02/05/2015
Thứ Bảy sau Chúa Nhật
IV Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 13, 44-52
"Ðây
chúng tôi quay về phía các dân ngoại".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Ðến
ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người
Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại
các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng
lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên
Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về
phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi
làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất".
Nghe vậy, các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định
hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những
người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong
thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ.
Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các
môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Khắp nơi bờ
cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu.
Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện
của Người. - Ðáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công
minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. -
Ðáp.
3)
Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể
địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia:
Cl 3, 1
Alleluia,
alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm
những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 14, 7-14
"Ai
thấy Thầy là xem thấy Cha".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng
biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê
thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho
chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các
con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao
con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong
Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình
mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng
Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy
đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những
việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với
Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được
vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy
sẽ làm cho".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Hứa Chỗ Cho Môn Ðệ
Có
một vị vua nọ, thông minh tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo ngược. Ngày
kia, vua bỗng nảy ra một ý nghĩ táo bạo gần như thách thức. Vua cho mời một nhà
lãnh đão tôn giáo đến và ra lệnh trong vòng một tuần lễ ông phải làm thế nào
cho vua thấy được Thiên Chúa. Nếu không, ông sẽ bị chém đầu.
Thật
là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn được ước muốn càn dở
của vua đây? Không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại những ý
nghĩ điên rồ và thách thức như thế. Biết được nỗi lo âu của nhà lãnh đạo tôn
giáo, một kẻ chăn chiên đến xin ông cho phép anh được chỉ cho nhà vua thấy
Thiên Chúa. Nhà lãnh đạo tôn giáo không mấy tin, nhưng chẳng biết thế nào hơn.
Vào
một buổi sáng đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường thả
đàn súc vật. Họ đi bộ không dùng xe ngựa. Lúc họ tới nơi thì mặt trời đã gần
trên đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và bảo nhà vua nhìn. Vua nổi
giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của vua hay sao mà bắt vua nhìn. Bấy giờ người
chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: "Tâu bệ hạ, chỉ một vật do
bàn tay Thiên Chúa tạo ra mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám
nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được?" Chính lúc ấy
nhà vua đã thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt nhưng bằng niềm tin.
Anh
chị em thân mến!
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, thánh Philipphê, một trong nhóm mười hai đã nói lên ước
muốn: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng
con". Chúa Giêsu đã phản ứng thế nào? Và trả lời làm sao? Ðó là những vấn
đề mà chúng ta sẽ đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh
chị em thân mến!
Chắc
hẳn khi lên tiếng xin Thầy chỉ cho xem thấy Thiên Chúa Cha, thánh Philipphê đã
lên tưởng tới hình ảnh một Thiên Chúa oai phong, đầy quyền năng như Ngài đã tỏ
vinh quang trên núi Sinai. Một Thiên Chúa mà khi tiếp cận, Môisê chỉ được chiêm
ngắm phía sau Ngài chứ chẳng được thấy dung nhan Ngài.
Tâm
trạng của Philipphê cũng là tâm trạng của vị vua trên hay của bất cứ ai trong
chúng ta, một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế mà không ít người sẵn sàng hao tốn
tiền bạc, thời giờ để tìm đến nơi xảy ra dấu lạ cho bằng được. Một dịp hành
hương có ý nghĩa và quan trọng hơn Tam Nhật Thánh của ngày lễ Phục Sinh.
Tuy
nhiên, đáp lại yêu cầu của Philipphê, Chúa Giêsu đã dùng một lời khẳng định và
một câu hỏi khẳng định đặt trước và một câu hỏi nằm sau. Nếu theo đúng phương
pháp sư phạm, câu hỏi phải được đặt trước, vì đặt câu hỏi là giúp khai mở dần của
việc đối diện để hướng về sự thật sắp được giãi bày. Chẳng phải Chúa Giêsu
không biết đến phương pháp này, nhưng Ngài đã trả lời cách khác, vì Ngài muốn
nêu lên một chân lý: "Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy với Cha là một".
Ðó là một thực tại quá hiển nhiên không còn phải bàn cải.
Câu
hỏi tiếp theo có công dụng như một lời nhắc nhở cho Philipphê hãy quay nhìn trở
lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc
Thầy làm không phải là của Thầy, nhưng đều là của Thiên Chúa Cha ở trong Thầy.
Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ chẳng nhận ra Ngài là Thiên
Chúa.
Lời
nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với tông đồ Philipphê cũng là lời Ngài muốn nhắc nhở
chúng ta hôm nay. Ðừng cho các quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong.
Tìm kiếm Thiên Chúa là một điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước Ngài
mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm kiếm dấu lạ, nhưng rồi dấu lạ xảy
ra trước mắt mà lại chẳng nhìn thấy. Hằng ngày qua lời truyền phép của linh mục,
Chúa Giêsu hiện diện thực sự trên bàn thờ mà đã mấy lúc chúng ta tỏ ra thái độ
cung kính tin nhận Ngài. Và rồi trong cuộc sống, biết bao lời cầu khẩn, xin ơn
được dâng lên Thiên Chúa, nhưng đã có lần nào chúng ta biết dừng lại để khám
phá ra ơn lành của Ngài đã bị mất giữa chuỗi dài những quen thuộc thường xảy
ra.
Qua
bài Tin Mừng hôm nay ước mong rằng mỗi người trong chúng ta luôn biết giữ thái
độ tìm kiếm. Một sự tìm kiếm không ở đâu xa nhưng chính trong cuộc sống quen
thuộc tầm thường, hằng ngày, đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách biết ngạc
nhiên, biết đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ thấy khuôn mặt của Thiên Chúa
cũng như tình yêu của Ngài. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:44-52; Jn
14:7-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy dùng cơ hội
Thiên Chúa cho để mang ơn cứu độ đến mọi người.
Trong
hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô và Barnabas, các ông đã gặp rất nhiều
trở ngại và chống đối từ phía người Do-thái. Lý do: họ không muốn bị mất ảnh hưởng
trên đám đông và không muốn tất cả Dân Ngoại được làm con Thiên Chúa. Lẽ ra họ
phải dùng đặc quyền Thiên Chúa ban để mang nhiều người về với Ngài; nhưng họ lại
để tính ích kỷ và ghen tị ngăn cản người khác, và ngay cả họ, đến với Ngài.
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc làm sao cho Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được
hoàn thành. Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng lời tiên-tri Isaiah để chứng minh Ơn Cứu
Độ không chỉ giới hạn cho người Do-thái, mà cho tất cả mọi người. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ: Họ sẽ làm các việc lớn hơn Ngài làm là
mang Ơn Cứu Độ của Ngài cho đến tận cùng trái đất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Kế Hoạch Cứu Độ là cho tất cả mọi người: Do-thái cũng như Dân Ngoại.
1.1/
Dân Ngoại cũng được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: Sách Tiên Tri
Isaiah, được viết khoảng 750 BC, đã viết về Kế Hoạch Cứu Độ như sau: Thiên Chúa
phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Jacob, để
dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt
ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất"
(Isa 49:6). Người Tôi Trung đây là chính Đức Kitô, Ngài đến để cứu dân tộc
Israel trước hết; nhưng không phải chỉ có họ mà thôi, mà còn muôn dân tộc, cho
đến khi Ơn Cứu Độ được lan tràn đến tận cùng cõi đất.
Vì
thế, chúng ta không lạ gì khi Thiên Chúa thúc đẩy "gần như cả thành
Antioch, Pisidia tụ họp nghe lời Thiên Chúa." Bấy giờ ông Phaolô và ông
Barnabas mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được
nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình
không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía Dân Ngoại."
Phaolô cũng dùng lời tiên-tri Isaiah trên để áp dụng vào chính ông và vào các
nhà rao giảng Tin Mừng, vì chính họ cũng làm cho lời tiên báo này được thành tựu.
Nghe
Phaolô cắt nghĩa Kinh Thánh và Kế Hoạch Cứu Độ, Dân Ngoại vui mừng tôn vinh lời
Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời,
đều tin theo. Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
1.2/
Người Do-thái ghen tức và ngược đãi Phaolô và Barnabas: Thấy những đám đông
như vậy nghe Phaolô rao giảng, người Do-thái sinh lòng ghen tức. Họ phản đối những
lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Điều này đã xảy ra cho Chúa Giêsu vì hai lý
do:
(1)
Họ không muốn đối phương của họ có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông
theo đối phương, họ sẽ không còn ảnh hưởng trên đám đông.
(2)
Họ không muốn ai được phép bằng họ, và họ ghen tị khi thấy người khác bằng
mình. Truyền thống Do-thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa. Nếu Dân
Ngoại cũng là con Thiên Chúa, họ đâu còn chi đặc biệt nữa!
Vì
thế, người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những
thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnabas, và trục
xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và
đi tới Iconium.
2/
Phúc Âm:
Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
2.1/
Chúa Cha và Chúa Giêsu là một: Con người chưa bao giờ thấy Thiên Chúa; nhưng khi con người thấy
Chúa Giêsu, con người thấy Chúa Cha, vì như thánh Phaolô nói: "Ngài là
hình ảnh của Thiên Chúa vô hình." Trong mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và
Philip, Chúa Giêsu xác tín điều này.
-
Ông Philíp yêu cầu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế
là chúng con mãn nguyện."
-
Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa
biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha?""
Chúa
Giêsu muốn chứng minh cho Philip 2 điều:
(1)
Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình
nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của
mình."
(2)
Những việc Chúa Giêsu làm là theo ý của Chúa Cha: "Anh em hãy tin Thầy: Thầy
ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc
Thầy làm." Không ai có thể làm những việc Chúa Giêsu đã làm, nếu Thiên
Chúa không ở với người ấy.
2.2/
Các Tông-đồ có thể làm những việc Chúa Giêsu làm và những việc lớn hơn nữa: Chúa Giêsu tuyên bố:
"Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được
những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến
cùng Chúa Cha."
-
Những việc Chúa Giêsu làm: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, khử trừ ma
quỉ, cho kẻ chết sống lại, đào tạo môn đệ ... Các Tông đồ làm được tất cả những
điều này nhân danh Đức Kitô, chứ không nhân danh sức riêng của mình; vì các ông
biết rõ sức con người không thể làm những chuyện đó. Lời bảo trợ của Chúa Giêsu
bảo đảm sức mạnh này: "Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì
Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy
mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó."
-
Những việc lớn hơn đây là làm sao cho tất cả mọi người tin vào Đức Kitô để được
cứu độ. Để thực hiện điều này, Chúa Giêsu cần sự cộng tác của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải làm mọi cách để làm sao Tin Mừng Cứu Độ được lan truyền khắp nơi
theo ý của Đức Kitô mong muốn.
-
Chúng ta phải loại bỏ tính ích kỷ và ghen tị trong khi loan báo Tin Mừng, thì Lời
Chúa mới có thể lan rộng và sinh hoa kết trái đến tận cùng trái đất được.
-
Chúng ta đừng để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản chúng ta trong sứ vụ rao giảng
Tin Mừng, vì Đức Kitô đã hứa với chúng ta: "Bất cứ điều gì anh em nhân
danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm."
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
02/05/15 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 4 PS
Th. A-tha-na-xi-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 14,7-14
Th. A-tha-na-xi-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 14,7-14
Suy niệm: Trong
câu chuyện ngụ ngôn “Trí khôn của ta đây,” người nông dân đã chỉ cho chú cọp
thấy trí khôn bằng cách dùng mưu mẹo để trói cọp vào gốc cây, châm lửa đốt, rồi
cho cọp thấy trí khôn là gì.
Tựa như trí khôn không thể được nhìn thấy cách tỏ tường mà chỉ có thể được nhận
biết qua các việc làm, thì Thiên Chúa cũng vậy, Ngài thường tỏ mình qua hành
động, qua các công trình Ngài đã thực hiện, vì Ngài là Đấng vô hình. Theo thư
Do-thái, Thiên Chúa tỏ mình bằng nhiều thể nhiều cách, nhưng cách sau cùng và
trọn hảo là qua chính Con Một của Ngài. Sự hiện diện trọn hảo đến mức, ai thấy
Người Con là thấy Chúa Cha, và tất cả những gì Con làm, đều là hành động của
Cha được thể hiện qua Con.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su không phải là con rối của Chúa Cha, nhưng nhờ sự vâng phục tuyệt
đối, Ngài đã làm cho Cha được thể hiện qua cuộc đời của mình. Trong kinh Lạy
Cha, mọi tín hữu cũng cầu mong cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời.”Nhưng làm sao ý Cha được thể hiện khi chính tôi không tự nguyện
dâng hiến tự do và ý chí để làm theo ý của Ngài?
Sống Lời Chúa: Trong
khó khăn thử thách, hãy tự hỏi rằng: “Nếu trong hoàn cảnh của tôi, Chúa Giê-su sẽ làm gì?”
Cầu nguyện: Lạy Cha, con biết rằng làm theo ý Cha thì mọi sự sẽ tốt đẹp, nhưng
làm theo ý ấy thường gây cho con đau đớn và sợ hãi. Xin ban thêm sức mạnh cho
con. Amen.
Làm những việc lớn hơn nữa
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức
Giêsu mà xin, vì biết thế nào Ngài cũng “làm” cho người gắn bó với Ngài. Tất cả
để Cha được tôn vinh nơi Con
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy
Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin
Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy
Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung
của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí
thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy
Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước
mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời
nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được
Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không
phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do
thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn
cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho
Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa,
Đấng sai Ngài :
“Thầy ở trong Chúa Cha, và
Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không
tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài
không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở
trong Thầy,
chính Người làm những việc
của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu
làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con
của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó
sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những
việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa
Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha
và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó
với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được
những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn
sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ
đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu
như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức
Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài
cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh
nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự
vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho
con
và biết chọn theo chân Chúa
luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để
con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con
được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa
đời đời. Amen.
(Thánh Âu-Tinh)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2
THÁNG NĂM
Viên
Đá Góc
Đức
Kitô là viên đá góc: “Người là viên đá mà quí vị là thợ xây loại bỏ, lại trở
nên đá tảng góc tường” (Cv 4, 11). Những người không đón nhận lời chứng của Tin
Mừng và xử tử Đức Kitô trên Thập Giá là những người đã loại bỏ viên đá này. Những
người cố sức tổ chức thế giới và đời sống xã hội không cần đến Đức Kitô và chống
lại Người, chẳng phải họ đang loại bỏ Người một lần nữa đó sao? Thế nhưng, viên
đá bị loại bỏ – và bị loại bỏ quá nhiều lần này – chính là viên đá góc.
Công
trình cứu độ con người chỉ có thể đứng được trên nền móng duy nhất là Đức Kitô.
Chỉ nơi Người mới có nền tảng vững chắc để xây dựng trật tự và hòa bình đích thực
giữa con người với con người. Chỉ nhờ Người, chúng ta mới có thể được đổi mới
tâm linh và triển nở đến mức sung mãn theo sự tiền định từ đời đời dành sẵn cho
mình. Chỉ qua Người, thế giới con người chúng ta mới có thể trở thành ‘người’
đích thực hơn.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
02 - 5
Thánh
Athanasiô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Cv
13, 44-52; Ga 14, 7-14.
LỜI
SUY NIỆM: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều
gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó”.
Đây
là một trong những lời hứa của Chúa Giêsu, khi Người mời gọi những ai tin vào
Người; bởi vì trong thế gian nay không có Danh nào quan trọng và Thánh Thiêng đầy
quyền năng bằng Danh của Người. Lời hứa của Người luôn là hiện tại.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn ý thức
thân phận tội lỗi của mình, nhưng luôn được ở trong tình thương xót của Chúa,
được mạnh tin vào Chúa để luôn lấy Danh Chúa mà cầu xin cho mình và cầu xin cho
tha nhân vì phần rỗi linh hồn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
02-05: Thánh ATHANASIÔ
Giám
mục Tiến Sĩ Hội Thánh (295 - 373)
Thánh
Athanasiô sinh khoảng năm 295 có lẽ tại Alexandria. Gia đình Ngài rõ ràng là
khá giả vì sau này Ngài có dịp trốn ở phần mộ của gia đình, Ngài đã theo môn cổ
học và sau này thường trích dẫn các tác giả cổ. Có lẽ Ngài cùng theo học tại một
trường Giáo lý ở Caêsarêa nên tư tưởng của Ngài thấm nhuần Kinh thánh, cả những
chú giải Kinh thánh và cũng theo truyền thống các giáo phụ nữa.
Vào
khoảng 25 tuổi Athanasiô đã có một thời sống với thánh Antôn ẩn tu. Bốn mươi
năm sau, Ngài đã mời thánh An tôn ẩn tu về Alexandria để góp phần bảo vệ đức
tin. Khi qua đời thánh ẩn tu đã nhường lại cho Athanasiô cái áo choàng Ngài vẫn
dùng đắp mình khi ngủ và tấm da chiên để dùng sưởi ấm lúc tuổi già. Những năm
chung sống nơi sa mạc với vị thánh ẩn tu này đã tạo nên nét thánh thiện và nhân
cách của Athanasiô.
Vào
năm 320, Athanasiô mới bắt đầu góp phần vào lịch sử. Khi ấy Đức Cha Alexander
Giám mục Alexandria cảm phục và triều vời Athanasiô từ sa mạc về, đặt làm phó tế.
Khi ấy Ariô là cha sở Boucalis. Ong ta là một nhà giảng thuyết danh tiếng, có một
cuộc sống khắc khổ và hướng dẫn các trinh nữ hiến mình cho Thiên Chúa. Ariô đã
sáng nghĩ và rao giảng những ý tưởng lầm lạc cho rằng: "Ngôi Lời Thiên
Chúa không có từ đời đời, không cùng bản tính với Chúa Cha mà chỉ là một thụ tạo
được mang danh hiệu Con Thiên Chúa". Athanasiô đã bảo bỏ những sai lầm
này. Bút pháp và nội dung của bức thông điệp Đức Giám mục Alexander ban hành
năm 322 cho thấy tác giả chính là Athanasiô.
Tại
công đồng Nicea, thánh Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã góp phần
vào bản văn chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa Con đồng bản
tính với Chúa Cha. Ngài đã trở thành mục tiêu cho bọn lạc giáo ghen ghét.
Mùa
hạ năm 328, Đức Giám mục Alexander qua đời và đặt Athanasiô lên kế vị. Nhận thấy
mình bất xứng, Athanasiô đã bỏ trốn, nhưng rồi bị ép buộc lãnh nhận trách nhiệm.
Ngài đã tỏ ra có nhân cách khôn sánh, có ý chí bất khuất và rất thông minh. Rảo
quanh khắp giáo phận rộng lớn, Ngài gặp thánh Dachômiô từ trong sa mạc, là Đấng
đã nghe Chúa nói với mình rằng: - Ta đã đặt Athanasiô làm cột trụ Giáo hội,
nhưng Ngài sẽ bị đau khổ nhiều.
Nhưng
Athanasiô không sợ đau khổ. Nhiều lần Ngài đã bị trục xuất khỏi giáo phận. Trước
hết, dưới ảnh hửơng của những người theo phái Ariô, năm 335 thánh Athanasiô bị
vua Constantinô đầy đi Trier ở biên thùy nước Đức. Tại đây Ngài trước tác một số
tác phẩm nay vẫn còn danh tiếng.
Nhưng
rồi nămsau. Ariô chết cách khốn khổ. Vua Constantinô cho thánh nhân được trở về
giáo phận, Ngài chỉ trở lại hai năm sau tức năm 337 khi thấy nhà vua mới
Constance ngả về phía lạc giáo. Cuộc trở về của thánh nhân diễn ra như một cuộc
khải hoàn. Tuy nhiên từ năm 337 đến năm 366, cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu
liên tục với nhóm người ngả theo Ariô có, bảo thủ có, buông thả để an phận có.
Chính hoàng đế cũng muốn can thiệp để sửa đổi giáo thuyết Hội Thánh khiến các
thù dịch tỏ ra độc ác và tìm cách tiêu diệt vị giám mục. Lần kia đang lúc thánh
Athanasiô dâng lễ, bọn lính xâm nhập thánh đường. Thánh nhân trốn thoát được và
ẩn mình trong sa mạc. Sợ những người chứa chấp bị liên lụy Ngài ẩn mình trong một
hang đá. Và không ngừng trung thành với đức tin chân chính.
Hoàng
đế Constance qua đời, Juliano người sẽ mang biệt danh là kẻ bội giáo, lên kế vị
và cho phép những kẻ lưu đày trở về. Đức Giám mục Athanasiô trở lại giáo phận
và thiết lập trật tự trong giáo đoàn cũng như lo truyền bá đức tin sang
Ethiopie và Ả Rập.
Ngài
chống lại các mê tín dị đoan khiến các lương dân tức giận. Họ quyết sát hại
thánh nhân. Lần này, Ngài lại phải chạy trốn theo lệnh của nhà vua, bội giáo
chèo thuyền dọc sông Nil, Ngài bị quân lính đuổi theo sát nút. Nguy ngập Ngài
quay thuyền lại để gặp họ. Bọn lính hung hăng hỏi thăm xem còn cách vị giám mục
bao xa. Ngài trả lời : - Chèo mạnh lên, ông không ở xa đâu.
Bọn
lính vội vã làm theo và thánh nhân thoát nạn, Ngài lang thang đây đó cho tới
khi Vua Julianô qua đời, vào năm sau. Jovianô, vị tân hoàng đế rất kính phục đức
giám mục và thích đàm luận với Ngài. Nhưng triều đại của ông lại quá vắn vỏi.
Khi Valens lên nắm quyền cai trị, lại một cuộc bách hại mới mở ra. Một lần nữa
thánh Athanasiô lại phải trốn đi. Trong bốn tháng liền, Ngài ẩn mình trong phần
mộ của gia đình.
Sau
cùng Valens vì hiểu được lòng kính phục của dân Ai cập đối với vị giám mục của
họ, và không muốn xa rời dân chúng nên chịu cho Ngài trở về. Những năm cuối đời,
thánh nhân được sống trong yên ổn phần nào, bởi vì lúc ấy cuộc tranh chấp thực
sự chưa ngã ngũ, Ngài qua đời ngày 02 tháng 5 năm 373. Phải đợi năm năm sau, cuộc
tranh luận của cộng đồng Nicêa mới toàn thắng với cái chết của Valens.
Thánh
Athanasiô đã viết những tác phẩm vĩ đại nhất trong 30 năm xáo trộn. Cuốn
Uncarnatione Verbi hoàn thành năm 337, cuốn Virginitate và Orationes khoảng năm
357, cuốn Contra Arianô có thể sau năm 362. Ngài đã viết rất nhiều và mọi tư tưởng
Ngài cũng như cuộc sống Ngài tập trung vào hai ý niệm: Chúa Con là sự bày tỏ của
Chúa Cha, và Giáo hội là sự bày tỏ của Chúa Con. Giáo hội Tây phương kính nhớ
Ngài như thánh tiến sĩ Chúa Ba Ngôi, nhưng trước hết, Ngài là Thánh Tiến sĩ về
mầu nhiệm nhập thể và về Ơn thánh.
(daminhvn.net)
02
Tháng Năm
Ðức Mẹ Guadalupe
Dạo
tháng 5/1990, Ðức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho một người thổ dân
Mehico tên là Juan Diego, người được Ðức mẹ hiện ra tại Guadalupe...
Juan
Diego là một người thổ dân nghèo sống với người cậu tại làng Telpetlao thuộc
ngoại ô thủ đô Mehico vào khoảng thế kỷ 16. Một buổi sáng thứ bảy nọ, trên đường
đi đến thánh đường để dự thánh lễ, Juan Diego bỗng nghe có tiếng hát du dương từ
trên một ngọn đồi. Anh tiến lại gần và thấy một thiếu nữ xinh đẹp tự xưng là
Trinh Nữ Maria. Ðức Mẹ nói với người thổ dân nghèo như sau: "Ta muốn có một
đền thờ được dựng lên tại đây để Ta dùng tình thương, niềm cảm thông, sự giúp đỡ
và bảo vệ của Ta mà bày tỏ Thiên Chúa cho loài người. Con hãy đi gặp vị giám mục
Mehico và nói với Ngài rằng Ta sai con đến gặp Ngài để bày tỏ ý muốn của Ta.
Con hãy tin tưởng rằng Ta sẽ biết ơn con và ân thưởng cho con. Ta sẽ làm cho
con được giàu có và tôn vinh con".
Juan
đến gặp vị giám mục, nhưng anh ta buồn bã trở về làng, vì giám mục không tin lời
của anh. Ðức mẹ lại hiện ra cho anh một lần nữa và cũng sai anh mang một sứ điệp
như thế đến cho vị giám mục. Nhưng lần thứ hai, dù cho anh có van nài khóc lóc,
vị giám mục vẫn một mực không tin. Vị giám mục nói với người thổ dân nghèo rằng:
"Nếu Ðức Mẹ thực sự muốn điều đó thì xin Ngài hãybày tỏ một dấu lạ".
Và ngài bí mật cho người theo dõi. Lần thứ ba, Ðức Mẹ lại hiện ra cho Juan
Diego, nhưng Ngài bảo anh: "Hãy trở lại vào ngày mai và Ngài sẽ cho vị
giám mục một dấu lạ".
Ngày
hôm sau, Juan Diego không thể đến điểm hẹn với Ðức Mẹ được vì anh còn phải đi
tìm thầy thuốc cho người cậu đang mắc bệnh. Nhưng khi đi qua ngọn đồi, Juan vẫn
được Ðức Mẹ hiện ra. Ngài bảo đảm với anh rằng người cậu của anh sẽ được lành bệnh
và thay vì để Juan tiếp tục lên đường đi Mehico để tìm thầy thuốc, Ðức Mẹ đã
sai anh đến nơi Ngài hiện ra cho anh lần đầu tiên. Tại đây, Ngài sẽ cho anh những
cánh hoa thật đẹp và dấu lạ để mang đến cho vị giám mục... Lúc bấy giờ đang là
mùa đông và ngọn đồi nơi Juan được Ðức Mẹ hiện ra thường chỉ có những cây cỏ của
sa mạc như các loại gai và xương rồng. Thế nhưng, hôm đó, hoa bỗng nở rộ trong
sa mạc. Juan hái lấy dâng cho Ðức Mẹ, Ðức Mẹ sờ đến những cánh hoa và bảo anh lấy
chiếc áo choàng để đựng hoa mang đến cho vị giám mục...
Khi
Juan vừa mở chiếc áo choàng ra để lấy hoa cho vị giám mục xem thì lạ lùng thay,
hình ảnh Ðức Mẹ đã được in trên chiếc áo của anh... Tin ở lời Ðức Mẹ, vị giám mục
đã tức tốc lên đường đến làng Ðức Mẹ đã hiện ra cho anh Juan. Ngài nhận thấy
người cậu của anh đã được lành bệnh. Các cuộc lành bệnh lạ lùng đã diễn ra từ
đó... Một đền thánh dâng kính Ðức Mẹ đã được xây cất để rồi cuối cùng trở thành
Vương cung thánh đường Guadalupe như chúng ta vẫn quen gọi.
Trong
thánh lễ tôn phong chân phước cho Juan Diego tại đền thánh Guadalupe ngay buổi
chiều chủ nhật khi vừa đến Mehico, Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi người dân
Mehico hâm nóng lại tinh thần truyền giáo. Truyền giáo theo đúng nghĩa là được
sai đi để mang sứ điệp đến cho người khác. Cũng giống như tất cả những ai được
diễm phúc gặp Ðức Mẹ, chân phước Juan Diego đã được sai đi... Phải vất vả nhiều
lần và dĩ nhiên, với sự giúp đỡ của Ðức mẹ, Juan Diego mới có thể thuyết phục
được vị giám mục...
Người
Kitô, từ bản chất là người được sai đi và sứ điệp của họ chính là sứ điệp của
yêu thương... Cùng với những cánh hoa dâng tiến Mẹ trong tháng Năm này, chúng
ta được mời gọi để mang những cánh hoa yêu thương đến cho mọi người. Tình
thương, sự giúp đỡ của Mẹ dành cho chúng ta cũng phải được chúng ta diễn đạt,
cao rao qua cuộc sống dạt dào Tình Mến đối với mọi người.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét