn bị tâm hồn đón nhận cách xứng đáng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin củng cố đức tin, để chúng con luôn cảm thấy
Chúa ở cùng chúng con mọi ngày.
Tôi là nữ tỳ của Chúa
Tiếng Xin Vâng của Chị Maria đã cho Con Thiên
Chúa có chỗ trong thế giới. Nhờ những tiếng Xin Vâng của tôi, Đức Giêsu đi vào
được thế giới hôm nay.
Suy niệm:
Chín tháng trước khi mừng lễ
Giáng Sinh, Giáo hội mừng lễ Truyền Tin.
Lễ Truyền Tin là lễ trọng,
lễ Con Thiên Chúa xuống thế giới này làm người.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu
nhiệm lớn, đã bắt đầu từ giây phút này đây.
Nhưng sự trọng thể và lớn
lao ấy lại diễn ra rất đỗi bình thường và bé nhỏ.
Galilê là vùng đất của dân
ngoại, Nadarét chỉ là một tỉnh nhỏ ít danh tiếng.
Đây là nơi sinh sống của Chị
Maria, một thiếu nữ đã đính hôn với ông Giuse.
Sứ thần Gáprien được Thiên
Chúa sai đến với người trinh nữ Do thái ấy
vào lúc Chị đang sống đời
sống thường nhật như các cô gái khác.
Chị sống bên cha mẹ, chờ
ngày về nhà chồng.
Chị có biết đời mình sắp
bước vào một khúc quanh mới không?
Thiên Chúa cần Chị Maria cho
công trình cứu độ thế giới của Ngài.
Lễ Truyền Tin là lễ Thiên
Chúa hỏi ý một thụ tạo, một thiếu nữ nhỏ bé.
Ngài tôn trọng tự do mà Ngài
đã ban cho Chị, Ngài cần sự ưng thuận của Chị.
Qua trung gian sứ thần
Gáprien, Thiên Chúa muốn Chị làm Mẹ của Con Ngài.
Người Con ấy là Vua thuộc
dòng Đavít, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
Chị Maria đã hết sức bối rối
trước lời chào của sứ thần.
Lời chào ấy khiến Chị phải
suy nghĩ và sợ hãi (c. 29, 30).
Và khi được báo tin mình sẽ
thụ thai,
Chị đã hỏi lại : “Việc ấy sẽ
xảy ra như thế nào?”
vì cho đến nay Chị vẫn còn
là trinh nữ, chưa về chung sống với Giuse (c. 34).
Trước khi nói tiếng Xin
Vâng, Chị Maria đã suy nghĩ cầu nguyện nhiều.
Chị biết mình được Thiên
Chúa mời gọi bước vào cuộc phiêu lưu.
Cuộc hôn nhân với Giuse,
người mà Chị yêu mến, hẳn sẽ không như cũ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Chị
mang thai bây giờ? Giuse sẽ nghĩ sao?
Ai sẽ tin chuyện Chị được
thụ thai bởi Thánh Thần (c. 35)?
Maria đã nói tiếng Xin Vâng
không phải vì thấy rõ con đường Chúa muốn.
Xin Vâng là mềm mại, buông
mình để Chúa dẫn đi giữa đêm đen,
yên tâm không phải vì mình
làm chủ được tương lai,
nhưng vì tin nó nằm trong
tay Chúa.
Xin Vâng là để cho những dự
tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Chị Maria đã dám chấp nhận
mọi hậu quả khi nói tiếng Xin Vâng.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa.” (c. 38).
Tiếng Xin Vâng của Chị Maria
đã cho Con Thiên Chúa có chỗ trong thế giới.
Nhờ những tiếng Xin Vâng của
tôi, Đức Giêsu đi vào được thế giới hôm nay.
Tôi có kiên nhẫn cưu mang
Ngài trong đời tôi, để cho Ngài lớn lên cứng cáp,
trước khi sinh ra Ngài cho
môi trường tôi đang sống không?
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim
của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như
dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG BA
Người
Phụ Nữ Khôn Sánh
Trong
biến cố Truyền Tin, Đức Maria bày tỏ sự ưng thuận với sứ thần. Bản trình thuật
của Luca – dù thật vắn tắt – vẫn vừa vô cùng hàm súc các nguồn Cựu Ước vừa nổi
bật đặc tính mới mẻ của Kitô giáo. Nhân vật chính trong câu chuyện này là người
‘mệnh phụ’ (Ga 2,4) được tuyển chọn từ đời đời để làm cộng tác viên thiết yếu đệ
nhất cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó là almah – hay thiếu nữ – đã được
ngôn sứ Isaia báo trước (Is 7,14). Đó là cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc, được
gọi là Myriam, Maria ở Na-da-rét, một làng quê nghèo nàn lẩn khuất nhất miền
Ga-li-lê (Ga 1,46). Nét mới mẻ độc đáo của Kitô giáo ở đây chính là sự kiện một
phụ nữ được đặt vào một địa vị cao vời khôn sánh. Sự kiện này thật không thể
quan niệm được đối với não trạng Do Thái thời ấy, cũng như đối với nền văn minh
Hy La vốn đang cường thịnh lúc bấy giờ.
Sứ
thần Ga-bri-en đã chào Maria với những lời lẽ hết sức trịnh trọng đến nỗi làm
Maria kinh sợ: “Khaire – Ave – Mừng vui lên!” Lần đầu tiên, niềm vui cứu độ âm
vọng trên mặt đất. “Kekharitomene – gratia plena – Bà đầy ân phúc!” Đây là Đấng
Vô Nhiễm, được chạm khắc trong sự sung mãn nhiệm mầu của sự tuyển chọn của
Thiên Chúa, của sự tiền định từ đời đời, của sự trong sáng tuyệt diễm. “Dominus
tecum – Thiên Chúa ở cùng Bà!”
Thiên
Chúa ở với Đức Maria, một thành viên của gia đình nhân loại được tuyển chọn để
làm Mẹ Đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” Từ bây giờ và cho đến mãi
mãi, Thiên Chúa sẽ ở với con người. Thiên Chúa sẽ không quay lưng lại và sẽ
không bỏ con người chơi vơi. Thiên Chúa đã tự kết hiệp nên một với con người để
cứu con người và trao ban cho con người chính Con Một của Ngài, là Đấng Cứu Độ.
Maria trở thành một bảo đảm cụ thể và sống động của sự hiện diện cứu độ này của
Thiên Chúa.
Thần
sứ yêu cầu Maria ưng thuận cho Ngôi Lời đến trần gian. Câu trả lời của Maria
chính là tiếng vọng lại hoàn toàn từ tiếng đáp trả của Ngôi Lời đối với Thiên
Chúa Cha: “Này con đây”. Chính nhờ được dẫn trước và được hỗ trợ bởi lời đáp trả
“Này con đây” của Con Thiên Chúa mà Maria đã có thể thưa lên “Này con đây”.
Chính tại khoảnh khắc Maria thốt lên lời ưng thuận, Con Thiên Chúa trở thành
Con Người. Ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta cử hành mầu nhiệm nền tảng là cuộc Nhập
Thể của Ngôi Lời. Thư Do Thái cho phép chúng ta đi sâu vào những chiều sâu khôn
dò của sự tự hạ này của Ngôi Lời – tự hạ vì yêu con người cho đến chết trên thập
giá.
“Khi
vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo
cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ
con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách
Thánh đã chép về con.’”Dt 10,5-7
Chúa
đã tạo cho con một thân thể. Việc cử hành Lễ Truyền Tin hôm nay dẫn chúng ta trực
tiếp đến với ngày Giáng Sinh, sau chín tháng. Các anh chị em tín hữu của chúng
ta ngay trong những thế kỷ đầu tiên đã nắm bắt rất rõ ý nghĩa mầu nhiệm này – một
mầu nhiệm đưa dẫn chúng ta tới cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức
Giêsu. Lễ Truyền Tin rơi vào Mùa Chay – sự kiện này giúp chúng ta nhận hiểu ý
nghĩa cứu chuộc của nó: Cuộc Nhập Thể gắn kết chặt chẽ với công cuộc cứu chuộc
mà Đức Giêsu hoàn thành bằng việc đổ máu vì chúng ta trên Thập Giá.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
25-3
Lễ
Truyền Tin
Is
7,10-14;8,10; Dt 10,4-10; Lc 1,26-38.
LỜI
SUY NIỆM: “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân
sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
Đức
Ma-ri-a, là người trinh nữ đã được Thiên Chúa tạo thành và tuyển chọn,
để Ngài đưa Con Một vào trong thế gian. Thiên Chúa đã sai sứ thần Gáp-ri-en đến
truyền tin cho Đức Mẹ về việc Mẹ sẽ cứu mang Chúa Giêsu với quyền năng của Chúa
Thánh Thần, sau khi Đức Mẹ nghe những lời trình bày của sứ thần, Đức mẹ đã tin:
“Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Đức Mẹ đã khiêm tốn
đón nhận thánh ý của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ ơn Chúa đã trao ban Đức Mẹ làm mẹ của chúng con,
làm mẹ của Giáo Hội. Đặc biệt với tất cả gia đình Công Giáo Việt Nam chúng con
luôn có Đức mẹ hiện diện trên bàn thờ của gia đình. Xin ban cho mọi thành viên
trong gia đình chúng con trong mọi vui buồn của cuộc sống luôn biết chạy đến với
Đức Mẹ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
25-03
LỄ
TRUYỀN TIN
"Lịch
Roma đã mừng lễ Ngôi Lời nhập thể với danh hiệu gọi từ xa xưa là "Truyền
tin" của Chúa, nhưng lễ này từ xưa và hiện nay vẫn là lễ mừng Chúa Kitô và
Mẹ Ngài : Ngôi lời đã trở thành "Con của Đức Maria" (Mc 6,3) và Maria
trở thành Mẹ Chúa Trời".
"Phụng
vụ phong phú của Đông và tây phương, đối với đức Kitô. Đã mừng lễ Truyền Tin,
nhằm nhắc lại tiếng "Xin vâng" cứu rỗi của Ngôi lời nhập thể, lúc bước
vào đời đã nói: "Lạy Thiên Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Người"
(Dt 10, 7 và Tv 39,8-9) , lễ này cũng kính nhớ giây phút đầu của ơn cứu chuộc với
sự kết hợp chặt chẽ, bất khả phân giữa thiên tính và nhân tính trong một Ngôi Lời".
"Lễ
truyền tin đối với Đức Maria: một Evà mới, trung thành và vâng phục với lời
"Xin vâng" quảng đại (Lc 1,38) do Đức Chúa Thánh Thần. Maria trở
thành Mẹ Chúa Trời và là mẹ của mọi người. Maria cũng là hòm bia giao ước và Đền
thờ Thiên Chúa bởi Mẹ cưu mang Đấng trung gian duy nhất. Lễ truyền tin kính nhớ
sự tự do chấp nhận sự hợp tác với kế hoạch cứu rỗi Đức Maria" (Marialis
culitus 6b)
Như
vậy biến cố Truyền tin. Diễn ra âm thầm giữa sứ thần Gabrie với Đức Trinh Nữ
Maria (Lc 1,26-28) đã mang đến cho toàn thể gia đình nhân loại một Tin vui lớn
lao. Nhân loại không còn chìm ngập trong bóng tối sự chết nữa, bởi vì lời hứa cứu
độ (St 3,15), nay "Vào thời sau hết, Thiên Chúa đã nói với ta nơi một người
con" (Dt 1,2). Biến cố cứu rỗi này kết hợp bởi hai lời "Xin
vâng" tự đời đời của Ngôi Con Thiên Chúa "xin đến để thi hành thánh ý
Thiên Chúa" và trong thời gian của Đức Maria sẵn sàng cộng tác "như lời
thiên thần truyền" (Lc 1,38).
Đến
lượt chúng ta là những kẻ hưởng nhờ hồng ân cứu chuộc chúng ta cũng cần tiếp nối
một lời xin vâng để thực sự trở thành thân nhân của Chúa (Lc 8.21). Đây là đường
nhập thể của sự sống vĩnh cửu nơi mỗi người biết đón nhận Tin vui Cứu độ.
(daminhvn.net)
25
Tháng Ba
Căn Hầm Bí Mật
Một
người hà tiện, bủn xỉn kia có thói quen giữ tất cả vàng bạc và những vật quý
giá trong một chiếc hầm bí mật tự tay ông ta lén lút xây cất dưới nền nhà.
Một
ngày kia, như thường lệ, ông ta lẻn xuống hầm để ngắm những vật quý, nâng niu
những thỏi vàng và những dây chuyền, những cà rá nạm kim cương, hột xoàn to bằng
những hạt đậu. Rủi thay, vì vô ý gài cửa không kỹ, nên bộ phận bí mật vụt bật
lên đóng sầm chiếc cửa cực kì kiên cố lại, chắn lối ra duy nhất.
Dĩ
nhiên không ai trong nhà biết về chiếc hầm bí mật. Vì thế, mọi người đã bỏ cuộc
sau khi lục lạo tìm kiếm ông ta mọi nơi trong nhà cũng như mọi gốc cây, bụi kiểng
ngoài vườn.
Sau
một thời gian dài chờ đợi nhưng không nghe thấy tăm hơi của ông ta ở đâu, người
ta quyết định bán căn nhà. Người chủ nhà mới có ý định sửa chữa lại một vài căn
phòng của ngôi nhà và trong khi các người thợ nề đập một bức tường, người ta
khám phá ra cánh cửa bí mật ăn thông xuống chiếc hầm. Khi những ngọn nến được thắp
lên, người ta không khỏi sợ hãi thấy bộ xương của một người đang đang ngồi bên
cạnh một chiếc bàn con với một số vàng bạc, kim cương bị quăng tung tóe xung
quanh. Có dấu hiệu cho thấy là thậm chí người chết đã phải ăn một cây nến trước
khi bị chết đói.
"Khốn
cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, khốn cho các ngươi là những người tự
cho mình là an toàn trên núi Samaria".
Lời
chúc dữ những người giàu có bất nhân và kiêu căng trên của tiên tri Amos cũng
như những lời Chúa Giêsu chúc dữ những kẻ giàu trong Tin Mừng không phải là những
lời lên án tiền bạc và của cải cách chung. Nhưng đây là những lời nêu lên sự
nguy hiểm của quan niệm kiêu hãnh, của tính tự cao, tự đại và nhất là thái độ
và nếp sống ích kỷ, dửng dưng không để ý đến những người nghèo khổ đang sống
bên cạnh. Ðây là thái độ và nếp sống thường thấy nơi những người giàu có.
Mahatma
Gandhi, người đã đưa dân tộc Ấn Ðộ đến nền độc lập khỏi ách thống trị của Anh
quốc đã tuyên bố một tư tưởng cách mạng có thể đổi mới xã hội: "Trong hoàn
cảnh đói khổ của những người đồng bào, đồng chủng, nếu ta giữ một vật gì mà ta
không cần dùng đến ngay bây giờ thì đó là những của chúng ta ăn cắp".
Sống
trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, tinh thần liên đới và sự sẵn sàng
chia sẻ cơm ăn áo mặc cho những người cần đến là những ngọn đuốc sáng, là những
đức tính giúp người Kitô chúng ta đóng trọn vai trò men trong bột ở giữa xã hội
chúng ta đang sống.
(Lẽ
Sống)
Lectio Divina: Lễ
Truyền Tin
Thứ Tư, 25 Tháng 3,
2015
Giao ước của Thiên Chúa với nhân loại
Lời xin vâng của Đức Maria và của chúng ta
Lc 1:26-38
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Cha nhân từ, trong
thời gian thánh này của cầu nguyện và của lắng nghe Lời Chúa, xin Cha cũng sai
thánh thiên thần của Cha đến để cho con cũng có thể nhận lãnh được lời công bố
về ơn cứu độ và, sau khi đã mở lòng trí con, thì con cũng có thể nói tiếng xin
vâng với Thiên Chúa Tình Yêu. Con cầu xin cùng Cha, xin hãy để cho
Chúa Thánh Thần rợp bóng trên con như một quyền năng tràn ngập. Từ
giờ trở đi, lạy Cha, con không muốn nói một điều khác hơn là lời “Xin Vâng!”
của con và xin thưa cùng Cha: “Này con đây. Xin Chúa hãy
làm trên con bất cứ điều gì Chúa muốn”. Amen.
2. Bài đọc
a) Bối
cảnh đoạn Tin Mừng:
Câu chuyện truyền tin
đưa chúng ta từ đền thờ, nơi thiêng liêng tuyệt hảo, đến căn nhà, đến sự thân
mật của cuộc gặp gỡ riêng tư của Thiên Chúa với tạo vật của mình; câu chuyện
dẫn đưa chúng ta vào trong chính mình, vào trong nơi sâu thẳm nhất của con
người chúng ta, nơi mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể tiếp cận và chạm đến. Lời
loan báo về việc ra đời của thai nhi Gioan Tẩy Giả đã mở ra cung lòng son sẻ
của bà Êlisabéth; do đó, khắc phục được sự bất lực tuyệt đối của loài người và
biến đổi nó thành khả năng cộng tác với Thiên Chúa. Mặt khác, lời
công bố việc giáng sinh của Chúa Giêsu, gõ cửa một cung lòng có khả năng sinh
sản của người “đầy ân sủng” và chờ đợi câu trả lời: chính Thiên
Chúa, Đấng đang chờ đợi câu xin vâng của chúng ta để Người có thể làm tất cả
mọi việc trong chúng ta.
b) Phần trợ
giúp cho việc đọc đoạn Tin Mừng này:
Các câu 26-27: Hai câu đầu tiên đặt chúng ta vào trong thời gian và
không gian thiêng liêng của sự kiện mà chúng ta có thể suy gẫm và hồi tưởng
lại: chúng ta đang ở tháng thứ sáu sau khi Gioan Tẩy Giả được thụ
thai và tại làng Nagiarét, một thành trong xứ Galilêa, đất của những kẻ bị
khinh khi và ô uế. Tại đây Thiên Chúa đã xuống để nói chuyện với một
trinh nữ, để nói chuyện với trái tim của chúng ta.
Những nhân vật dính
dáng trong sự kiện sôi nổi này được trình diện với chúng ta: thiên thần
Gabriel, sứ giả của Thiên Chúa, một thiếu nữ tên là Maria và người phối ngẫu
của cô là ông Giuse thuộc dòng dõi hoàng gia của vua Đavít. Chúng ta
cũng được chào đón vào trong nhóm người này và được kêu gọi tiến vào mầu nhiệm.
Các câu 28-29: Đây là những lời đầu tiên của cuộc đối thoại
giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài. Chỉ cần một vài lời, một hơi
thở đơn thuần, nhưng những lời mạnh mẽ thì làm con tim bối rối, câu hỏi sâu sắc
về ý nghĩa của đời sống con người, các dự án và kỳ vọng. Thiên thần
loan báo niềm vui mừng, ân sủng và sự hiện diện của Thiên Chúa; Đức Maria bối
rối và tự hỏi việc này làm thế nào có thể xảy ra được? Làm thế nào
mà một hồng ân cao cả như thế, có thể thay đổi con người bà, thuộc về bà được?
Các câu 30-33: Đây là những câu trọng tâm của đoạn Tin
Mừng: đó là sự vỡ òa của lời loan báo, biểu lộ của ân sủng Thiên
Chúa, Đấng toàn năng trong đời sống loài người. Thiên thần Gabriel,
thiên sứ, nói về Đức Giêsu: vị vua cai trị đời đời, Đấng Cứu Thế,
Con Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng khiêm nhường. Ngài nói về Đức
Maria, về con trong lòng của bà, về cuộc đời của bà rằng bà đã được chọn để làm
cửa ngõ chào đón Thiên Chúa vào trong thế gian này và vào trong đời sống của
tất cả mọi người. Ngay cả ở giai đoạn này của sự kiện, Thiên Chúa
bắt đầu đến gần, gõ cửa. Người đứng đó, chăm chú, ngay tại cánh cửa
của trái tim Đức Maria; và ngay cả bây giờ tại cửa nhà chúng ta, tại trái tim
chúng ta…
Câu 34: Đức Maria, phải trực diện với đề nghị của Thiên
Chúa, để cho mình trở nên hiển nhiên không giấu diếm, bà để cho mình được đọc
đến nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn mình. Bà nói về chính mình, về tâm
hồn mình, về những ước muốn của mình. Bà biết rằng đối với Thiên
Chúa việc không thể là có thể, bà không nghi ngờ hay cứng lòng trí của mình, bà
không kể đến cái giá phải trả; bà chỉ muốn hoàn toàn sẵn sàng, mở lòng, và để
cho bản thân mình được đạt tới bằng những cách mà loài người nghĩ không thể
được, mà là điều đã được viết, đã được thực hiện trong Thiên
Chúa. Trong một cử chỉ đơn sơ, Đức Maria đặt sự trinh tiết của mình
trước mặt Thiên Chúa, bà không biết đến người nam. Đây là một sự đầu
hàng hoàn toàn và tuyệt đối của bản thân, tràn đầy đức tin và sự tín thác. Đó
là lời nói xin vâng đầu tiên của bà.
Các câu 35-37: Thiên Chúa, trong sự khiêm tốn nhất, đưa ra câu trả
lời, Đấng Toàn Năng nhìn xuống sự mong manh của người phụ nữ này, bà cũng đại
diện cho mỗi người chúng ta. Cuộc đối thoại tiếp tục, mối giao ước
tăng tiến và được củng cố. Thiên Chúa mặc khải phương cách, Người
nói về Chúa Thánh Thần, về việc rợp bóng thụ thai, không có bạo lực, không phá
vỡ, nhưng bảo tồn sự nguyên trinh. Thiên thần lại nói về trường hợp
của bà Êlisabéth, ngài mặc khải cho biết một trường hợp không thể đã trở thành
có thể; hầu như là một sự bảo đảm hoặc chắc chắn. Và rồi đến những
lời cuối cùng khi người ta phải làm một sự lựa chọn: để nhận lời
hoặc từ chối, tin tưởng hay nghi ngờ, thuận thảo hay cứng lòng, mở cửa hoặc đóng
lại. “Không có điều gì là bất khả thi đối với Thiên Chúa”.
Câu 38: Câu cuối cùng dường như chứa đựng một sự vô
định. Đức Maria trả lời “Này tôi đây”, bà mở rộng tâm hồn mình cho
Thiên Chúa và rồi đến cuộc gặp gỡ, sự nối kết xảy ra tồn tại muôn đời. Thiên
Chúa đã nhập thể loài người và loài người trở thành nơi trú ngụ của Thiên
Chúa: đây là một Hôn Ước tuyệt vời nhất có thể có được trên trần
gian. Chưa hết, Tin Mừng kết thúc bằng một chi tiết buồn và mạnh
mẽ: Đức Maria ở lại một mình, thiên thần cáo biệt. Tuy
nhiên, những gì còn lại là một lời xin vâng được nói với Thiên Chúa và sự hiện
diện của Chúa; những gì còn lại là Sự Sống đích thực.
c) Tin
Mừng:
26 Vào tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến
một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, 27 đến với một
trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ
ấy tên là Maria. 28 Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào
rằng: “KÍnh chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh
nữ!” 29 Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào
đó có ý nghĩa gì. 30 Thiên thần liền
thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. 31 Này
trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. 32 Người
sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. 33Người sẽ cai trị đời
đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận.” 34 Nhưng
Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi
không biết đến người nam?” 35 Thiên thần
thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao
sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh
và được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Và này, Isave, chị họ
trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được
sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; 37 vì không có
việc gì mà Chúa không làm được.” 38 Maria liền
thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần
truyền.” Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
3. Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Tôi đã đọc và lắng
nghe lời Tin Mừng. Giờ đây tôi đứng trong yên lặng … Thiên Chúa đang
hiện diện, đang gọi cửa, và xin một nơi trú ngụ, vâng, thậm chí từ tôi và từ
cuộc sống nghèo nàn của tôi…
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
a) Lời loan báo của Thiên Chúa, thiên
thần của Chúa, đi vào cuộc sống của tôi, đứng trước mặt tôi và nói chuyện với
tôi. Tôi có đã chuẩn bị sẵn sàng để chào đón người chưa, tôi có dành
chỗ cho thiên thần, để chăm chú lắng nghe người nói chưa?
b) Đột nhiên, tôi nhận được một lời loan
báo khác thường; Thiên Chúa nói với tôi về niềm hân hoan, ân sủng và sự hiện
diện. Tất cả những điều mà tôi đã luôn bỏ công tìm kiếm bấy
lâu. Ai sẽ là người có thể cho tôi hạnh phúc thực sự? Tôi
có sẵn sàng tín thác vào niềm hạnh phúc và sự hiện diện của người đó không?
c) Không cần nhiều, chỉ cần một chuyển
động của trái tim, của con người tôi; Người đã nhận ra điều
này. Người đã đổ tràn ngập tôi với ánh sáng và tình
yêu. Người nói với tôi: “Con đã được ơn nghĩa trước mặt Ta”. Vì
thế, tôi có đã làm Chúa vui lòng chưa? Người có thấy tôi dễ mến,
đáng yêu không? Vâng, điều đó chính là như thế. Tại sao
trước đây tôi đã không chịu tin điều đó? Tại sao tôi vẫn chưa lắng
nghe lời Người?
d) Chúa Giêsu muốn đi vào thế giới này
qua con người tôi, Người muốn đến với anh chị em tôi qua lối của đời sống tôi,
của con người tôi. Tôi có sẽ dẫn Người đi lạc đường
không? Tôi có sẽ từ chối Người, lảng lánh Người
không? Tôi có sẽ xóa bỏ Người khỏi câu chuyện của tôi, của đời tôi
không?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Một vài chữ quan trọng và mạnh mẽ vang âm trong đoạn Tin Mừng
này
· Hãy vui mừng lên!
Đây là lời chào mừng thực sự kỳ lạ từ Thiên Chúa nói với tạo vật
của Người; dường như có vẻ khó khăn để giải thích và có lẽ thậm chí là vô
nghĩa. Thế nhưng, qua hằng nhiều thế kỷ, nó gây được tiếng vang
trong các trang Kinh Thánh và do đó cũng trên môi của người Do
Thái. Hãy vui mừng lên, hãy hân hoan! Nhiều lần, các tiên
tri đã lặp đi lặp lại hơi thở nhẹ nhàng này của Thiên Chúa và đã hô to nhịp đập
thầm lặng của trái tim Chúa vì dân của Người, phần còn lại của
Người. Tôi đã đọc điều này trong sách tiên tri
Giôen: “Hỡi đất đai, đừng sợ, hãy hoan hỷ vui mừng, vì ĐỨC CHÚA đã
làm những việc lớn lao… (Ge 2:21-23); trong sách tiên tri
Xôphônia: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà
Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi. Án
lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại” (Xp 3:14); trong sách tiên tri
Dacaria: “Hỡi con gái Xion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến
để ở lại giữa ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA! (Dcr 2:14). Hôm nay,
tôi đọc và lắng nghe lời ấy, tôi nói rằng nó vẫn còn trong trái tim tôi, trong
đời tôi; một niềm vui mừng được công bố cho tôi, một niềm hạnh phúc mới, chưa
từng có. Tôi tái khám phá ra những điều tuyệt vời mà Chúa đã làm cho
tôi; tôi trải nghiệm sự tự do đến từ việc tha thứ của Người: tôi không
còn bị án phạt nữa, mà là được ân phúc muôn đời; tôi sống với kinh nghiệm về sự
hiện diện của Chúa bên cạnh tôi, trong tôi. Vâng, Người đã đến ngự
giữa chúng ta; một lần nữa Ngài dựng lều của mình trong miền đất của trái tim
tôi, trong sự tồn tại của tôi. Lạy Chúa, như Thánh Vịnh đã nói, Chúa
vui mừng trong tạo vật của Chúa (Tv 104:31); và con cũng vui mừng trong Chúa,
niềm vui của con là chính Chúa (Tv 104:34).
· Thiên Chúa ở cùng trinh nữ!
Những lời đơn giản và soi sáng này được loan báo bởi thiên thần
cho Đức Maria, thoát ra một quyền lực toàn năng; tôi nhận ra rằng chỉ những lời
này thôi thì cũng đủ để cứu rỗi cuộc đời tôi, để nâng tôi dậy lần nữa từ bất cứ
một vấp ngã hoặc sự tủi hổ nào, để đem tôi trở lại khi tôi đi lạc lối. Sự
thật rằng Người, Thiên Chúa của tôi, ở cùng tôi, giữ cho tôi được sống còn,
mang lại cho tôi sự can đảm và tin tưởng để tiếp tục sống. Nếu tôi
được như thế, đó là bởi vì Chúa đang ở cùng với tôi. Ai mà biết được
rằng kinh nghiệm của ông Isaác được kể trong Kinh Thánh có thể là không có giá
trị đối với tôi, điều tốt đẹp nhất có thể tưởng tượng được mà có thể xảy ra cho
người tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa, khi mà vào một ngày, vua Avimeléc cùng
với các người của nhà vua đã đến nói với ông Isaác rằng: “Chúng tôi đã
thấy rõ là ĐỨC CHÚA ở với ông” (St 26:28) và sau đó xin được làm bạn với ông và
hình thành một liên minh. Có thể nào điều tương tự sẽ nói về tôi;
tôi sẽ có thể cho thấy rằng Chúa thực sự đang ở cùng tôi, trong đời sống tôi,
trong các ước muốn của tôi, trong tình cảm của tôi, trong các sự chọn lựa và
hành động của tôi; có thể nào những người khác sẽ có thể gặp Người qua tôi
không. Có lẽ vì điều này, thật là cần thiết cho tôi hấp thụ sự hiện
diện của Thiên Chúa nhiều hơn nữa, cho tôi rước của ăn và của uống của Chúa.
Hãy để tôi đi học trường Kinh Thánh, để đọc và đọc lại một vài
đoạn nơi mà tiếng của Chúa nói đi nói lại với tôi về sự thật này và, trong khi
Ngài nói, để tôi được chuyển hóa, về tâm hồn hơn bao giờ hết. “Hãy
trú ngụ trong đất này; Ta sẽ ở với ngươi và sẽ chúc phúc cho ngươi” (St
26:3). “ĐỨC CHÚA truyền lệnh cho ông Giosuê, con ông Nun, Người
phán: ‘Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính ngươi sẽ đưa con
cái Israel vào đất mà Ta đã thề hứa với chúng; và Ta sẽ ở với ngươi’” (Đnl
31:23). “Ta sẽ làm cho ngươi nên thành đồng kiên cố đối với dân
này. Chúng có chống lại ngươi cũng chẳng làm chi được, vì Ta ở với
ngươi để cứu sống và giải thoát ngươi” (Gr 15:20). “Thần sứ ĐỨC CHÚA
hiện ra với ông và nói: ‘Chào chiến sĩ can trường! ĐỨC
CHÚA ở với ông’” (Tl 6:12). “Đêm ấy, ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và
phán: ‘Ta là Thiên Chúa của Ápraham, cha ngươi. Đừng sợ,
vì Ta ở với ngươi. Vì Ápraham, tôi tớ của Ta, Ta sẽ chúc phúc cho
ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều’” (St 26:24). “Này Ta ở
với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về
đất này, và Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với
ngươi” (St 28:15). “Đừng sợ hãi: có Ta ở với
ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của
ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn
thắng của Ta” (Is 4:10).
· Đừng sợ!
Kinh Thánh thì có đầy những lời tuyên bố đầy trung hậu này; như
dòng sông của lòng thương xót, những lời này được tìm thấy khắp trong các quyển
sách Thánh, từ Sáng Thế Ký đến Khải Huyền. Chính Đức Chúa Cha là
Đấng lặp đi lặp lại với con cái của Ngài là đừng sợ, vì Người luôn ở cùng họ,
Người sẽ không bỏ rơi họ, Người sẽ không quên họ, Người sẽ không để họ rơi vào
tay quân thù. Nó giống như là một tuyên ngôn tình yêu từ Thiên Chúa
cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta; đó là lời cam kết trung thành được
truyền từ đời này sang đời kia, từ tâm hồn này đến tâm hồn kia, và cuối cùng
thì xuống đến chúng ta. Ông Ápraham đã nghe những lời này và sau đến
con trai ông là Isaác, rồi sau đó đến các tổ phụ, Môisen, Giôsua, vua Đavít,
vua Salômôn, và cùng với họ, tiên tri Giêrêmia và tất cả các tiên
tri. Không ai bị loại trừ khỏi vòng tay cứu độ này mà Chúa Cha ban
cho con cái mình, ngay cả những kẻ rời xa khỏi Ngài, những kẻ chống báng lại
Ngài nhất. Đức Maria biết cách để lắng nghe những lời này và biết
cách tin vào các lời ấy với tràn đầy đức tin, trông một thái độ quy phục tuyệt
đối. Bà lắng nghe và tin tưởng, bà cũng chào đón và sống cho chúng
ta. Bà là người phụ nữ mạnh mẽ và can trường, người đã mở lòng mình
cho Thiên Chúa ngự vào, buông bỏ tất cả những sợ hãi, nghi ngờ và tinh thần
khép kín. Đức Maria lặp lại cùng những lời này của Thiên Chúa trong
đời sống chúng ta và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng như bà đã tin.
· Vui hưởng ân sủng Thiên Chúa
“Lạy Chúa, xin Chúa đoái thương con …” Đây là lời cầu
nguyện mà luôn được thốt lên từ miệng lưỡi và trái tim của những ai tìm kiếm
nơi ẩn náu trong Thiên Chúa; Kinh Thánh nói với chúng ta về những người như thế,
chúng ta gặp họ trong ngã tư đường của mình khi mà chúng ta không biết phải đi
về đâu, khi chúng ta cảm thấy bị săn đuổi bởi sự cô tịch hoặc bởi cám dỗ, khi
chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi, phản bội, thất bại nặng nề về sự tồn tại của chính
chúng ta. Khi mà chúng ta không còn ai bên mình và chúng ta cũng
không tìm thấy chính mình, thì khi ấy, chúng ta cũng giống như họ, thấy mình
cầu nguyện bằng cách lặp lại những lời tương tự: “Lạy Chúa, xin Chúa
đoái thương con…”. Ai mà biết được chúng ta đã lặp lại những lời này
bao nhiều lần, ngay cả khi một mình và trong thinh lặng. Nhưng hôm
nay, tại đây, trong đoạn Tin Mừng đơn giản này, chúng ta được biết trước, chúng
ta được đón chào với sự mong đợi; chúng ta không còn cần phải nài xin, vì chúng
ta đã tìm được tất cả mọi thứ mà chúng ta hằng tìm kiếm và còn nhiều hơn
thế. Chúng ta đã nhận được một cách nhưng không, chúng ta đang bị
choàng ngợp và bây giờ thì có thể tràn đầy.
· Không có việc gì mà Chúa không làm được
Tôi đã đi gần đến cuối cuộc hành trình mạnh mẽ này của ân sủng
và sự giải thoát; giờ đây, tôi bắt gặp một lời làm rúng động tâm tư tôi trong
sâu thẳm của tôi. Đức tin của tôi đang bị sàng lọc; Chúa đang thử
thách tôi, đang nghiệm xét tôi, đang kiểm định lòng tôi. Những gì mà
thiên thần nói với Đức Maria ở đây, đã được công bố nhiều lần trong Cựu Ước;
bây giờ là thời điểm cho việc thực hiện, giờ đây tất cả những việc không thể
xảy ra sẽ xảy ra. Thiên Chúa trở thành người phàm; Chúa trở thành
bạn hữu, anh em; khoảng cách được rút lại rất gần. Và tôi, ngay cả
tôi, nhỏ bé và nghèo hèn như tôi, cũng đang được thông phần trong sự bao la của
món quà này, của ân sủng này; tôi được cho biết rằng trong đời tôi, điều không
thể cũng trở thành có thể. Tôi chỉ cần phải tin tưởng, chỉ cần phải
có sự đồng ý của tôi. Nhưng điều này có nghĩa là tôi phải để cho bản thân
mình bị vỡ vụn bởi quyền năng của Thiên Chúa; để quy phục Chúa, Đấng sẽ biến
đổi tôi, giải thoát tôi và canh tân tôi. Ngay cả đây là điều không
thể. Vâng, tôi có thể được tái sinh hôm nay, tại đây và ngay bây
giờ, bởi ân sủng của tiếng nói đã nói với tôi, tiếng nói đã chạm đến tôi, thậm
chí đến tận đáy lòng tôi. Tôi tìm kiếm và ghi lại các đoạn Kinh
Thánh lặp lại sự thật này. Và như tôi viết xuống những đoạn ấy, như
tôi lặp lại và đọc một cách chậm rãi, nuốt từng chữ, và những gì các đoạn Kinh
Thánh này nói đang xảy ra trong tôi… Sách Sáng Thế Ký 18:14; Gióp
42:2; Giêrêmia 32:17; Giêrêmia 32:27; Giacaria 8:6; Mátthêu 19:26; Luca 18:27.
· Này con đây
Giờ đây, tôi không thể nào thoái thác, cũng không thể nào tránh
né được phần kết luận. Tôi biết từ đầu rằng tại đây, trong lời này,
rất nhỏ nhoi nhưng lại rất đầy đủ, rất dứt khoát, rằng Thiên Chúa đang chờ đợi
tôi. Cuộc hẹn của tình yêu, của sự giao ước giữa Chúa và tôi đã được
sắp đặt một cách chính xác từ lời này, chỉ là một giọng nói nhẹ nhàng, chỉ là
một nụ hôn. Tôi lưỡng lự bởi sự phong phú của sự hiện diện tôi cảm
thấy trong câu “Này con đây!” tôi không cần phải nỗ lực cố gắng nhiều để gợi
nhớ lại số lần mà Thiên Chúa đã lên tiếng trước và lặp đi lặp lại những lời này
với tôi. Đấng ‘Này Con đây’ được làm người phàm, tuyệt đối trung
thành, không thể quên được. Tôi chỉ cần hướng về Người, chỉ cần tìm
thấy dấu chân của Người trên cát của sự nghèo nàn của tôi, trong sa mạc của
tôi; tôi chỉ cần chào đón tình yêu vô biên của Người, Đấng mà không bao giờ
ngừng đi tìm khiếm tôi, để ở gần bên tôi, để cùng bước với tôi đến bất cứ nơi
nào tôi đi. Câu nói “Này con đây” đã được nói lên và được nhận ra,
nó đã là sự thật. Có bao nhiêu người trước tôi và có bao nhiêu người
ngày nay đã có kinh nghiệm này! Tôi không lẻ loi một mình. Tôi
vẫn giữ im lặng, lắng nghe trước khi tôi đáp lời…
“Này con đây!” (1Sm 3:4) Thiên Chúa lặp
lại; Đức Maria thưa lại: “Này tôi là tôi tớ Chúa”; và Đức
Kitô nói rằng: “Này con xin đến làm theo thánh ý Chúa” (Tv 39:8)…
6. Giây phút cầu nguyện: Thánh Vịnh 139
Đáp ca: Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.
Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,
công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì,
khi con được thành hình trong nơi bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể!
Đếm sao nổi, vì nhiều hơn cát;
dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài.
Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.
Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,
công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì,
khi con được thành hình trong nơi bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể!
Đếm sao nổi, vì nhiều hơn cát;
dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài.
Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.
7. Lời nguyện kết
Lạy Cha, Chúa đã từ trời xuống với con, Chúa đã đến với con,
Chúa đã chạm vào trái tim con, Chúa đã nói với con và hứa hẹn niềm hân hoan, sự
hiện diện và ơn cứu rỗi. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Đấng rợp bóng trên
con, cùng với Đức Maria, con đã có thể nói lời xin vâng với Chúa, câu nói ‘Này
con đây’ của đời con dâng lên Chúa. Giờ đây, chỉ còn lại quyền năng
của lời hứa của Chúa, của sự thật: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và đặt tên là Giêsu”. Lạy Chúa, đây là cung lòng cuộc sống
con, của con người con, của tất cả những gì con có, được trải ra trước
Chúa. Con đặt mọi sự trong Chúa, trong trái tim Chúa. Xin Chúa
hãy bước vào, hãy đến, hãy ngự xuống lần nữa, con cầu xin Chúa, và xin hãy làm
cho con sinh hoa kết trái, xin hãy khiến cho con thành người hạ sinh Đức Kitô
vào trong thế gian này. Nguyện xin tình yêu tràn đầy con nhận lãnh được từ
Chúa tìm thấy sự viên mãn và chân lý trong việc chạm vào các anh chị em mà Chúa
đặt để bên cạnh con. Lạy Chúa, nguyện xin cho cuộc gặp gỡ của chúng
ta được mở ra, như một món quà cho tất cả mọi người. Con nguyện xin
cùng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Amen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét