12/02/2018
Thứ Hai tuần 6 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) Gc 1, 1-11
"Lòng tin của
anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn
vẹn".
Khởi đầu bức thơ của
Thánh Giacôbê Tông đồ.
Giacôbê, đầy tớ của
Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống
phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách,
anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn
phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm
khuyết điều gì.
Nếu ai trong anh em thấy
mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng
ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy
lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển
bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con
người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.
Người anh em khó hèn,
hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy,
vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ
héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến
mấy, cũng sẽ suy tàn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68.
71. 72. 75. 76.
Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).
Xướng: 1) Trước khi bị
khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng tốt
lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Con bị khổ nhục, đó
là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
4) Ðối với con, luật
pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
5) Lạy Chúa, con biết
sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.
6) Xin Chúa tỏ lòng
thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ
này lại xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt
phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ
trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm
lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi
bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dấu lạ của
tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc
tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu
đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa
bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu
nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ
không tin.
Ở đây, chúng ta thấy
rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép
lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của
Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con
người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt
phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong
thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng
tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo
Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn
mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân
Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách
Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt
phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ
nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy
mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công
cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại
những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ
đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những
phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào
thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày
nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ
đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ
vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể
hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết
cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ
con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương.
Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì
cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu
của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ
cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại
của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm
thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp
khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta
luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người
chưa nhận biết Chúa Kitô.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần VI TN
Bài đọc:
Jam 1:1-11; Mk 8:11-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khiêm nhường biết mình trong mối liên hệ với Thiên
Chúa.
Thiên Chúa không mắc nợ
gì với con người; trái lại, con người mắc nợ mọi sự với Thiên Chúa. Khi con người
tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người không thêm điều gì cho Ngài; nhưng niềm tin
nơi Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt tới cuộc sống đời đời. Cũng thế, khi con
người làm việc thờ phượng như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, dâng lễ vật, con người
chẳng thêm gì cho Thiên Chúa; nhưng con người sẽ nhận được những lợi ích từ các
việc làm này.
Các Bài Đọc hôm nay
cho thấy những quan niệm sai của con người trong mối liên hệ với Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, năm lẻ, khi Cain dâng lễ vật cho Thiên Chúa và không được Ngài
đoái nhìn tới; ông tức giận với Thiên Chúa và ghen tị với em mình là Abel, vì
Ngài đoái nhìn lễ vật của em ông. Hậu quả là ông đã giết đứa em ruột của mình.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả Thư Giacôbê quả quyết đức tin của con người
cần bị thử thách trăm bề để đức tin càng ngày càng vững mạnh, toàn hảo, và
không gì có thể lay chuyển được. Trong Phúc Âm, các kinh-sư thách thức Chúa
Giêsu hãy làm phép lạ để họ có thể tin Ngài là Thiên Chúa; Chúa Giêsu thở dài
vì thái độ thách thức của họ. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp
thử thách trăm chiều.
2.1/ Đức tin cần được thử
thách: Giống như người lực sĩ trong tiến
trình tập luyện cần được thử thách, hay một học sinh trong tiến trình học tập cần
phải qua những kỳ thi cử, đức tin của con người cũng cần phải trải qua những thử
thách. Mục đích của việc thử luyện đức tin không phải để con người ngã gục trước
thử thách nhưng là:
(1) Để tạo lòng kiên
nhẫn: Tác giả khuyến khích các tín hữu Do-thái khắp nơi: "Thưa anh em, anh
em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì
như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn."
Đức kiên nhẫn là nhân đức đầu tiên phải tập luyện và là mẹ các nhân đức, vì khi
một khi đã có nhân đức này, con người sẽ luyện tập các nhân đức khác một cách dễ
dàng hơn.
(2) Để kiện toàn lòng
tin: Đức tin là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người; nhưng để kiện toàn, con
người phải kiên nhẫn luyện tập, sao cho tới chỗ toàn bích như tác-giả ao ước
cho các tín hữu: "Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những
việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót
điều gì." Mục đích của việc luyện tập là để có một đức tin hoàn hảo: vững
bền, toàn hảo, không thiếu một điều gì. Khi một người đã có đức tin như thế, họ
có thể vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Để kiện toàn đức
tin, con người cần đến ơn thánh của Thiên Chúa: Khi
phải đương đầu với thử thách đau khổ, con người thường có khuynh hướng trốn
tránh hay xin Chúa làm phép lạ cất đi. Để tránh rơi vào những thái độ này,
tác-giả khuyên: "Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin
Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi,
không do dự." Sự khôn ngoan giúp con người nhìn ra thử thách là điều cần
thiết để luyện tập đức tin. Tuy nhiên, khi cầu xin cho có khôn ngoan, con người
cần phải có lòng tin vững mạnh. Tác giả khuyên: "Nhưng người ấy phải cầu
xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy
lên vật xuống." Khi đã được Chúa ban khôn ngoan để nhận ra phải vượt qua
thử thách, người ấy cứ mạnh dạn tiến tới; đừng đổi ý lại cầu xin Chúa cất thử
thách đi cho.
Một trong những thử
thách của đức tin là những thăng trầm trong cuộc sống con người. Tác giả khuyên
các tín hữu hãy tự hào trong Chúa, cả khi được nâng lên cũng như khi bị hạ xuống.
Đừng ai tự hào về của cải mình có vì: "họ sẽ qua đi như hoa cỏ. Quả thế, mặt
trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ đẹp tiêu
tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm."
3/ Phúc Âm: Niềm tin dựa trên phép lạ.
3.1/ Niềm tin dựa trên
các phép lạ: Mỗi quốc gia trên địa cầu đều
có những sắc thái riêng của mỗi dân tộc; Thánh Phaolô nói rất đúng về người
Do-thái: “Người Do-thái tìm kiếm dấu lạ; trong khi người Hy-lạp tìm kiếm sự
khôn ngoan.” Truyền thống Do-thái đã thêu dệt sẵn kiểu mẫu một Đấng Thiên Sai:
Ngài là Đấng uy quyền, có khả năng làm những dấu lạ lùng trong trời đất. Ngài
là Chúa của người Do-thái, nên Ngài sẽ giúp họ đánh đuổi ngoại bang, và cai trị
toàn thế giới. Với kiểu mẫu có sẵn của Đấng Thiên Sai, những người Pharisees
kéo đến với Chúa Giêsu, để thách thức Người làm một dấu lạ từ trời.
3.2/ Niềm tin dựa trên sự
hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa: Tại sao
Chúa Giêsu không chịu làm phép lạ? Thứ nhất, Ngài đã làm không biết bao nhiêu
phép lạ rồi. Những người Pharisees này hoặc đã từng chứng kiến, hoặc đã nghe biết
về những phép lạ Ngài đã làm. Thứ đến, phép lạ chỉ giúp khai mở niềm tin. Khi
Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, Ngài nhắc nhở cho họ những gì tiên-tri
Isaiah nói về Đấng Thiên Sai, giờ đây được hiện thực nơi Ngài; mục đích là để
giúp họ tin vào Ngài. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên dấu lạ sẽ không vững chắc.
Họ cần một sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài; chứ
không phải theo một Thiên Chúa và các kế hoạch do họ dựng nên. Nếu niềm tin chỉ
dựa trên phép lạ, niềm tin sẽ lung lay và biến mất khi không nhìn thấy phép lạ
nữa. Sau cùng, Chúa Giêsu không muốn con người điều khiển Thiên Chúa: khi con
người cần gì, Thiên Chúa có bổn phận làm phép lạ ban cho họ điều đó; mà không cần
biết điều họ xin có tốt hay không!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khiêm
nhường biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những việc thờ phượng
chúng ta làm là cho lợi ích của cá nhân chúng ta, chứ không thêm gì cho Thiên
Chúa.
- Đức tin Thiên Chúa
ban cho chúng ta có tiềm năng vươn cao vô hạn; nhưng cũng có thể bị đánh mất.
Chúng ta cần lợi dụng mọi cơ hội xảy ra trong cuộc đời để luyện tập đức tin sao
cho đến độ toàn hảo, vững bền, để có thể vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.
- Khi cầu xin điều gì
không được, chúng ta hãy xét xem điều đó có đúng ý Thiên Chúa không. Đừng bao
giờ có thái độ giận dữ trả thù bằng cách bỏ đạo hay làm hại những người được
Thiên Chúa phù hộ.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
12/02/2018
Thứ Hai tuần 6 TN
Mc 8,11-13
Mc 8,11-13
Những người Pha-ri-sêu đòi một dấu lạ để thử Chúa Giê-su.
Người thở dài và nói: “Sao thế hệ nầy lại xin dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông
biết. Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc 8,11-12)
Suy niệm: Chúa Giê-su đã làm biết
bao nhiêu phép lạ như hoá nước thành rượu, trừ quỷ, chữa bệnh, hoá bánh ra nhiều,
cho kẻ chết sống lại, dân chúng ai cũng biết, những người biệt phái cũng chứng
kiến, ấy thế mà họ vẫn không tin và còn yêu cầu Chúa cho họ xem điềm lạ trên trời!
Mà xem để thử Chúa chứ nào họ có ý muốn tin vào Ngài đâu! Chúa Giê-su đã từ chối
một yêu cầu như thế bởi Ngài có làm phép lạ là để cứu độ mà điều kiện trước
tiên là phải có lòng tin, hay ít nhất có thành tâm, có thiện chí là cánh cửa mở
sẵn sàng để đón nhận lòng tin. Thế nên, đã không muốn tin thì dù Đức Ki-tô có từ
kẻ chết sống lại, người ta cũng tìm mọi cách bưng bít; ngược lại nếu đã có lòng
thành thì chỉ cần một lời nói của Chúa cũng đủ khơi dậy niềm tin.
Mời Bạn: Đến với Đức Ki-tô và dẫn người
khác đến với Ngài không phải bằng những tranh luận vô bổ hay bằng những sự lạ
nhằm thoả mãn tính hiếu kỳ. Trái lại hãy đến với Ngài bằng một tấm lòng thành sẵn
sàng đón nhận ơn đức tin và ơn hoán cải. Lúc đó bạn sẽ nhận ra được những dấu lạ
Chúa vẫn thực hiện trong đời của bạn.
Sống Lời Chúa: Trong tuần này, bạn sắp xếp
thời gian chầu Thánh Thể để chiêm ngắm dấu lạ Chúa vẫn thực hiện nơi bí tích
Tình Yêu này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, do tình thương của Chúa chứ không phải công lao
của con, Chúa đã ban cho con ơn đức tin. Con xin cảm tạ Chúa và xin Chúa củng cố
niềm tin nơi con, để con loan truyền tình yêu Chúa đến với anh chị em con.
(5 phút Lời Chúa)
Tìm một dấu lạ từ trời (12.2.2018 – Thứ hai Tuần 6 Thường niên)
Như người Pharisêu, chúng
ta chẳng hề mãn nguyện. Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Suy niệm:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi
cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như
thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có
hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy
nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều
phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không
nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo
sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy
xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn
mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống
khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt
những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để
chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm
tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập
giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền
trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ
chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương
trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng
tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy
Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức
Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không
phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế
cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người
khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn
không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ
trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ
chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra
được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng
ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn
đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng
ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên
Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự
kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như
là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa
nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự
hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn,
trong những hạt tử vô
cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng
phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một
thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng
trái chín,
mầu vàng mặt trời xế
chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một
thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách,
tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ
lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một
thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới,
của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân
dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay
khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần
ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của
muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi
cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao
cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi
cao,
giữa biển sâu, trong rừng
vắng,
chỗ nào chúng con cũng
thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên
nhiên này
như một người bạn, một
quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà
trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn
kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau
bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái
đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng
nên
được cùng với cả nhân
loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh
quang trong Nước Cha. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG HAI
Hồn Lành Trong Xác
Mạnh
Tập luyện thể dục thể
thao, đó là chúng ta trân trọng thân xác của mình. Chúng ta đạt được tình trạng
khỏe mạnh thể lý hết sức có thể, với hoa quả của nó là niềm khoan khoái lớn
lao. Trong nhãn giới đức tin, chúng ta biết rằng nhờ phép Rửa, trọn vẹn con người
– cả hồn lẫn xác – đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần: “Anh em không biết
thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em sao… và vì thế anh
em không còn thuộc về chính mình nữa? Anh em đã được trả giá để chuộc lại. Vậy
anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (ICr 6, 19 – 20).
Thể thao gắn liền với
việc phấn đấu để thắng một cuộc thi đấu hay đạt được một mục tiêu nào đó. Nhưng
với đức tin, chúng ta biết rằng “triều thiên không thể hư nát” của cuộc sống
vĩnh cửu thì giá trị hơn nhiều so với bất cứ giải thưởng nào trên trần gian.
Triều thiên đó là ân huệ của Thiên Chúa, song đó cũng là kết quả của việc
chuyên cần đào luyện nhân đức hằng ngày. Và, theo Thánh Phao-lô, đây là một cuộc
thi đấu thực sự quan trọng. Ngài nói: “Anh em hãy tha thiết tìm những ơn cao trọng
nhất” (1Cr 12, 31). Thánh Phao-lô muốn nhắc nhở chúng ta hãy hướng lòng trí về
những ân huệ góp phần tăng triển Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta kiên trì trong
cuộc chạy đua này, những ân huệ ấy sẽ đem lại một giải thưởng sinh ích lợi vĩnh
cửu cho chúng ta.
Hạnh Các Thánh
2 Tháng Hai
Thánh Phêrô Baptist và Các Bạn
(c. 1597)
Nagasaki
nổi tiếng đối với chúng ta vì một trái bom nguyên tử đã thả xuống đây năm 1945.
Thành phố ấy cũng nổi tiếng đối với dòng Phanxicô vì một số tu sĩ và anh chị em
dòng ba đã được tử đạo ở đây năm 1597.
Cha
Phêrô Baptist Blasquez sinh năm 1542 trong một gia đình quyền quý ở Tây Ban
Nha; ngài gia nhập dòng Phanxicô ở quê nhà. Ngài làm việc vài năm ở quần đảo Phi
Luật Tân, và năm 1592 ngài được cử làm đại diện cho Vua Philip II của Tây Ban
Nha để thương thảo hòa bình với Hideyoshi, đang nắm quyền ở Nhật Bản.
Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ, Cha Phêrô Baptist và một vài tu sĩ ở lại Nhật để truyền
bá tin mừng. Sự thành công của họ trong công cuộc truyền giáo, qua việc thành lập
các tu viện, nhà thờ cũng như bệnh viện khiến Hideyoshi lo sợ. Vào tháng Mười
Hai 1596, ông ra lệnh bắt giam Cha Phêrô Baptist, hai vị linh mục Phanxicô
khác, hai thầy, một giáo sĩ, 17 người Nhật thuộc dòng Ba Phanxicô và ba vị linh
mục dòng Tên.
Tất
cả bị kết án tử hình vào đầu tháng Giêng ở Miyako, họ bị đưa về Nagasaki trong
chuyến hành trình bằng đường thủy lâu đến bốn tuần lễ. Vào ngày 5 tháng Hai
1597, tất cả bị treo trên thập giá và bị đâm thâu qua bằng giáo. Tất cả được
phong thánh năm 1862.
Lời Bàn
Sự
"hy sinh" mà Thánh Phêrô Baptist đề cập đến đã sinh kết quả (xem Lời
Trích bên dưới). Trong thập niên 1860, các nhà truyền giáo lại đến Nagasaki và
họ tìm thấy một côäng đoàn Kitô Giáo tuy nhỏ nhưng thật vững mạnh, được khai
sinh vào lúc các vị chịu tử đạo. Những người Công Giáo này, thường xuyên đến với
nhau, đọc Sách Thánh và lần chuỗi mai khôi để giữ vững đức tin. Các nhà truyền
giáo luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất công trình của họ. Một công việc
tốt lành - trong sứ vụ truyền giáo hoặc bất cứ nơi đâu - thì không bao giờ uổng
phí.
Lời Trích
Ba
ngày trước khi bị tử hình, Thánh Phêrô Baptist viết cho các bạn ở ngoài nước Nhật:"Vì
tình yêu Thiên Chúa, ước mong sao nhân đức của các bạn sẽ phó thác chúng tôi
cho Thiên Chúa, để Ngài chấp nhận hy lễ cuộc đời chúng tôi. Qua những gì tôi
nghe được ở đây, tôi nghĩ chúng tôi sẽ bị treo trên thập giá vào thứ Sáu này,
vì chính vào ngày thứ Sáu mà họ cắt tai mỗi người ở Miyako, là một biến cố
chúng tôi chấp nhận như món quà của Thiên Chúa. Do đó, vì tình yêu Thiên Chúa,
chúng tôi xin các bạn hãy tha thiết cầu nguyện cho chúng tôi."
Trích từ NguoiTinHuu.com
12 Tháng Hai
Những Kho Tàng Quý Giá
Giá
trị của những đồ cổ thường gia tăng với thời gian.
Dạo
tháng 5 năm 1990, một chiếc xe Rolls Royce do Anh Quốc chế tạo năm 1907 đã được
bán đấu giá là 2,860,000 đô la tại bang Florida bên Hoa Kỳ. Ðây là giá bán một
chiếc xe cổ cao nhất từ trước tới nay. Chiếc xe này đã từng được gia đình cự
phú Rochefeller sử dụng.
Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là giá bán một bức tranh của danh họa người Hòa Lan là
Vincent Van Gogh. Bức tranh họa lại chân dung của một người bạn thân cuqả danh
họa là bác sĩ Gachet, được thực hiện năm 1890, tức là cách đây đúng hơn 100 năm.
Trong một cuộc đấu giá tại phòng triển lãm ở New York bên Hoa Kỳ, bức tranh đã
được bán đấu giá là 82,500,000 đô la. Ðây là giá bán cao nhất từ trước tới nay
đối với một tác phẩm nghệ thuật.
Cũng dạo đó, tại Tây Ðức, người ta đã đem bán đấu giá cả những tác phẩm của nhà
độc tài Hitler. Một bức tranh sơn nước của ông đã được bán với giá là 6,134 đô
la. Ngay cả một ấn bản của tác phẩm Mein Kampf, trong đó Hitler đã vạch ra
chương trình hành động gian ác của ông và các cộng sự viên của ông cũng được đem
bán đấu giá. Người mua có lẽ không nghĩ đến giá trị nghệ thuật cho bằng muốn giữ
làm kỷ niệm di tích có liên quan đến tội ác và một trong những thời kỳ đen tối
nhất trong lịch sử nhân loại.
Tất
cả những người môn hạ đích thực của Ðức Kitô cũng là những nhà nghệ sĩ mà các
tác phẩm đều vượt thời gian. Tác phẩm mà các ngài để lại chính là cả cuộc sống
được họa lại theo khuôn mẫu của Ðức Kitô. Những tác phẩm ấy không bao giờ được
đem bán đấu giá, bởi vì chúng vô giá. Không có tiền bạc nào có thể mua được
công đức và các hy sinh của các Thánh. Người ta chỉ có thể chiêm ngắm bằng đôi
mắt của đức tin. Có những cuộc sống xả thân quên mìnhmà mọi người đều biết đến,
có những cuộc sống âm thầm trong gian lao thử thách mà chie mình Thiên Chúa mới
chân nhận giá trị. Hiển hách hay âm thầm, cuộc đời của những vị thánh là những
tác phẩm mà giá trị vẫn muôn tồn tại qua muôn thế hệ.
Mỗi
một người Kitô chúng ta, trong cố gắng mô phỏng Ðức Kitô, cũng là những nghệ sĩ
cách này hay cách khác đều để lại những tác phẩm cho hậu thế. Chúng ta không để
lại tài sản, chúng ta không để lại những tác phẩm nghệ thuật, mà chính là cả cuộc
sống của chúng ta. Trong âm thầm theo Chúa, phục vụ tha nhân, chịu đựng vì đức
tin, làm chứng tá cho Tin Mừng: chúng ta luôn được mời gọi để lại cho hậu thế
kho tàng vô giá nhất: đó là Niềm Tin. Âm thầm hay rực sáng, Niềm Tin đó phải là
kho tàng quý giá nhất mà mọi người chúng ta đều được mời gọi để sống, để bồi đắp,
để vun trồng và truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét