Trang

Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

08-02-2018 :THỨ NĂM - TUẦN V THƯỜNG NIÊN

08/02/2018
Thứ Năm tuần 5 thường niên.


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 4-13
"Bởi ngươi không giữ giao ước, Ta cất vương quốc khỏi ngươi; nhưng vì Ðavít thân phụ ngươi,Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon. Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa truyền dạy ông.
Do đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: "Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì nể Ðavít, thân phụ ngươi, Ta sẽ không thi hành điều đó khi ngươi còn sống. Ta sẽ phân chia vương quốc ngươi ngay trên tay con của ngươi. Vì Ðavít, tôi tớ Ta, và vì Giêrusalem Ta đã tuyển chọn, Ta sẽ không lấy tất cả vương quốc: Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 105, 3-4. 35-36. 37 và 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con. - Ðáp.
2) Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. - Ðáp.
3) Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.
  
Alleluia: 1 Sam 3,9
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 7, 24-30
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.
Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".
Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".
Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Ơn cứu độ đại đồng
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
Veritas Asia



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần V TN
Bài đọc I Kgs 11:4-13; Mk 7:24-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá của phụ nữ
Người tị nạn Việt-Nam bị giằng co giữa 2 kiểu mẫu: nên theo kiểu Âu Tây, mà 5 thứ tự liên hệ được sắp xếp ưu tiên như sau: “đàn bà trước tiên, con nít, chó, cỏ, đàn ông;” hay theo kiểu Việt-Nam: “chồng chúa vợ tôi?” Điều quan trọng không phải việc phải đòi cho được sự ngang hàng, nhưng làm sao cho cuộc đời cả hai và gia đình được hạnh phúc. Cả hai kiểu mẫu trên đều dẫn tới những xáo trộn trong cuộc sống gia đình: Theo kiểu Âu Tây, đàn ông được xếp hạng sau cả con nít, chó, và cỏ, hỏi còn tư cách gì để hướng dẫn gia đình; và điều này hoàn toàn trái ngược với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Theo kiểu Việt-Nam, người vợ chỉ được coi như người tớ nữ của chồng, và hậu quả là người vợ bị quên lãng và đối xử rất tàn tệ; điều này cũng đi ngược lại với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong Thư gởi các tín hữu Êphêsô đã đưa ra một kiểu mẫu Thánh Kinh: “Người vợ hãy vâng lời chồng như Giáo-Hội vâng lời Đức Kitô; và người chồng hãy yêu thương vợ như chính bản thân mình, và như Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh mạng sống mình cho Giáo-Hội.”
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò người phụ nữ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon bị các bà vợ mê hoặc để phản bội Thiên Chúa khi về già, mặc dù Thiên Chúa đã hiện ra để cảnh cáo hai lần. Sau cùng, Thiên Chúa buộc phải phạt bằng cách chia cắt vương quốc của nhà vua, chỉ để cho giòng dõi của vua một phần. Trong Phúc Âm, người phụ nữ xứ Phoenician kiên nhẫn vượt qua bức tường Dân Ngoại và tự ái, để xin Chúa Giêsu chữa lành con gái mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Ta sẽ giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi.
2.1/ Vua Solomon phản bội Thiên Chúa: Trong lịch sử thế giới, xưa cũng như nay, biết bao nhiêu anh hùng đã bị tiêu tan sự nghiệp vì mỹ nhân. Lịch sử của Do-thái cũng đầy dẫy những câu truyện tương tự: Tuần trước, chúng ta được biết vua David đã bị Thiên Chúa để cho biết bao tai ương xảy ra cho nhà vua, cho gia đình, và cho quốc gia; sau khi David phạm tội ngoại tình với bà Bathsheba và tội thủ tiêu Uriah chồng bà để phi tang. Tuy nhiên, vì David hết lòng ăn năn trở lại, Thiên Chúa đã xót thương và chúc lành cho Solomon, con kế vị của David.
Trong mấy ngày qua, chúng ta được nghe sự khôn ngoan và vinh quang tuyệt đỉnh của vua Solomon; nhưng rồi lại một lần nữa, anh hùng bị tiêu tan cơ nghiệp vì các mỹ nhân. Nhà Vua phản bội Thiên Chúa bằng cách xây dựng đền thờ cho tất cả các thần của những bà vợ. Theo truyền thuyết, Solomon có tới 700 vợ và 300 cung phi; chắc là ông không xây cả 100 bàn thờ. Trình thuật chỉ liệt kê 4 bàn thờ chính: nữ thần Ashtoreth của dân Sidon, thần Milcom ghê tởm của dân Ammon, thần Chemosh ghê tởm của dân Moab, và thần Molech ghê tởm của con cái Ammon. Một người có thể tự hỏi tại sao một người khôn ngoan như Solomon, đã biết nguồn gốc và mục đích của mọi sự việc, lại phản bội Thiên Chúa? Trình thuật đưa ra hai lý do:
(1) Lú lẫn của tuổi già: Trí khôn và cơ thể con người chắc chắn bị suy sụp theo thời gian. Khi về già, vua Solomon chắc không còn tinh anh để phán xét sự việc cách khôn ngoan như khi còn trẻ. Điều này phải là bài học cho những người đi sau để đừng quá tự tin vào sự khôn ngoan của mình; nhưng phải cậy nhờ vào ơn thánh Chúa qua cuộc sống cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
(2) Áp lực của những mỹ nhân: Các ông chồng có tuổi thường dễ bị lung lay vì sắc đẹp của những người vợ trẻ, nhất là khi các nàng biết dùng vũ khí nguy hiểm là đổ những giọt lệ. Người đi sau có thể học nơi vua Solomon và đừng quá tham lam đèo bồng. Thân trai hai vợ đã bị xẻ làm hai rồi, vua Solomon khổ thế nào khi bị xẻ thành ngàn mảnh!
2.2/ Hậu quả của việc nghe lời các vợ: Đức Chúa nổi giận với vua Solomon, vì lòng vua rời xa Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, Đấng đã hiện ra với vua hai lần, và truyền cho vua là đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Đức Chúa đã truyền. Đức Chúa phán với vua Solomon: "Vì ngươi đã như vậy và đã không giữ giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi."
Tuy thế, vì tình nghĩa và những gì Thiên Chúa đã hứa với vua cha David, Thiên Chúa đã không làm điều đó trong đời vua Solomon; nhưng sẽ chờ tới thời con của Solomon. Dòng dõi của Solomon chỉ còn giữ lại được một chi tộc và sẽ trở thành vương quốc Judah, với thủ đô đặt tại Jerusalem.
Nhìn lại cuộc đời của các vua Saul, David, Solomon, trong lịch sử Israel; một người có thể học được bài học phải biết đặt mối liên hệ với Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Khi họ trung thành với Thiên Chúa, họ được Thiên Chúa ban ơn, bảo vệ, và chúc lành; nhưng khi họ bất tuân và phản bội Ngài, họ phải lãnh nhận biết bao đau khổ xảy đến, không chỉ trên cá nhân, nhưng còn trên gia đình và quốc gia nữa. Sự phản bội chỉ xảy ra về phía con người; về phía Thiên Chúa, tất cả những gì Ngài hứa, Ngài đã thi hành.
3/ Phúc Âm: Người phụ nữ Phoenician vượt qua xấu hổ để cầu xin cho con gái.
Trong 3 năm rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài rất ít khi đi ra ngoài lãnh thổ của Do-thái. Lý do không phải vì Ngài không muốn Tin Mừng của Ngài được lan rộng đến Dân Ngoại; nhưng vì Ngài đã có kế hoạch rõ ràng. Bổn phận của Ngài là loan báo Tin Mừng cho các chiên lạc của nhà Israel. Các Tông-đồ, nhất là Phaolô và Barbara, sẽ loan truyền Tin Mừng đến cho Dân Ngoại. Đó là lý do tại sao trình thuật kể: “Đức Giêsu đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tyre. Người vào một nhà nọ mà không muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.” Tuy không có ý định loan báo Tin Mừng và chữa bệnh cho Dân Ngoại, nhưng đứng trước cách biểu lộ niềm tin và sự kiên trì của Bà, Chúa Giêsu đã chữa lành cho con gái của Bà.
3.1/ Bà vượt qua bức tường ngăn cách Dân Ngoại: Thánh Marcô nói rõ về lai lịch của người phụ nữ: “Bà là người Hy-lạp, gốc Phoenician thuộc xứ Syria. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà.” Bà biết rõ Chúa Giêsu là người Do-thái, và theo truyền thống, Bà không có lý do gì để cầu xin Chúa Giêsu, vì người Do-thái không muốn làm một điều gì với Dân Ngoại. Nhưng vì lòng thương con, Bà đã đạp đổ bức tường kỳ thị giữa hai dân tộc, để đến và cầu xin với Chúa.
3.2/ Bà vượt qua bức tường tự ái: Vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc, Bà phải đương đầu với một bức tường khác khó khăn để vượt qua hơn: tính tự ái. Chúa Giêsu nói với Bà:
"Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con." Chúa Giêsu so sánh con của Bà với chó con, và như thế, Bà cũng bị so sánh như loài chó. Khi một người bị so sánh như thế, thử hỏi bao nhiêu người có can đảm ở lại để tiếp tục nài xin như Bà: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con." Đứng trước một người Dân Ngoại, thấy cách biểu lộ niềm tin và tình thương của Bà cho con như thế, Chúa Giêsu nói với bà: "Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi." Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Các Bài Đọc hôm nay đòi hỏi chúng ta phải suy xét lại mối liên hệ giữa nam nữ, và liên hệ vợ chồng; và biết cách đối xử sao cho phù hợp với ý định của Thiên Chúa ban đầu.
- Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo những trào lưu hiện hành của xã hội: “trọng nữ khinh nam” của Âu Tây, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của Trung-hoa, hay “chồng chúa vợ tôi” của Việt-nam; vì cả hai giới đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Tất cả các trào lưu này đều dẫn tới tình trạng mất quân bình trong đời sống gia đình.
- Cả hai giới đều cần nhau và có những quà tặng bổ xung cho nhau. Thánh Phaolô khuyên vợ phải vâng lời chồng, không phải như người nô lệ phải vâng lời chủ, nhưng ai cũng biết một gia đình không thể có 2 người lãnh đạo. Đồng thời, Ngài cũng khuyên chồng phải yêu thương vợ như yêu chính thân mình. Điều này loại trừ tất cả những ích kỷ, hành hung, và bất trung với vợ mình. Chỉ có thế, gia đình chúng ta mới có thể tiến mạnh, hoà hợp yêu thương, và sống theo đường lối Thiên Chúa đã vạch định từ ban đầu.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


08/02/2018
THỨ NĂM TUẦN 5 TN
Mc 7,24-30

TOÀN CẦU HOÁ SỨ MẠNG

Một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Chúa Giê-su, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà là người Hy-Lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri.  (Mc 7,25-26)

Suy niệm: Chia sẻ tâm thức chung của người Do Thái, ban đầu Đức Giê-su dường như nghĩ rằng sứ mạng thừa sai của Người chỉ giới hạn nơi dân tộc Ít-ra-en thôi. Nhưng rồi trong thực tế Người đã nhận ra rằng sứ mạng của Người không biên giới. Câu chuyện Đức Giê-su trừ quỉ cho con gái người đàn bà xứ Phê-ni-xi hôm nay là một câu chuyện kinh điển minh họa điều nói trên. Đức Giê-su có một sứ mạng phổ quát, vì ơn cứu độ mà Người mang đến là dành cho hết mọi người. Người ‘toàn cầu hóa’ sứ mạng, bởi ở đâu cũng có nghèo túng, bệnh tật, khổ đau và bế tắc. Một người con gái đang bị quỷ ám; một người mẹ đang cần Vị Cứu Tinh cho con mình, cũng là Đấng cất khỏi mình những khổ đau năm tháng; một người trí thức đang bên bờ tuyệt vọng khi nhìn về tương lai; một người giàu có đang đứng trước ngõ cụt khi khám phá rằng vật chất và quyền thế không phải là tất cả; một người nghèo đang vật lộn với cuộc sống; một gia đình đang khốn đốn vì nguy cơ tan vỡ rình rập; một bệnh nhân đang mất dần niềm tin vì cơn bệnh dai dẳng, v.v… Tất cả đang cần được cứu.

Mời Bạn: Nhìn xa hơn hàng rào nhà bạn để thấy người hàng xóm đang cần đến Chúa.

Chia sẻ: Kinh nghiệm của bạn về việc ‘bước đến tận nhà’.

Sống Lời Chúa: Bước đến tận nhà một người khốn khổ để thi hành sứ mạng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con  dám nhìn xa hơn và dám bước đến với những người đang cần Chúa. Con là người của Chúa, xin cứ sai con đi.
(5 phút Lời Chúa)


Nhng mnh vn (8.2.2018 – Th năm Tun 5 Thường niên)

Suy nim:
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Israel để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của Ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Israel,
để rồi chính môn đệ Ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin Ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
Hãy để con cái ăn trước,
 vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin Ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin Ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và Ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy ;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG HAI
Nghệ Thuật Giúp Di Dưỡng Tâm Linh
Các nghệ sĩ là những người đóng góp rất lớn cho nhân loại. Lao động của họ hậu thuẫn một cách đầy hiệu năng cho sự cứu độ của con người – bởi vì họ giúp bồi bổ cảm thức tâm linh của người ta. Khi người ta chiêm ngắm nghệ thuật và vẻ đẹp của nghệ thuật, người ta đắm mình trong nguồn cảm hứng. Cảm thức tâm linh của người ta được thăng hoa. Người ta như chạm được sức hút của cõi tinh thần thuần túy. Người ta như thoáng bắt gặp Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và cứu cánh của mọi sắc dạng tinh thần.
Ýù thức sâu sắc về điều này, Giáo Hội “luôn luôn đề cao nghệ thuật và luôn luôn tìm tòi sự phục vụ cao quí của nghệ thuật… Giáo Hội vẫn thu dụng các loại hình nghệ thuật qua mọi thời. Thật vậy, dọc theo bao thế kỷ, Giáo Hội đã vun đắp nên một kho tàng nghệ thuật rất đáng trân trọng bảo tồn” (PV 43).
Cũng vậy, nghệ thuật thời đại chúng ta hôm nay – của mọi dân tộc – vẫn tìm thấy khung trời mênh mông để thể hiện chính mình giữa lòng Giáo Hội, miễn là qui hướng phục vụ Thiên Chúa với niềm tôn kính xứng hợp.



Hạnh Các Thánh
8 Tháng Hai

    Thánh Josephine Bakhita
    (k. 1868-1947)


    Thánh Josephine Bakhita sinh ở Sudan, được coi là người nô lệ Phi Châu đầu tiên được Giáo Hội phong thánh. Vào lúc 10 tuổi, ngài bị bắt cóc bởi bọn buôn nô lệ và được đặt tên là "Bakhita," hoặc "đứa may mắn." Bị buôn đi bán lại ở các thị trường El Obeid và Khartoum, Bakhita phải trải qua đủ loại đau khổ về tinh thần, tâm lý và thể xác vì thân phận nô lệ. Khi lần sau cùng cô được bán cho ông Callisto Legnani, vị lãnh sự Ý thực tâm muốn giải thoát cô, thì cuộc đời cô mới thực sự thay đổi.
Khi vị lãnh sự trở về Ý vì lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.

    Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.

    Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng -- nấu ăn, may vá, giữ cửa tu viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin giúp đỡ.

    Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng "Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một chút... nó nặng quá!"

    Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân Phước Josephine. Trong bài giảng, đức giáo hoàng nói: "Hãy vui lên, hỡi tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh."

    Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.


    Lời Trích

    "Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, tôi tự nhủ, 'Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?' Tôi vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người." (Chân Phước Josephine Bakhita).


    Trích từ NguoiTinHuu.com


8 Tháng Hai

    Sống Lạc Quan

    Năm 1989,một cuộc thi toán quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 tuổi thuộc sáu quốc gia trên thế giới. Kết quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Ðại Hàn, kế đó là các em Tây Ban Nha, Anh Quốc, Ailen, Canada và đội sổ là các thiếu nhi Hoa Kỳ.

    Song song với cuộc thi toán ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng thuộc lứa tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định như sau: "Tôi là người giỏi toán". Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và bi quan nhất lại chính là các em Ðại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là giỏi toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Ðại Hàn tự nhận mình có thực tài.

    Qua cuộc thi toán và thăm dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa Kỳ không phải là những trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về tính lạc quan do các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người Mỹ muốn chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan xã hội khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là biết tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.

    Lạc quan là đức tính cơ bản nhất để thành công trong cuộc sống. Có tin tưởng nơi chính mình, có tin đời, có tín nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả khi gặp thất bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.

    Trong cuộc sống đức tin, lạc quan là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc quan là người luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người tín hữu lạc quan là người không bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là người không bao giờ thất vọng về người khác.

    Ðá tảng để người tín hữu xây dựng sự lạc quan của chính mình là Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu thủy chung.

    Tình yêu ấy nói với con người rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi Thiên Chúa đành phải bó tay.

    Tình yêu ấy nói với con người rằng, nơi nào có tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc được thi ân dồi dào hơn.

    Tình yêu ấy nói với con người rằng, đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh quang, của sự sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ cuộc, đầu hàng.


    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét