15/11/2018
Thứ năm tuần 32 thường niên
Thánh Albertô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh
khoảng năm 1206 tại Lau-in-gân, nước Đức. Sau khi theo học ở Pa-đô-va và Pa-ri,
người nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo, đảm nhận công việc giảng dạy ở nhiều nơi. Đặc
biệt, tại đại học Pa-ri (1245-1248). Tại đây, trong số các học trò, có một người
sau thành nổi danh, đó là thánh Tôma Aquinô. Được chọn làm giám mục Ra-tít-bon,
nhưng thánh An-be-tô chỉ làm công việc lãnh đạo vỏn vẹn có hai năm so với cả một
đời làm giáo sư và nhà khảo cứu, chuyên lo khám phá những quy luật của khoa vật
lý để tìm ra sự can thiệp của Đấng Sáng Tạo. Người qua đời ở Cô-lô-nhơ năm
1280.
BÀI ĐỌC I: Plm 7-20
“Xin anh tiếp nhận
nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi cho Philêmon.
Anh thân mến, tôi rất
đỗi vui mừng và an ủi, vì lòng bác ái của anh, vì hỡi anh, nhờ anh mà tâm hồn
các thánh được hài lòng.
Bởi đó, dầu trong Đức
Giêsu Kitô, tôi có đủ quyền để truyền cho anh điều phải lẽ, nhưng tôi thà nại
vào đức bác ái mà nài xin anh thì hơn, vì anh cũng như tôi. Phaolô già nua, và
hiện đang bị cầm tù vì Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh cho Ônêsimô, đứa con tôi
đã sinh ra trong xiềng xích. Xưa kia nó là người vô ích cho anh, nhưng hiện
nay, nó lại hữu ích cho cả anh và tôi nữa, tôi trao lại cho anh. Phần anh, anh
hãy đón nhận nó như ruột thịt của tôi.
Tôi cũng muốn giữ nó lại
để thay anh mà giúp đỡ tôi trong lúc tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì
chưa biết ý anh, nên tôi không muốn làm gì, để việc nghĩa anh làm là một việc tự
ý, chứ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa anh một thời gian để rồi anh sẽ tiếp
nhận nó muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như
một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với tôi, huống chi là đối với anh,
về phần xác cũng như trong Chúa.
Vậy nếu anh nhận tôi
là bạn hữu, thì xin anh hãy đón nhận nó như chính mình tôi vậy. Nếu nó đã làm
thiệt hại cho anh điều gì, hay mắc nợ anh, xin anh hãy tính vào sổ của tôi.
Chính tôi là Phaolô đây, tôi tự tay viết là tôi sẽ thanh toán, trừ phi tôi kể
ra cho anh hay rằng chính anh mắc món nợ với tôi. Hỡi anh, thật thế. Nhờ anh
tôi sẽ được hân hoan trong Chúa: anh hãy làm cho tôi được thoả lòng trong Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 145, 7.
8-9a. 9bc-10
Đáp: Phúc thay con
người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ (c. 5a).
Xướng: 1) Thiên Chúa
trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn.
Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Đáp.
2) Thiên Chúa mở mắt
những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên
Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ
những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ
làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Đức Thiên Chúa của người sẽ làm vua tự đời này
sang đời khác. – Đáp.
ALLELUIA: 2 Tx 2,
14
Alleluia, alleluia!
– Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy
vinh quang của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17,
20-25
“Nước Thiên Chúa ở
giữa các ông”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người biệt
phái hỏi Chúa Giêsu “Khi nào nước Thiên Chúa đến”, thì Người đáp lại rằng: “Nước
Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được:
‘Này nước trời ở đây hay ở kia’. Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông”. Chúa lại
phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của
Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: ‘Này Người ở đây và này
Người ở kia’, các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân
trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của
Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này
xua đuổi”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Mầu nhiệm
Nước Chúa
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn
luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên
Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên
Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: "Nước Thiên
Chúa không đến như một điều có thể quan sát được". Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ
để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp
được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng
của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng
mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu
nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng
cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc
khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc
bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố
và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu
dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là
chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay
cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính
niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho
chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện
diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được
Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 32 TN2
Bài đọc: Phm 7-20; Lk 17:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Những dấu chỉ để nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa trong tâm hồn.
Con người thường phán
xét theo những gì họ xem thấy bên ngòai. Họ muốn dùng những tiêu chuẩn bên
ngòai để xác định khi nào Đấng Thiên Sai và khi nào Ngày Phán Xét tới. Khác với
con người, Thiên Chúa phán xét theo những gì Ngài thấy bên trong. Ngài mời gọi
con người nhìn sâu vào tâm hồn bên trong, để nhận ra những tiêu chuẩn của Nước
Trời. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô cố gắng thuyết phục Philemon nhận lại người
nô lệ của ông đã lỡ dại trốn đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết để nhận ra
triều đại của Thiên Chúa đến hay chưa, con người không thể dựa vào những sự kiện
bên ngòai, nhưng phải dựa vào những thay đổi trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
Thư Thánh Phaolô gởi
cho Philemon, cộng sự viên của ngài, chỉ vỏn vẹn trong hai trang và liên quan
chỉ một vấn đề chính: Ngài xin ông nhận lại người nô lệ, Oneximo, đã trót dại bỏ
trốn qua Roma tìm tự do. Nhiều người đã so sánh việc Phaolô bầu cử cho Oneximo
như việc Chúa Giêsu bầu cử cho con người trước tòa Thiên Chúa. Đức bác ái của
Kitô Giáo được nhấn mạnh trong tòan thể thư này:
(1) Thánh Phaolô khen
đức bác ái của Philemon: Ngay từ đầu thư, Phaolô đã đề cao đức bác ái của
Philemon: “Thật thế, tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của
anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được
phấn khởi.”
(2) Ngài nhân danh đức
bác ái xin Philemon làm cho Ngài một chuyện: nhận lại Oneximo. Theo luật của
Roma thời đó, người chủ có tòan quyền trên nô lệ của mình. Nếu người nô lệ trốn
đi và bị chủ bắt lại, anh có thể bị chủ giết chết. Thánh Phaolô rất hiểu tâm
lý: Con người không thích bị bắt buộc phải làm, nhưng muốn có tự do để quyết định,
nên Ngài nói với Philemon: “Mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Kitô, tôi có đủ mạnh dạn
để truyền cho anh làm điều anh phải làm; nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của
anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một
người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu.”
(3) Thánh Phaolô đối xử
bác ái với Oneximo: Ngài không coi anh như một người nô lệ nhưng như một người
con ruột thịt. Ngài nói với Philemon: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa
con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Oneximo, kẻ xưa kia đối với anh
là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về
cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi.”
(4) Thánh Phaolô quan
tâm đến người khác nhiều hơn mình: Mặc dù ngài muốn giữ Oneximo ở lại để giúp đỡ
ngài trong lúc già yếu và tù đày, nhưng Oneximo thuộc về Philemon; vì thế chỉ
Philemon mới có quyền quyết định: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với
tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng.
Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa
anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện.”
(5) Thánh Phaolô
khuyên Philemon nên đối xử tốt với Oneximo: không phải như một người nô lệ nữa,
mà như một người anh em trong gia đình và trong Chúa: “Nó đã xa anh một thời
gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người
nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối
với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về
tình người cũng như về tình anh em trong Chúa.”
(6) Thánh Phaolô coi
việc tiếp nhận Oneximo là tiếp nhận chính ngài: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng
đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” Và Ngài xin Philemon
cho ngài được hưởng ân huệ này nhờ Đức Kitô: “Xin anh cho tôi được hưởng niềm
vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Kitô.”
2/ Phúc Âm: Triều Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại
của Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên quan đến “triều đại của Thiên Chúa”
trong câu 21 và 22 đều được dùng ở thời hiện tại. Điều này chứng tỏ Thánh Luca
muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa đến trong trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ
đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp. Triều đại của Thiên Chúa đã đến trong trần
gian, nhưng để nhận ra con người không thể:
– dựa vào những dấu chỉ
bên ngòai như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một
điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!”
nhưng phải nhận ra nhờ những dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống
bác ái với mọi người.
– triều đại của Thiên
Chúa đang ở giữa (hiện tại) các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên
Chúa. Nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã
đến trong lòng mỗi tín hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô
sẽ đến lần thứ hai? Các động từ chính của cả 3 câu 22, 23, 24 đều được dùng ở
thời tương lai. Câu 25 là lời tiên tri: Chúa Giêsu báo trước những gì sắp xảy
ra cho Ngài trong tương lai gần. Về Ngày Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
– Không ai biết được
thời gian: “Vì thế, khi người ta sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở
đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo.”
– Không ai biết được
nơi chốn: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời
kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người.”
– Các môn đệ biết những
gì sắp xảy ra cho Chúa Giêsu trong tương lai gần: “Nhưng trước đó, Người phải
chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.” Khi chứng kiến những sự kiện này,
các môn đệ sẽ biết triều đại của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa
Giêsu sẽ được cất đi khỏi các ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày
với Chúa Giêsu, nhưng không còn nữa: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một
trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta có thể nhận
ra Triều Đại của Thiên Chúa đã đến với chúng ta bằng niềm tin của chúng ta vào
Đức Kitô, biểu lộ qua việc bác ái chúng ta đối xử với những người chung quanh,
nhất là những người kém may mắn, như Phaolô khuyên Philemon đối xử với Onesimo,
người nô lệ.
– Triều đại của Thiên
Chúa đến không từ bên ngòai để chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của
trần gian; nhưng chúng ta có thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong
tâm hồn nhờ vào những dấu chỉ bên trong như ăn năn xám hối, tin vào Đức Kitô,
và sống bác ái với mọi người.
– Về Ngày Chúa đến lần
hai, Chúa Giêsu đã nói rõ: Chắc chắn Ngày đó sẽ xảy ra, nhưng không ai biết được
thời gian và nơi chốn. Vì thế, đừng tiên đóan hay tin ai cho biết về Ngày đó. Tốt
hơn, chúng ta nên chuẩn bị và sẵn sàng chờ đợi.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
15/11/2018 –
THỨ NĂM TUẦN 32 TN
Th. An-be-tô Cả,
giám mục, tiến sĩ HT
Lc 17,20-25
TRIỀU ĐẠI THIÊN
CHÚA ĐẾN RỒI
“Vì này Triều đại
Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17,21)
Suy niệm: Có thể nói, loan báo “Triều Đại Thiên Chúa” là
chính sứ mạng của Chúa Giê-su khi Ngài nhập thế. Ngay từ những lời đầu tiên khi
bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giê-su đã rao giảng: “Triều đại Thiên Chúa đã đến
gần” (Mc 1,15). Ngài quả quyết thời đại hồng ân mà ngôn sứ I-sa-i-a tiên báo
nay đã thành hiện thực: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
(Lc 4,21). Thế mà tiếc thay, người ta lại mải mê đi tìm một thứ “triều đại”
khác, “ở chỗ này, ở chỗ kia” “như một điều có thể quan sát được”. Hôm nay, Chúa
Giê-su nói trắng ra: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Ngài chính là
“Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Chỉ khi nhìn lên thập
giá người ta mới có thể nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa đã đến nơi chính con
người Đức Giê-su, như người trộm sám hối đã tuyên xưng: “Ông Giê-su ơi! Khi nào
vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42).
Mời Bạn: Người đời quan tâm đến ngày tận thế, nên họ lo lắng
tìm hiểu bao giờ ngày ấy đến. Còn bạn, bạn chuẩn bị tâm hồn cho ngày đó như thế
nào? Đối diện với ngày tận cùng của thế giới, người ta sẽ chạy chỗ này, chỗ
kia; còn bạn, bạn có nhận ra và xác tín rằng: nơi bạn chạy đến là Chúa Giê-su;
sống với Chúa Giê-su, chính là bạn đang ở trong Nước của Thiên Chúa rồi.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày đến với Chúa Giê-su Thánh Thể để sống
trong Triều đại của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, vũ trụ này sẽ đến ngày tận cùng
như ý Chúa. Xin cho chúng con luôn tỉnh thức, gắn bó với Chúa, để ngay ở đời
này, chúng con đã thuộc về vương quốc của Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Nước Thiên Chúa
(15.11.2018 – Thứ Năm Tuần 32 Thường niên)
Suy niệm:
Từ sau khi dân Ítraen định cư ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Ítraen để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Ítraen
như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của nước Ítraen, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Ítraen để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Ítraen
như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của nước Ítraen, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi hơn 6 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi hơn 6 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới :
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn
Lên
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng
Những Thực Tại Đời Thường
Tiệc cưới Cana trong
Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải.
Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để
dự một đám cưới. Người không đến đó một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng
có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm
quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta
không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người
dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng
của Người qui hướng vào việc thiết lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc
trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người
tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với
lối sống của Người. Nhưng sự thật không phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng
ta biết cách định hướng các thực tại trần gian này qui hướng về Vương Quốc của
Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu
liên đới với các thực tại đời thường của cuộc sống con người để giúp chúng ta
hiểu rằng những giá trị đích thực của con người có thể và phải phục vụ cho một
định mệnh siêu vượt trên cuộc sống trần gian này.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 15-11
Thánh Albertô Cả ,
giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Plm 1, 7-20; Lc 17,
20-25.
LỜI SUY NIỆM: Người Pharisêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại
Thiên Chúa đến, Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có
thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói:’ Ở đây này~’ hay: ‘Ở kia kìa!’, vì
này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”
Những người Pharisêu thắc mắc về Triều Đại Thiên Chúa với Chúa Giêsu, Măc dầu
Người không trả lời về nơi chốn và thời gian, Nhưng Người khẳng định: “Triều Đại
Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Đối với những người Pharisêu họ khó chấp nhận,
vì họ không có niềm tin vào Người. Họ chỉ xem Người là bác Thợ Mộc. Nhưng chúng
ta hôm nay là những Kitô hữu, chúng ta cùng nhau đang tin, là chúng ta đang ở
trong Triều Đại của Thiên Chúa, một Triều Đại của tình yêu thương tha thứ, một
triều đại của “Lòng Thương Xót”
Lạy Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ của Chúa đã cứu chuộc chúng con trở nên con cái của
Chúa Cha trong bình an. Xin cho chúng con luôn ý thức, để sống xứng đáng với ơn
cứu chuộc của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15/11
THÁNH ALBERTÔ CẢ
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (1206 – 1280)
Thánh Albertô là một
người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, Dòng được thành lập năm 1216. Ngài góp
phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức
giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo trợ cho những ai say mê
nghiên cứu các khoa học tự nhiên.
Ngài sinh ra tại
Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh
nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu niên Đức này là lòng yêu thích
nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng
Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám
phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa.
Cuối cùng Albertô đã bỏ
rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne
để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân phước Giocdano
(Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập
ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua,
Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài:-
Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản
nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời
cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự thoát: – “Lạy Chúa Giêsu Kitô,
con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền về
danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học”.
Dưới ánh sáng chân lý
Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ
thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba.
Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số những nhà trí thức lớn thời
Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng
những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức, thu thập những ý niệm về các loại
súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới
các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy
học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu
tới người học trò thiên phú này là “bò câm”, Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của
con bò này sẽ vang dội khắp nơi.
Khoảng năm 1240, Ngài
tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết
các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công trường nay vẫn còn giữ tên
Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt
cuộc tranh luận chỉ cần nói: “Thày Albertô đã nói vậy”.
Tài năng Ngài lan rộng
tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng
thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề tài khác nhau: thần học, toán học,
luân lý, chính trị, triết học, hình học, điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày
kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự
lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng
phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ? Để trả lời, thánh làm dấu thánh
giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.
Vua thánh Luy (Louis)
tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu
trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức
giáo hoàng , Ngài giã từ căn phòng sách vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ,
không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời
Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an
bình trong dòng để dạy học và viết lại những quan sát và suy tư của mình. Nhưng
Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.
Trong trung tâm giàu
có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức giám mục không có lấy “một đồng tiền
trong két, một giọt rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa”. Dầy vậy, thánh
ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc
hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm
1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước
Đức.
Một năm sau Đức giáo
hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm.
Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại
những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước
Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270
Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền
Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc phải đi Paris để
bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma Aqunô.
Albertô hoàn toàn già
nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng
cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình. Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có
du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch: – “Albertô không còn ở đây nữa, ông
ta …”
Ngài qua đời êm ái tại
phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội
Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
15 Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có hai vị thiền sư
vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến
một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được… Lập tức, một
trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư
khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc
sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: “Chúng ta là người tu hành,
không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà
trên tay?”.
Vị sư đã bồng người
thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ
mãi mang cô ta tới đây”.
Chúa Giêsu đã nói:
“Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác… Sự hoán cải đích thực chính là
hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài, nếu không đi cùng một
ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là trò giả hình…
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét