29/03/2015
Chúa Nhật Lễ Lá Năm B
(phần I)
Kiệu Lá:
Bài
Phúc Âm: Mt 11, 1-10
"Chúc
tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu
sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa
vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở
dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con 'Sao các ông làm thế?', thì hãy nói rằng:
'Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'". Hai môn đệ ra đi và gặp lừa
con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những
kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: "Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?"
Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai
ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều
người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước,
người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến.
Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài này: Ga 12, 12-16
Hoan
hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, có đám đông dân chúng đến dự lễ, vừa nghe biết Chúa Giêsu đến Giêrusalem, họ
liền cầm cành lá đi đón Người và tung hô rằng: "Hoan hô, chúc tụng vua
Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!" Chúa Giêsu gặp một lừa con, liền cỡi
lên, như có lời chép rằng: "Hỡi con gái Sion, đừng sợ chi, này vua ngươi cỡi
lừa con đến". Thoạt đầu, các môn đệ Người không hiểu các lời này, nhưng
khi Chúa Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại những lời đó đã chép về Người
và người ta đã làm những điều ấy cho Người.
Ðó
là lời Chúa.
Thánh Lễ:
Bài
Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi
đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải
hổ thẹn".
(Bài
ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Chúa
đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ
kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời
Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng
thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã
không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá,
tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên
Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng:
1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy
Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2)
Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con
chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3)
Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn
tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi
Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4)
Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi
khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể
miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống
Israel!" - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người
đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa
Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được
ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân
phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một
người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập
giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt
trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong
địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô
là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó
là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa
Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế,
Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu.
Bài
Thương Khó: Mc 14, 1 - 15. 47 (bài
dài)
"Sự
Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người
đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.
Hai
ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ
tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
S. "Ðừng làm trong ngày
lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở
Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình
ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có
mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có
thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với
bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hãy để mặc bà, sao
các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các
ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc
nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã
làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong
khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc
bà mới làm để nhớ bà".
C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một
trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ.
Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày
thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua,
các môn đệ thưa Người:
S. "Thầy muốn chúng con
đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"
C. Người liền sai hai môn đệ
đi và dặn rằng:
J. "Các con hãy vào
thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy
vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn
phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con
một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở
đó".
C. Hai môn đệ ra đi vào
thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều
đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa
Giêsu nói:
J. "Ta bảo thật các
con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".
C. Các ông đều buồn rầu và lần
lượt từng người thưa Ngài:
S. "Thưa Thầy, có phải
con không?"
C. Người đáp:
J. "Là một trong mười
hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người,
nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".
C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm
lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy,
này là Mình Ta".
C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ
ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:
J. "Này là Máu Ta, Máu
tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu
nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
C. Sau khi hát Thánh Vịnh,
Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Ðêm nay, tất cả các
con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên
sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các
con".
C. Phêrô thưa Người:
S. "Dù tất cả vấp phạm
vì Thầy, nhưng con thì không".
C. Chúa Giêsu bảo ông:
J. "Thầy bảo thật con:
Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".
C. Nhưng Phêrô càng lên giọng
cương quyết hơn mà rằng:
S. "Không, dầu phải chết
với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả đều nói như vậy.
Ði
đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi lại
đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".
C. Rồi Người đem Phêrô,
Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo
các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn
đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".
C. Tiến xa hơn một chút, Người
phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người
nguyện rằng:
J. "Abba, Lạy Cha, Cha
có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn,
một theo ý Cha".
C. Người trở lại và thấy các
ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
J. "Simon, con ngủ ư?
Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa
chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu
nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt
các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba,
Người trở lại và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy
ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong
tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới
nơi".
C. Người còn đang nói, thì
Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm
giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản
bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
S. "Hễ tôi hôn mặt ai,
thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".
C. Vừa đến, nó liền tới gần
Người mà nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Và chúng
tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém
tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm
giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng
dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời
Kinh Thánh".
C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người
và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ
túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng
điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ.
Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với
đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa
Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng
các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho
Người rằng:
S. "Chúng tôi đã nghe
nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày,
Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".
C. Nhưng chứng cớ của họ
cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa
Giêsu rằng:
S. "Sao ông không trả lời
gì về những điều các người này tố cáo ông".
C. Nhưng Người vẫn thinh lặng
và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:
S. "Ông có phải là Ðấng
Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Phải, chính Ta! Rồi
các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám
mây".
C. Thầy thượng tế liền xé áo
mình ra và nói:
S. "Chúng ta còn cần
chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ
sao?"
C. Ai nấy đều lên án Người
đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà
rằng:
S. "Hãy đoán xem!"
C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô
đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy
Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
S. "Ông cũng theo
Giêsu, người Nadarét".
C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:
S. "Tôi không biết, tôi
không hiểu cô muốn nói gì".
C. Rồi ông đi ra ngoài phía
trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với
những người xung quanh rằng:
S. "Ông này thuộc bọn
đó".
C. Nhưng ông lại chối. Một
lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng ông thuộc bọn
đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".
C. Ông liền nguyền rủa nặng
lời và thề rằng:
S. "Tôi không biết người
mà các ông nói đó".
C. Tức thì gà gáy lần thứ
hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần,
con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
Vừa
tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị.
Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua
dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo
Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời
gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả
lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng
thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị
giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn.
Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn
ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do
lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích
Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta
làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì
nên tội?"
C. Song chúng càng la to
hơn:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa
lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh
vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại.
Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn
chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân
Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy
đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười
Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người
đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở
Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông
vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa
là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống.
Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt
thăm xem ai được phần nào.
Vào
lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng:
Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập
giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh
Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ
nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ
Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá
đi!"
C. Các thượng tế với các luật
sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những
kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập
giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu
đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối
tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema
sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy
Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe
thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi
Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi
nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà
rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có
đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một
tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn
trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người
thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là
Con Thiên Chúa!"
C. Cũng có những phụ nữ đứng
nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và
của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ
Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời
đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở
Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước
Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc
nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế
thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse.
Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào
khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó
bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
Hoặc
đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39
C. Vừa tảng sáng, các thượng
tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa
Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua
dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo
Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời
gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả
lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng
thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị
giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn.
Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn
ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do
lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích
Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta
làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì
nên tội?"
C. Song chúng càng la to
hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa
lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh
vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại.
Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn
chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân
Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy
đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười
Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người
đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở
Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông
vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa
là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống.
Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt
thăm xem ai được phần nào.
Vào
lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng:
Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập
giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh
Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ
nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ
Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá
đi!"
C. Các thượng tế với các luật
sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những
kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập
giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu
đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối
tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema
sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy
Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe
thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi
Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi
nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà
rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có
đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một
tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn
trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người
thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là
Con Thiên Chúa!"
Suy
Niệm: Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Bốn
mươi ngày của mùa Chay đã chấm hết để nhường chỗ cho Tuần Thánh, tuần Khổ nạn của
Ðức Yêsu. Năm nay Người lại vào thành Yêrusalem; Người sẽ được cộng đoàn giáo
dân hoan hô, để rồi lại sẽ bị kết án và tử hình trên Thập giá! Người lại đau khổ
và đang đau khổ qua thân phận làm người của chúng ta.
Nghe
lại những bài đọc Kinh Thánh trong Chúa Nhật mở đầu tuần Thương khó, chúng ta
nhận thấy, hơn bao giờ hết, khuôn mặt của Ðức Yêsu như hiện ra cách rõ rệt, cụ
thể. Người trở nên thật sự "cái đinh" của các nghi lễ Phụng vụ, khiến
ta có thể quả quyết là tất cả mọi tư tưởng, tất cả mọi nhân vật đều đang chú
tâm theo dõi những bước đi của Người.
Thánh
sử Marcô năm nay thuật lại các việc Ðức Yêsu tiến vào Yêrusalem. Cũng như thánh
Matthêu, Luca và Yoan, Marcô ghi lại biến cố này với một sắc thái đặc biệt. Hẳn
chúng ta sẽ ngạc nhiên trước thái độ xem ra có vẻ mâu thuẫn của Người: Người vẫn
khước từ mọi lời tung hô, mọi câu tán tụng và nhất là luôn từ chối nguyện vọng
của dân chúng, khi họ định tôn phong Người lên làm vua (Yn 6,15; Cf Mc 6,45; Mt
14,22). Thế mà, trong bối cảnh thuật lại ở Marcô 11,1-11, Ðức Yêsu chẳng những
không khước từ lời tán tụng, mà còn đóng vai chủ động khi bảo hai môn đệ chuẩn
bị cuộc "đăng quang" cho mình (Mc 11,1-3).
Ngoài
ra, Yêrusalem không phải là một thành phố xa lạ đối với Người: từ lúc bé, Người
đã được cha mẹ đem lên đây để được dâng hiến cho Thiên Chúa (Lc 2,22-39); lúc đến
tuổi thành niên về phương diện tôn giáo, Người cũng đã trẩy hội hành hương
Yêrusalem (Lc 2,41-49); trong suốt gần 3 năm hoạt động công khai, từ mùa xuân
28 đến mùa xuân 30, thánh Yoan cũng đã ghi lại nhiều lần Ðức Yêsu xuất hiện ở
Yêrusalem (Yn 2,23; 7,10-14; 12,12). Nhưng lần này, sự xuất hiện của Người ở
đây mang một ý nghĩa đặc biệt: vào Yêrusalem để thực hiện "giờ" của
Người.
Quả
vậy, đoạn văn của Marcô mở ra cho chúng ta bối cảnh đó: Ðức Yêsu vào Yêrusalem
với tư cách là Vị Thiên Sai của Thiên Chúa, Vị Thiên Sai Thiên Chúa hứa ban cho
Dân Người, Vị Thiên Sai đã từng được loan báo qua các sấm ngôn của Kinh Thánh:
"Dòng
dõi Người sẽ đạp dập đầu ngươi..." (Kn 3,15).
"Vương
trượng sẽ không xa lìa khỏi nhà Yuđa, chiếc gậy thủ lãnh cũng sẽ không rời khỏi
chân Người, cho đến khi xuất hiện..." (Kn 49,10).
"Ngay
trong dân tộc ngươi, ngay giữa anh em ngươi, Yavê Thiên Chúa sẽ gầy dựng cho
ngươi một vị tiên tri như Ta! Các ngươi phải nghe theo Người!" (Tl 18,15).
"Ta
sẽ củng cố ngai báu của Người đến muôn đời..." (2S 7,12-16).
"Hỡi
thiếu nữ Sion, hãy hân hoan!
Hỡi
thiếu nữ Yêrusalem, hãy reo hò!
Này
đây Vua ngươi đến cùng ngươi..." (Za 9,9).
Nhưng
có thật Ðức Yêsu là Vị Thiên Sai mà mọi người mong đợi không?
Thánh
Marcô trong bài ghi lại việc Ðức Yêsu vào Yêrusalem (11,1-11) và cuộc thọ hình
của Người (14,1-15,47) sẽ soi sáng cho chúng ta tìm được lời giải đáp thỏa đáng
cho câu hỏi trên:
"Ðấng
Thiên Sai đến như một nô bộc!"
1.
Ðấng Thiên Sai Ðến
Việc
Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem không những khiến chúng ta liên tưởng đến những cuộc
đăng quang hay kinh lý của các hoàng đế La Mã, Hylạp ngày xưa, mà còn như diễn
lại cảnh lên ngôi của các vị vua trong lịch sử Dothái.
Ðavít
đã ra chỉ thị rõ rệt về việc đăng quang của Salômon:
"Các
ngươi hãy cho đoàn phòng vệ tháp tùng rồi hãy đặt Salômon ngồi trên chính con lừa
của ta, đoạn dẫn người đến thung lũng Ghikhon..." (1V 1,33).
Hoặc
trong bối cảnh Yêhu được đặt làm vua, Thánh Kinh thuật lại:
"Tức
thì họ cởi áo choàng của mình ra và trải dưới đất người. Họ thổi tù và và la
to: "Yêhu là vua!" (2V 9,13).
Khi
ghi lại biến cố trên, chắc hẳn Marcô như muốn trình bày cho ta thấy rõ chính
dân Yêrusalem đã tiếp đón Ðấng Thiên Sai và rước Người vào thành của mình.
Ngoài
ra, hai từ ngữ quan trọng của Marcô giúp ta thêm xác tín về thân thế và sứ mạng
của Ðức Yêsu: đó là tước hiệu "Chúa" mà chính Ðức Yêsu gán cho mình,
cũng như lời hoan hô của dân chúng: "Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh
Chúa mà đến".
Marcô
sử dụng danh từ "Chúa" (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để
chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, hoặc dùng trong
ngôn ngữ xã giao hằng ngày... như tiếng "ông", tiếng "Ngài"
của chúng ta chẳng hạn hoặc để chỉ Ðức Yavê Thiên Chúa theo bản dịch LXX, và
khi nói về Ðức Kitô thì từ ngữ thông dụng nhất là "Thầy" hoặc
"Con Người", chứ không phải là "Chúa". Câu 3 đoạn 11 là trường
hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ "Chúa" được áp dụng
cho Ðức Yêsu, mà lại do chính Người nói về mình.
"Nếu
có ai hỏi chúng con: "Tại sao các ông làm như thế?", thì các con hãy
đáp: "Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau" (Mc 11,3).
Ðó
chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng
thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức
Kitô Phục sinh: "Chúa Yêsu Kitô".
Ðồng
thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng mang một ý nghĩa rõ rệt:
"Hosanna!
Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến" (Mc 11,9).
Trong
khi Luca lại ghi:
"Chúc
tụng Ðức Vua..." (Lc 19,38).
Các
lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Yêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai
đang đến với Dân Người.
Lời
hoan hô đó là tiếng nói thoát ra từ tâm tình Thánh vịnh ca ngợi 118,25-26. Dân
Dothái thường hát bài tán tụng này vào các dịp đại lễ, đặc biệt dịp lễ Vượt qua
để tán dương Thiên Chúa.
Hosanna!
Xin hãy thi ân! (2S 14,4).
Có
nghĩa: Xin hãy cứu tôi!
Xin
dủ tình ban ơn cứu độ!
Trong
khung cảnh tưng bừng, giữa tiếng ồn ào náo nhiệt của dân chúng, Marcô ghi thêm:
"Ðức Yêsu đã tiến vào đền thờ Yêrusalem".
Người
đến như một Vị Thiên Sai. Dân chúng đón tiếp Người với nghi lễ xứng đáng dành
cho một Vị Thiên Sai như thấy mô tả trong Kinh Thánh (Za 9,9), nhưng bí mật vẫn
bao trùm trên Người:
"Sau
khi quan sát chung quanh,
và
vì trời đã về chiều,
Người
ra khỏi thành để trở về Bêthania với 12 môn đệ!" (Mc 11,11).
Dân
chúng hoan hô Người! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê, một
Ðavít, một Salômon xưa, hoặc như một lãnh tụ trong ngày công khai ra mắt, nhưng
tại sao Người không lưu lại Yêrusalem, hoặc tại sao không đọc một tuyên ngôn vạch
rõ chương trình hoạt động?
Người
đã khiến đám dân ủng hộ mình phải thất vọng, hoặc chính Người đã phải chua chát
trước thái độ vụ hình thức và không hiểu biết của họ...? Hầu như để bổ túc và
giải đáp bí ẩn đó, Marcô mới mời gọi chúng ta nghe thuật lại cuộc Khổ nạn của
Người (Mc 14,1-15,47).
2.
Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Quả
thật dân chúng đã không gặp được nơi Ðức Yêsu vinh hiển vào Yêrusalem như một
Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, cũng như không tìm thấy nơi Người
khuôn mặt kiêu hãnh của một vị lãnh tụ, khả dĩ đáp lại nỗi chờ mong của họ.
Ðức
Yêsu đã vào Yêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Sự
thật quá phũ phàng!
Có
lý nào Ðấng Thiên Sai toàn dân mong đợi trông lại thê thảm và tầm thường như thế?
Bằng
một lối tả chân sống động, Marcô loan báo cho ta việc Thiên Chúa thực hiện
chương trình cứu rỗi một cách "tréo cẳng ngỗng", không ai có thể ngờ!
Ngoài
vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Ðệ nhị Isaia mà Ðức Yêsu đã sống
lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại
cho chúng ta, sau biến cố vào Yêrusalem, đó là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức
Yêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!
Marcô
đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Yêsu sau những
tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà
ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh!
Tại
Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người,
thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).
Lúc
Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát
cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một
môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn
chối từ (Mc 14,62-71). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy
lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của
mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối:
Ngoài
ra, đóng vai thân phận người nô bộc Yavê "bị hành hạ, nhưng Người vẫn
khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con trừu bị điệu đi giết,
như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng"
(Is 53,7).
Qua
sự im lặng lạ kỳ này, Ðức Yêsu, như muốn mời gọi và khiêu khích tính tò mò của
ta:
"Ông
ấy có phải là Ðấng Thiên Sai thật không?"
Những
ai chờ đợi nơi Người những hành động phi thường, những biện bác hùng hồn, chắc
hẳn đã thất vọng! Vì nếu họ không hiểu được Người, làm thế nào có thể khiêm nhường
và im lặng khám phá ra ý nghĩa của nghịch cảnh khổ giá mà Người sẽ chịu sau
này?
Trước
cảnh lạ đời ấy, có lẽ chỉ có "những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những
kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ,
những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói" (Lc 4,18; Cf Is
61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị
đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.
Ðức
Yêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người nô bộc; chân lý
đó sau này trong tư thế của "con người ngã ngựa", Phaolô sẽ xưng tụng
bằng bài ca tuyệt tác trong Ph 2,6-11 mà lịch sử Giáo hội không ngớt loan truyền
và làm chứng. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Yêrusalem
xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của
dân Dothái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên
Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua
cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.
Giảng Lễ
Ngày
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Yêrusalem. Dân chúng đã đón
rước Người như trong một cuộc khải hoàn. Họ chặt lá, cởi áo trải ra đường để
Người đi qua. Họ tung hô chúc tụng Người là Con Vua Ðavít, là Ðấng đến nhân
danh Thiên Chúa. Họ muốn lần này Người dứt khoát tuyên bố mình là Thiên Sai và
thiết lập triều đại mới cho dân tộc đã từng bao năm chờ đợi được giải phóng.
Nhưng
nhìn vào Chúa, những người có kinh nghiệm thấy ngay khuôn mặt Người không diễn
tả những cảm tình của quần chúng. Người không đến đáp lại những chờ đợi trần
gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con
lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng
chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một
cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ tôn nghiêm của Ngôi
Ðền Thờ. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng
nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền
thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương khó tường thuật cuộc Thụ khổ như
chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục
trên Thập giá.
Hôm
nay kỷ niệm việc Chúa vào thành, Phụng vụ muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến
khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy
trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, chúng ta đã rõ. Nhưng hôm nay, Giáo hội
muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải
theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh. Thế mà có
nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng
Dothái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan
trong ngày Chúa nhật Lễ Lá� nhưng như trong
bài Thương khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh
Chúa. Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những
con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống
trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Yêsu là nhà tiên
tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà
còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người
lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước
đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ:
xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì
đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng
cao cả của Người.
Dĩ
nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Dothái trên. Nhưng có
thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến
nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền. Mùa Chay khuyến khích,
đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người
khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình
chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa
không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống
lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không
theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mài có thể
bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo
Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi,
tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực
thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy
người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không. Chỉ có Ðức Maria và một
số người rất ít.
Như
vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình.
Ðiều cốt yếu trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra
tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của
Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.
Cuộc
sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với
Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi
nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định
chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì
dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai
bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần
Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không
chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống
thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước
hạnh phúc trường cửu của mình.
Người
biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy
sinh tư kỷ cho hạnh phúc của đồng bào, làm gương và giúp ích được cho việc xây
dựng quê hương dân tộc. Chúa Yêsu biết trước môn đệ của mình nhút nhát, sợ đi
vào con đường Thập giá. Nhưng Người đã hứa ban Thánh Thần cho các ông sau khi sống
lại. Và quả thực, khi nhận được Thánh Thần rồi, các tông đồ không còn ham sống,
sợ chết nữa, nhưng nhiệt thành xả kỷ theo chân Chúa tiếp tục việc cứu thế. Ngày
nay, chúng ta cũng có ơn Thánh Thần để sẵn trong mầu nhiệm Thánh Thể, để ai có
lòng tin nhận lấy, sẽ được thêm tinh thần của Ðức Kitô, không ngại xả thân cứu
đời, và hằng lập đi lập lại câu nói diễn tả đường lối Thánh Kinh, đường lối dẫn
đến hạnh phúc chân thật: "Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh
quang". Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với
Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.
Hôm
nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta
xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có
như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của
Người.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Lễ Lá, Năm B
Bài đọc: Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mk 14-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu
Kitô
Con
người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng
huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế,
con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử
thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên
Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan
khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình
luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện
như vậy.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng
Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người
Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi
những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu
phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên
Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong
Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài
gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người
Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/
Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ;
nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào
hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của
Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người
Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người
ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc
phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.”
1.2/
Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy
chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo: sức
khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường … Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài
việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ những ai đang phải
chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một
người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người
đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/
Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải
qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/
Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh
Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu
Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức
Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài
là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này
làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi
thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm
trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền
tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con
đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
2.2/
Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì
không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một
hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn
ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa
Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu:
“Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người”
(Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng
vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/
Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của
Chúa Giêsu theo Thánh Marcô
3.1/
Chuẩn bị Cuộc Thương Khó: Hai
ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách
dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ,
kẻo dân chúng náo động."
Lễ
Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư. Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày sau Lễ Vượt
Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người Do-thái
nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khỏang 15 dặm của Jerusalem, phải
lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath áp dụng cho các lễ này. Các
thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp rất đông ở
Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải cầu viện
với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là tại cứ điểm
Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có thể lên tới
2, 3 triệu người, cứ 10 người sát tế một con chiên. Lễ Vượt Qua có lịch sử
trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong đêm này, sứ thần
của Thiên Chúa sẽ vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập;
nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần sẽ băng ngang qua và không
vào tàn sát.
Trong
Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu một Lễ
Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha;
ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết,
nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ
về cho Thiên Chúa.
(1)
Xức dầu thơm táng xác Chúa và sự phản bội của Judah Iscarioth:
-
“Lúc đó, Chúa Giêsu đang ở làng Bethany, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người
dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm
cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.”
Bethany là một làng nhỏ, nơi mà Chúa thường xuyên lui tới và cho Lazarus sống lại.
Làng này nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Jerusalem, và được kể như vùng ngọai
ô. Khách tới Jerusalem dự lễ có thể hợp pháp trú ngụ tại đây để mừng lễ. Ai là
người phụ nữ đã tỏ hành động yêu thương này với Chúa Giêsu? Có người cho là
Mary, em của Martha, người ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe lời Người, khi
Chúa Giêsu đến dùng bữa với hai chị em lần trước. Theo lệ thường, họ chỉ rửa
chân và xức vài giọt nước hoa trên đó; nhưng người phụ nữ này dường như đã biết
trước những gì sẽ xảy ra cho Chúa Giêsu, cô đập tan nát bình để lấy dầu thơm đổ
trên đầu Người.
-
Phản ứng của khách dự tiệc: Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau:
"Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm
quan tiền mà bố thí cho người nghèo." Rồi họ gắt gỏng với cô. Bethany còn
được mệnh danh theo tiếng Do-thái là “nhà của người nghèo, beth aôni.”
Có lẽ đó là lý do mà người ta gắt gỏng với cô. Ba trăm quan là một số tiền lớn,
tương xứng với 300 ngày làm việc.
-
Phản ứng của Chúa Giêsu: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy
vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh
mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng
có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để
chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu
trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới
cô." Chúa Giêsu biết rõ ý định của người phụ nữ: ướp xác khi Ngài còn đang
sống. Có những lúc cần phải tiêu những món tiền lớn để tỏ tình yêu và sự quan
tâm đến người mình yêu; chứ không phải lúc nào cũng so đo tính tóan hơn thiệt.
Những gì Chúa Giêsu nói tiên tri trở thành hiện thực. Người phụ nữ tỏ tình yêu
cho Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử; mỗi năm, cô đều được mọi người công khai nhớ
tới.
-
Ngược lại với tình yêu chân thành và không tính tóan hơn thiệt của người phụ nữ
là hành động tính tóan và phản bội của Judah Iscarioth: “một người trong Nhóm
Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng
và hứa cho tiền. Judah liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” Trình thuật của
Matthew nói rõ số tiền bán Chúa là 30 đồng tiền bạc (Mt 16:15). Gioan nói rõ
Judah là quản lý của Nhóm Mười Hai, và thường ăn bớt tiền để tiêu riêng (Jn
12:6). Chúng ta phải rất cẩn trọng, vì lòng ham mê tiền bạc làm con người coi
thường tín nghĩa; nó có thể làm con người quay lưng lại với sự thật, tình yêu,
và sự trung tín.
-
Có người cho sở dĩ Judah hành động như thế là để bắt Chúa Giêsu phải ra tay
hành động như một Đấng Thiên Sai uy quyền mà dân chúng mong mỏi; nhưng khi
Judah tìm ra sự thật – Chúa chết đau khổ thực sự - thì đã quá muộn, hắn quăng
tiền trở lại cho người trả hắn; và xấu hổ ra đi thắt cổ tự vẫn! (Mt 27:3-5).
(2)
Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt
Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy
ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
-
Chúa Giêsu luôn sẵn sàng mọi sự, Ngài không để sự gì “nước tới chân mới nhảy.”
Giống như khi Ngài chuẩn bị để có một con lừa để cỡi khi long trọng vào Thành,
Chúa Giêsu cũng chuẩn bị sẵn một căn phòng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ.
Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một
người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào,
các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt
Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng
rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho
chúng ta." Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người
đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
-
Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua và lời tiên đóan phản bội: “Chiều đến, Đức Giêsu
và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật
anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy."
Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một
đĩa với Thầy. "
-
Phản ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế họach của Thiên Chúa.
Ngài có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi
bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng
Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự
do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi
theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng
sinh ra thì hơn!”
-
Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người:
"Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai
trong trình thuật của Marcô, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông
có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
(3)
Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy
cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi
trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là
máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ
Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới
trong Nước Thiên Chúa." Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra
núi Ôliu.
-
Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những
gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải
dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được
những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé
chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn
Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng
xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến
cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ
Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
*
Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra
như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ
ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
*
Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo
Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người
Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước
cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một
Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội
cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên
Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của
Chúa Giêsu sắp đổ ra.
-
Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết,
nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá,
nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài
cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
(4)
Chúa Giêsu tiên đoán sự phản bội của các môn đệ: Chúa Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì
Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau
khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em."
-
Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ,
biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy
của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn
sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
-
Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có
vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông:
"Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì
chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết
hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả
các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy
ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình.
Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình
nói.
(5)
Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Ghetsemane: Sau đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là
Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu
nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt
đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn
đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức." Trong giờ hấp hối trước Cuộc
Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với
các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn
mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn,
Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ mình:
-
Cầu nguyện lần thứ nhất: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu
xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Abba, Cha
ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con
muốn, mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi
những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin
Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của
Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của cuộc đời, con người
cũng sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng vắng mặt. Trong những
lúc như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết.
Rồi
Người trở lại tìm sự an ủi nơi con người, Ngài thấy các môn đệ đang ngủ, liền
nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh
em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,
nhưng thể xác lại yếu đuối." Con người hứa hẹn rất nhiều, nhưng khi cần sự
an ủi, chẳng có một ai. Trước giờ kinh hoàng sắp xảy đến, các ông vẫn ngủ; dù
chỉ một giờ Chúa cần để cùng thức với Ngài, các ông cũng không thức nổi. Chúa
nhắc nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không nghe
thấy: Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì hăng
hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người không
chuẩn bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
-
Cầu nguyện lần thứ hai: Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người
trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời
làm sao với Người.
-
Cầu nguyện lần thứ ba: Sau khi cầu nguyện, Người trở lại và bảo các ông:
"Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người
bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
3.2/
Cuộc Thương Khó bắt đầu:
(1)
Sự phản bội của Judah: Hắn
biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với
các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì chính là
người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại gần Người
và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái
hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói
quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình.
Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca,
Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy
chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
-
Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được
nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với
tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
-
Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy
gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các
ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm."
-
Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Bấy
giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và
phải chịu thiệt thân.
(2)
Cậu thanh niên theo Chúa bỏ chạy: “Trong
khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai.
Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.”
Ai
là người thanh niên này? Trước hết, hai câu này chỉ có trong Marcô mà thôi. Phải
có lý do tại sao câu này chỉ có trong trình thuật của Marcô. Nhiều người suy
đoán cậu thanh niên này chính là John Marcô, tác giả Tin Mừng Marcô. Khi những
điều này xảy ra, cậu vẫn còn nhỏ; và nhà cậu ở không xa chỗ Chúa Giêsu dùng Lễ
Vượt Qua bao nhiêu (Acts 12:12). Có người cho cậu thấy Judah dẫn người Do-thái
đến bắt Chúa Giêsu tại nơi dùng Lễ Vượt Qua. Khi nghe Judah nói sẽ dẫn họ tới
Vườn Ghetsemane, cậu vội cuốn tấm vải gai vào người và chạy vội đi loan báo cho
các môn đệ trong đêm tối; nhưng khi đến nơi, họ đã tới trước cậu. Có người cho
cậu đã có mặt trong Vườn Ghetsemane với Chúa ngay từ đầu. Đó là lý do cậu chứng
kiến toàn thể cuộc hấp hối của Chúa Giêsu và tường thuật lại chi tiết, vì các
môn đệ đều ngủ cả; và Chúa Giêsu không có cơ hội để nói lại cho các môn đệ, nhất
là Phêrô, Thầy của Marcô.
Hai
câu này có lẽ thuộc về Marcô. Cậu muốn cho mọi người biết cậu là nhân chứng khi
những điều này xảy ra. Có lẽ vì khiêm nhường, cậu không muốn mọi người biết tên
cậu.
(3)
Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được
coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế,
kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo
của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải
họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật
không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người
ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được
điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi
thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người
trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được
thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu
cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử
Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
Bấy
giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu
để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố
cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
-
Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có
nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba
ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng
ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng
gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c
Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ
thân thể của Ngài.
-
Tội phạm thượng: Vị Thượng Tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô,
Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính
thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời
mà đến." Vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì
nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ
sao?"
Vị
Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không
cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể
liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi
đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa
Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự
thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời,
Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại
cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc
tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài
chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương
Khó.
Nghe
lời Vị Thượng Tế buộc tội Chúa Giêsu, tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là
một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa
nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
(4)
Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào
tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai
cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong
dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
-
Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế
đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa,
bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền
chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra
phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy,
cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
-
Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng
đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối.
-
Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng
là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền
thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người
các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều
Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy
đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu
Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không
dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình,
và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng
cho Chúa Giêsu.
(5)
Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vừa
tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể
Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền
ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa
Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho
Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến
về tôn giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị
để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi
xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế
Caesar.
-
Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân
Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng
tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời
gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu
không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Câu
trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng "Đúng
như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo
nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà
thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc
về thế gian này ... ” (Jn 18:36).
-
Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabba: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông
thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên
là Barabba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi
dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ
yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua
dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp
Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên
Barabba thì hơn.”
-
Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy
ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la
lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng
ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập
giá!"
-
Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích
tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập
giá.
-
Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức
là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo
điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào
Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu
Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều
ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh
vào thập giá.”
-
Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền
quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alexandre
và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi
gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng
Người không uống.”
(6)
Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá:
-
Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập giá,
rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng
đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người
Do-thái." Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải,
một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những
tên phạm pháp).”
-
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá
Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được,30 có giỏi thì xuống
khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
-
Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn
cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập
giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng
đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
-
Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất
mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: "Eloi,
Eloi, lama sabacthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của
con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói:
"Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển,
thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem
ông Elijah có đến đem hắn xuống không."”
-
Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt
thở.Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
-
Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa."
-
Các phụ nữ dưới chân Thập Giá: 3 phụ nữ? Đức Mẹ Maria? Nhiều bà khác?“ Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Magdala, bà Maria mẹ
các ông Giacôbê Thứ và Joseph, cùng bà Salômê. 41 Các bà
này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilee. Lại có nhiều bà
khác đã cùng với Người lên Jerusalem, cũng có mặt tại đó.”
(7)
Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu:
-
Ông Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ,
tức là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành
Arimathea, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi
Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi
hài Đức Giêsu.”
-
Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết,
ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người
đã chết lâu chưa.Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho
ông Joseph lãnh lấy thi hài.”
-
Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu xuống,
lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi
lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph, thì để
ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
-
Đau khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những người
đồng cảnh ngộ.
-
Qua Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự gian
dối ác độc của con người.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
29/03/15 CHÚA NHẬT LỄ
LÁ – B
Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa
Mc 11,1-10
Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa
Mc 11,1-10
Suy niệm: Dân
chúng Giê-ru-sa-lem vừa reo hò tung hô Đức Giê-su: “Hoan hô Đấng ngự đến nhân
danh Đức Chúa” trong ngày Ngài vào thành thánh cách trọng thể, thì ít ngày sau,
cũng chính họ lại nhao nhao tố cáo và kết án tử cho Ngài. Nghi thức kiệu lá và
bài Thương Khó trong phụng vụ thánh lễ ngày Lễ Lá nêu bật tính cách tương phản
ấy. Lòng người thay đổi thật nhanh nhưng đồng thời cũng thật dễ bị giật dây, bị
tác động. Họ dễ dàng hoà mình vào cái hào khí của đám đông để hoan hô, chúc
tụng Đức Giê-su như Đấng Mê-si-a mà họ đang đợi trông. Liền sau đó, họ cũng
thật vô ý thức và hèn nhát hùa theo đám đông để đả đảo, đòi lên án tử hình cho
Đấng vô tội.
Mời Bạn: Chúng
ta vừa chứng kiến một sự sai lầm ghê gớm dẫn đến hậu quả là kết án và giết chết
Đấng Cứu Thế. Lắm khi chúng ta cũng áp dụng cung cách sống đó như khuôn vàng
thước ngọc để khỏi chuốc lấy bao sự rắc rối: Phán đoán theo chiều gió của dư
luận, hành xử theo kiểu ‘ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi làm theo’. Chính vì vậy
mà chúng ta không dám tuyên xưng đức tin, không dám bênh vực cho lẽ phải, trái
lại, về hùa với số đông, kết án đối xử tệ bạc với những anh chị em thấp bé,
nghèo hèn.
Chia sẻ: Có
khi nào bạn thấy một người chịu cảnh bất công mà bạn không dám lên tiếng bênh
vực?
Sống Lời Chúa: Ta
đừng kết án để khỏi bị kết án.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bản tính con người yếu đuối của con hay xúi giục con lên
án, đổ lỗi cho người khác. Xin đừng để con lên án một ai nữa, để ngay bây giờ
con đáng được Chúa thứ tha. Amen.
Xin
đừng theo ý Con (29.3.2015 – Chúa nhật Lễ Lá, Năm B)
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui,
nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Ðức Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa.
đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Ðức Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa.
đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó,
và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.
và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.
Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Ðức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Ðức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng:
Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Ðức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Ðức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng:
Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.
Ðôi mắt với cái nhìn bao dung ấy
nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.
Ðôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.
Ðôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.
Ðôi mắt với cái nhìn bao dung ấy
nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.
Ðôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.
Ðôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.
Ðức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?
Ðức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.
Ðức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?
Ðức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29
THÁNG BA
Một
Viễn Tượng Mới Về Lịch Sử Nhân Loại
Mầu
nhiệm Vượt Qua là thực tại thần linh đơn nhất chứa đựng cả Nhập Thể và Cứu Chuộc
– được Thiên Chúa mạc khải cho con người. Mầu nhiệm này được Thiên Chúa mạc khải
cho trái tim và lương tâm của mỗi người trong chúng ta. Mỗi người trong chúng
ta đều dự phần trong mầu nhiệm xuyên qua di sản tội lỗi vốn dẫn con người – từ
thế hệ này sang thế hệ khác – đến sự chết. Mỗi người trong chúng ta đều tìm thấy
trong thực tại này sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
Mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô không chấm dứt ở cái chết tự hiến của Người.
Nó không thể bị phủ lấp bởi tảng đá lớn mà người ta lăn ra để đóng kín ngôi mộ
sau cái chết của Đức Giêsu trên đồi Gôn-gô-tha.
Vào
ngày thứ ba, tảng đá này sẽ được lăn ra khỏi bởi quyền năng Thiên Chúa, và nó sẽ
bắt đầu “cất tiếng lên”. Tảng đá cất tiếng lên để nói như Thánh Phao-lô:
“…Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn dương Người và tặng ban cho Người một danh hiệu
vượt quá mọi danh hiệu, để khi nghe Danh Giê-su, mọi vật trên trời dưới đất và
trong địa ngục đều phải quì gối sập lạy, và mọi miệng lưỡi đều phải tuyên xưng
rằng Đức Giê-su Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11). Như vậy, sự cứu chuộc cũng có nghĩa
là sự tôn dương.
Sự
tôn dương của Đức Kitô – tức cuộc Phục Sinh của Người – đem lại cho chúng ta một
viễn tượng hoàn toàn mới về lịch sử nhân loại. Do kế thừa di sản tội lỗi, con
người vốn ở dưới ách thống trị của sự chết. Nhưng Đức Kitô đã mở ra cho chúng
ta kỷ nguyên của sự sống vượt thắng sự chết. Sự chết là một phần của thực tại
thế giới hữu hình. Nhưng sự sống thì ở chính nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự
sống nói với chúng ta xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Con Ngài.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
29-3
Chúa
Nhật Lễ Lá
(Tưởng
niệm cuộc Thương Khó của Chúa)
Làm
phép và rước lá
Mc
11,1-10.
Đấng
Cứu Độ
Từ
Giê-ri-khô, Chúa Giêsu ‘lên” Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn người dự lễ Vượt Qua.
Trong số này, có người từ Ga-li-lê. Nhận ra Đức Giêsu trong đám hành hương, họ
nghĩ rằng: Người sẽ để dân chúng tôn Người làm Đấng Mê-si-a.
Cho
đến thời điểm này, Chúa Giêsu luôn từ chối để người ta tôn mình làm Đấng
Mê-si-a, vì họ chờ đợi một sự giải thoát khác với điều Người đem đến cho họ.
Nhưng vào lúc này, sứ vụ của người sắp chấm dứt, thì đã đến giờ Đức Giêsu phải
tỏ mình ra cách công khai: Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, và sau Người sẽ
không còn Đấng nào khác.
Đức
Giêsu được Thiên Chúa sai đến với mọi dân tộc, nhưng tiên vàn Người đến như Đấng
Cứu Độ của dân Ít-ra-en. Người đã đến đúng vào thời điểm dân tộc này cần được cứu
độ, vì mọi sự ngày càng xấu hơn. Các Ngôn sứ đã loan báo một vị Vua hiền hòa, đến
viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa như người dân đơn sơ hiền hòa,
thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân. Vì thế, Chúa Giêsu đã quyết định
đi vào thành Giê-ru-sa-lem theo cách thức ấy. các người Ga-li-lê tỏ ra hồ hởi đến
ồn ào náo động nhưng Người không lôi cuốn được cư dân trong thành.
Người
Do-thái không nghĩ rằng Đấng Cứu Độ của họ lại đến một cách khiêm tốn như thế.
Suốt dòng lịch sử, nhiều lần Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi cảnh áp bức, đói
khát bởi những người Thiên Chúa sai tới. Lần này Đấng Cứu Độ đích thân đến chỉ
cho họ con đường cứu độ là tha thứ và bất bạo động, nhưng họ đã không nhận ra
Người. Ngay cả những người Ga-li-lê đang hoan hô nghênh đón Người. (chú giải
trong sách Lời Chúa cho mọi người).
Lạy
Chúa Giêsu, hôm nay chúng con đang cầm trên tay những cành lá vừa đi vừa tung
hô Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin và tung hô
Chúa trong mọi lúc và mọi nơi chúng con đang sống: Chúa là Đấng Cứu Độ con.
Thánh
Lễ
Is
50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 14,1-15,47.
LỜI
SUY NIỆM: Tôi
bảo thật các ông: :Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì
nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”
Chúa
Nhật lễ Lá mở đầu cho Tuần Thánh. Giáo Hội mời gọi con cái của mình thể hiện
tình yêu Chúa. Muốn thể hiện tình yêu Chúa, chúng ta phải khám phá và cảm nghiệm
được tình yêu của Chúa đối với chúng ta, muốn kiểm chứng điều này, chúng ta cần
phải xét mình lại, những gì mình đã sống, đã xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến những
người chung quanh, những người thân trong gia đình, và chính với bản thân mình.
Xét mình lại với những bổn phận mình phải thực hiện mà mình chưa chu toàn,
nhưng với Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã vì yêu thương con người, yêu thương chúng
ta đã thí mạng vì chúng ta. Chuộc tội chúng ta. Khi đó chúng ta mới thấy tình
yêu của Chúa chúng ta là quan trọng và cần thiết cho chúng ta, giúp chúng có sự
đáp trả tình yêu với Chúa một cách chân tình sốt sắng
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con yêu mến Chúa trên hết
mọi sự, để chúng con sống xứng đáng với ơn Cứu Độ của Chúa.
Mạnh
Phương
29
Tháng Ba
Khúc Nhạc Tuyệt Vời
Một
đêm kia, ông Paganini, một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng vào thế kỷ 19 bước ra sân
khấu và chỉ khám phá nhạc khí ông đang cầm trên tay có cái gì bất bình thường
sau khi những tràng pháo tay của khán giả ngưỡng mộ ông nổi lên vang dậy và chấm
dứt. Nhìn kỹ lại chiếc đàn lần thứ hai, nhạc sĩ Paganini mới nhận thấy đây
không phải là cây vĩ cầm tuyệt hảo quen thuộc đã đưa ông lên đài danh vọng.
Ông
đứng bất động trong giây phút, rồi bắt buộc phải lên tiếng xin lỗi khán giả
đang nóng lòng chờ đợi nghe những điệu nhạc tuyệt diệu của ông. Paganini giải
thích: "Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây phút vì
tôi đã lấy lộn cây đàn". Cáo lỗi xong, Paganini lách mình sau bức màn sân
khấu và yên trí là cây đàn bất hủ của mình vẫn nằm nơi ông đã đặt nó. Nhưng ông
không khỏi bàng hoàng khi nhận ra là có người đã đánh cắp nhạc khí quý giá của
ông khỏi thùng đàn và đã đặt một cây đàn rẻ tiền khác thay thế vào. Nhạc sĩ
Paganini đứng yên như bức tượng một hồi lâu rồi như một ý nghĩ gì lóe lên trong
trí óc, ông cương quyết cầm cây đàn tầm thường bị đánh tráo trở lại sân khấu và
lớn tiếng tuyên bố:
"Kính
thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình
diễn này, tôi muốn chứng minh cùng quý vị là: vẻ đẹp và cái tinh túy của nhạc
không nằm trong nhạc khí, nhưng nằm trong tâm hồn của nhạc sĩ".
Nói
xong, nhạc sĩ tài ba bắt đầu dạo nhạc và từ cây vĩ đàn tầm thường ông đã say
sưa trình diễn những khúc nhạc tuyệt vời tưởng chừng như bất tận, cho đến khi
khán giả say mê ngây ngất, đã đứng dậy vỗ tay tán thưởng vang dậy vì ông
Paganini đã thật sự chứng minh với họ là: Tinh thần nhạc không tùy thuộc ở
trong nhạc khí nhưng hàm ẩn trong tâm hồn của nhạc sĩ.
Ðây
cũng là sứ mệnh của các tín hữu Kitô: Hằng ngày sau một giấc ngủ yên, họ bừng
chỗi dậy để ra sân khấu cuộc đời trình diễn khúc nhạc: "Thiên Chúa là Tình
Yêu". Gặp thời kỳ thuận tiện hay bất lợi, gặp môi trường sinh sống xứng hợp
với khúc nhạc hay không, gặp những người chung sống có chấp nhận hay từ chối,
cuộc sống của người Kitô hữu phải chứng minh rằng: Khúc nhạc "Thiên Chúa
là Tình Yêu" không thể bị lệ thuộc vào những hoàn cảnh, vào những môi trường
sinh sống bên ngoài, nhưng phải là khúc nhạc xuất phát từ tâm hồn như những điệu
nhạc tuyệt vời của nhạc sĩ Paganini không bị lệ thuộc vào nhạc khí, nhưng đã xuất
phát từ tâm hồn điêu luyện say mê âm nhạc của ông.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét