17/11/2018
Thứ bảy tuần 32 thường niên.
BÀI ĐỌC I: 3 Ga 5-8
“Vậy chúng ta phải tiếp đãi những
người như thế, để chúng ta cũng được cộng tác với những người hoạt động cho
chân lý”.
Trích thư thứ ba của
Thánh Gioan Tông đồ.
Gai-ô thân mến, xin
ông cứ trung tín làm những gì ông đã thi hành cho các anh em, mặc dầu họ là ngoại
kiều. Họ đã chứng minh lòng bác ái của ông trước mặt cộng đoàn; ông nên rộng
rãi tiễn họ lên đường sao cho xứng đáng với Chúa. Vả chăng, chính vì danh Chúa,
họ đã lên đường mà không nhận lãnh gì của dân ngoại. Vậy chúng ta phải tiếp đãi
những người như thế, để chúng ta cũng được cộng tác với những người hoạt động
cho Chân lý. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 111, 1-2.
3-4. 5-6
Đáp: Phúc đức thay
người tôn sợ Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Phúc đức
thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người
sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. –
Đáp.
2) Trong nhà người có
tài sản phú quỳ, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất
hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công minh. – Đáp.
3) Phúc đức cho người
biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới
đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. –
Đáp.
ALLELUIA: 2 Tm 1, 10b
Alleluia, alleluia!
– Đấng Cứu Chuộc chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã dùng Tin Mừng mà tiêu diệt sự chết,
và chiếu soi sự sống. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 18, 1-8
“Thiên Chúa sẽ minh xử cho những
kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã
lòng mà rằng:
“Trong thành kia, có một
vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong
thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi
tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ
rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta,
nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến
mãi làm ta nhức óc’ “.
Rồi Chúa phán: “Các
con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử
cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với
họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người
đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Tín thác vào
Thiên Chúa
Tuần báo Công Giáo
Dân Tộc số ra ngày 15/10/1995 ở Mục Trong Tuần, có ghi một sự kiện như sau:
Trong 4 năm thực hiện pháp lệnh tối cao của công dân được Hội Ðồng nhà nước ban
hành ngày 7/5/1991, riêng tại Thành phố Sàigòn có 36 đơn vị chức năng đã nhận
được 11,635 đơn từ, trong đó có tới 81.5% đơn từ tố cáo khiếu nại về nhà cửa, đất
đai. Theo số liệu chưa đầy đủ, đơn từ tố cáo khiếu nại còn tồn đọng chưa giải
quyết là 6,520 đơn. Bài báo đưa ra đề nghị: "Ðể có thể giải quyết rốt ráo
những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của mọi người dân khi quyền lợi chính đáng
của mình bị xâm phạm, quyết định cuối cùng của Ủy ban nhân dân các cấp chưa đủ
thuyết phục, cần có một tòa án xét xử công minh".
"Cần có một tòa
án xét xử công minh", lời kêu gọi trên đây không biết có nhắm đến những
trường hợp quan trọng hơn, trong đó không chỉ có cái nhà mảnh đất, mà chính sự
sống còn của biết bao người bị trù dập mà chẳng hề được đem ra xét xử hay
không? Cần có một tòa án xét xử công minh, thiết tưởng đó là tiếng kêu cầu bình
thường của người dân mỗi khi quyền lợi của họ bị vi phạm. Quả thật, công lý vẫn
tiếp tục kêu la cho tới khi nào được thực thi. Nhưng đối với biết bao nạn nhân,
nhiều khi người ta chỉ còn biết kêu Trời, mà Trời thì có thấu chăng? Nhiều khi
chúng ta cảm thấy mệt mỏi vì những tiếng kêu cầu của chúng ta: Thiên Chúa dường
như vẫn câm lặng trước những bất công mà những kẻ vô tội trên khắp thế giới
đang phải gánh chịu.
Chúa Giêsu thấu hiểu
được tâm trạng ấy của chúng ta, cho nên trong Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi
chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa. Lý luận của Ngài trong dụ
ngôn về một quan tòa bất công thật đơn giản: nếu quan tòa bất lương đến độ
không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta, mà còn phải chịu thua trước
lời van vỉ của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa, Ðấng trọn hảo và yêu
thương con người. Chúng ta tưởng Thiên Chúa câm lặng và vô cảm trước nỗi khổ
đau và lời kêu cầu của con người; thật ra, công lý của Thiên Chúa không phải là
công lý của loài người, lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa không phải là lẽ khôn
ngoan mà chúng ta có thể thẩm định được theo tiêu chuẩn của loài người. Tư tưởng
của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người. Quyền năng và tác động của
Ngài vượt trên mọi tính toán, cân lường, suy tưởng và chờ đợi của chúng ta.
Ðó là ý tưởng chúng ta
cần nhận ra trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mầu nhiệm
tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu mà con
người không thể hiểu thấu được, do đó, không có tâm tình và thái độ nào phải đạo
hơn là phó thác cho Thiên Chúa. Phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là biết
đón nhận ý muốn của Thiên Chúa, ngay cả và nhất là khi phải trải qua nghịch cảnh,
thất bại, khổ đau; phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là luôn tin rằng từ những
mất mát, đổ vỡ và ngay cả từ tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút
ra những điều tốt đẹp cho con người.
Nguyện xin Chúa đừng để
chúng ta phải rơi vào thất vọng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 32 TN2
Bài đọc: 3
Jn 5-8; Lk 18:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành
trong việc cầu nguyện và làm việc bác ái
Con người thời nay làm
việc gì cũng mong có kết quả tức khắc: học nghành gì để có việc ngay và kiếm được
nhiều tiền dẫu mình không có khả năng về nghành đó, đầu tư vào những gì sẽ sinh
lời ngay dẫu có nhiều nguy hiểm mất cả vốn. Thái độ này cũng lan tràn vào các mối
liên hệ của con người với nhau và với Thiên Chúa. Con người không còn đủ kiên
nhẫn để sửa sai cho mình và cho người khác, họ quyết định ly dị nhanh chóng sau
vài ba lần khác biệt ý kiến. Tương tự như thế trong mối liên hệ giữa con người
với Thiên Chúa: sau vài lần cầu xin mà không được như ý hay qua một vài đau khổ
thử thách, họ mất niềm tin và chấm dứt mối liên hệ với Ngài. Nói tóm, họ không
có đủ kiên nhẫn chờ đợi để nhìn thấy kết quả trong tương lai. Nhưng họ quên đi
rằng việc gì cũng phải có thời gian của nó, và người thành công là người biết
kiên trì chờ đợi và biết vượt mọi khó khăn để đạt đích. Các Bài đọc hôm nay cho
chúng ta 2 lời khuyên về việc trung thành. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan khuyên
các tín hữu phải trung thành trong việc giúp đỡ các nhà truyền giáo. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trung thành trong việc cầu nguyện qua câu
truyện bà góa và ông quan tòa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trung thành làm việc bác ái.
1.1/ Bổn phận phải giúp đỡ
mọi người: Yêu thương Thiên Chúa không chỉ bằng
môi miệng, nhưng phải cụ thể hóa bằng những việc bác ái làm cho tha nhân; vì điều
gì con người làm cho tha nhân là họ làm cho chính Thiên Chúa (Mt 25). Vì thế,
các tín hữu có bổn phận phải giúp đỡ tất cả mọi người, nhất là những người cô
thế cô thân. Thánh Gioan khuyên Gaio, cộng sự viên của ngài: “Anh thân mến, anh
hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh em, dù họ là những
người xa lạ.”
Việc bác ái còn giúp
con người nhận biết tình thương Thiên Chúa và tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã
nói: “Sự sáng của các con cũng phải tỏ hiện để họ nhìn thấy các việc chúng con
làm và ngợi khen Cha trên trời.” Mẹ Têrexa thành Calcutta đã đưa không biết bao
nhiêu người trở lại với Thiên Chúa qua các việc bác ái Mẹ làm cho các người
nghèo khổ khắp nơi trên thế giới, cách riêng tại Ấn-Độ. Thánh Gioan cũng thuật
lại lời của một nhân chứng đã nhận sự giúp đỡ từ Gaio: “Họ đã làm chứng về đức
bác ái của anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ
cho chuyến đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa.”
1.2/ Bổn phận phải giúp đỡ
các nhà truyền giáo: Chính vì muốn cho mọi
người nhận biết Chúa, các nhà truyền gíao đã hy sinh lên đường đi rao giảng Tin
Mừng. Làm thế nào để các nhà truyền gíao đi lại và sinh sống nơi đất khách quê
người? Họ không thể làm việc để kiếm tiền sinh sống vì nếu muốn có tiền sinh sống,
họ có thể ở nơi quê hương của họ để làm việc kiếm tiền. Bổn phận truyền giáo
không chỉ là bổn phận của họ, mà là bổn phận của mọi tín hữu. Vì thế, kẻ góp
công người góp của, Thánh Gioan khuyên các tín hữu: “chúng ta phải tiếp đón những
con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật.”
2/ Phúc Âm: Trung thành trong việc cầu nguyện
2.1/ Ông quan tòa vô đạo
và bà góa quấy rầy: Mục đích tại sao Chúa
Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này là để dạy các ông phải cầu nguyện luôn,
không được nản chí.
(1) Ông quan toà: chẳng
kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, huống hồ một bà góa nghèo. Một
thời gian khá lâu, ông không chịu nghe lời kêu xin của bà góa; nhưng cuối cùng,
ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai
ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến
hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
(2) Bà góa: Bà là người
cô thân cô thế, chẳng có chồng để nương nhờ; vì thế, trở thành mồi ngon cho người
khác hãm hại. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông quan tòa: “Đối phương tôi hại
tôi, xin ngài minh xét cho.” Bị ông quan tòa từ chối nhiều lần, nhưng Bà không
nản chí và nhất định kiên trì xin cho tới khi được.
2.2/ Thiên Chúa yêu
thương các con của Ngài: Chúa Giêsu so sánh
ông quan tòa vô đạo đó với Cha của Ngài, và bảo đảm sự đáp trả: “Anh em nghe
quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những
kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ
chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.”
Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ ban cho con người tất cả những gì họ xin, vì:
– con người có thể xin
những gì có hại cho mình: Con người không nhìn được trước tương lai nên không
biết hậu quả của những gì mình xin; ví dụ: việc xin cho trúng số có thể đưa tới
tan nát gia đình, hay xin cho được quyền hành có thể đưa con người đến chỗ thiệt
mạng.
– con người có thể xin
những gì làm hại người khác: chẳng hạn, xin tiêu diệt kẻ thù. Họ quên đi kẻ thù
cũng là con của Chúa.
Cách xin tốt nhất là
hãy để cho Chúa chọn những gì có lợi cho mình và mọi người. Có một câu truyện kể
về một vị vua kia muốn để gia tài lại cho các con của mình. Để dạy cho các con
một bài học, Vua cho để những món quà quí giá trong những hộp xấu xí và để những
món quà xòang trong những hộp đẹp. Các hòang tử được nhà Vua cho tự ý chọn lựa,
và hầu hết chọn những hộp đẹp. Khi đến lượt chàng hòang tử út, anh tần ngần một
lúc rồi nói với Vua Cha: “Con không biết chọn, xin cha chọn cho con.” Vua Cha
đã chọn phần quà tốt nhất cho con, vì chỉ Vua biết đâu là món quà giá trị nhất.
Sau đó Chúa nói:
“Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa
chăng?” Đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là món quà vô giá Thiên Chúa ban
cho con người, nhưng để bảo vệ đức tin và làm cho đức tin ngày một tăng trưởng
là bổn phận của con người. Để đức tin được tăng trưởng, đau khổ thử thách là điều
không thể thiếu. Nếu xin chưa được, con người không được nản chí thất vọng,
nhưng càng phải kiên trì xin cho tới khi được.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải học
kiên nhẫn chờ đợi và vuợt mọi khó khăn thử thách thì mới có thể thành công
trong cuộc đời.
– Chúng ta phải trung
thành làm việc lành cho tất cả mọi người, nhất là giúp đỡ các nhà truyền giáo
trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
– Chúng ta phải kiên
trì trong việc cầu nguyện và xin ơn. Thiên Chúa có thể thử thách không ban ngay
để chúng ta có thời giờ nhìn ra giá trị của điều đang xin, hay Ngài có thể ban
cho chúng ta điều khác tốt hơn nếu Ngài thấy điều chúng ta xin không có lợi sau
này.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
17/11/2018 – THỨ BẢY TUẦN 32 TN
Th. Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
Lc 18,1-8
KIÊN TÂM NGUYỆN CẦU
“ …chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã
tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?” (Lc 18,7)
Suy niệm: Viên quan toà trong dụ
ngôn có thể là một viên chức ăn lương của Hê-rô-đê hoặc Phi-la-tô, vốn khét tiếng
là “bất chính,” dám tự nhận mình “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi
ai ra gì.” Ngược lại, người đàn bà kia đã goá bụa lại nghèo túng, bị người ta
thưa kiện mà không có gì để tự bênh vực, bảo vệ. Thế nhưng bà có một vũ khí mà
viên quan toà ấy cũng phải sợ: đó là sự kiên trì dai dẳng đến mức lì lợm khiến
ông ta phải đáp ứng để khỏi bị quấy rầy. Bằng biện pháp tương phản, Chúa Giê-su
đã chứng minh một cách hết sức thuyết phục về hiệu quả của việc kiên tâm cầu
nguyện: Nếu một người xấu xa như thế còn chịu thua lời van xin thì Thiên Chúa
quyền năng và nhân hậu vô cùng còn ban cho ta dồi dào hơn điều ta cầu xin biết
chừng nào?
Mời Bạn: Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta kiên tâm nguyện cầu. Nguyện cầu vừa là tỏ bày nhu cầu của mình lên Thiên
Chúa là Cha, vừa là hàn huyên tâm sự với Ngài. Người đàn bà góa không biết cậy
dựa vào đâu ngoài tên quan toà bất chính, vậy mà bà vẫn kiên nhẫn van xin. Còn
ta có Chúa là Cha rất nhân từ và quyền năng, lẽ nào ta lại thiếu kiên tâm khi đến
với Ngài? Cho dù điều bạn đang mong ước cầu xin đã lâu mà vẫn chưa được hiện thực
thì bạn cũng đừng nản chí sờn lòng bạn nhé.
Chia sẻ: về kinh nghiệm của bạn hoặc tấm gương của một người kiên
nhẫn cầu nguyện mà bạn biết.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi xin Chúa điều gì,
thêm vào cuối lời cầu của bạn câu sau đây: Xin cho ý Chúa được thể hiện.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy
Cha.
(5 Phút Lời Chúa)
Không được nản chí (17.11.2018 –
Thứ bảy Tuần 32 Thường niên)
Suy niệm:
Một trong những lý do khiến người ta bỏ cầu nguyện,
đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa,
nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe.
Thiên Chúa có hiện hữu không?
Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách?
Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái
trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man.
Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ.
Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành?
đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa,
nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe.
Thiên Chúa có hiện hữu không?
Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách?
Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái
trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man.
Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ.
Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành?
“Phải cầu nguyện luôn luôn và không được nản chí” (c. 1).
Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc.
Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa.
Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng.
Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công.
Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý.
Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt.
“Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2).
Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu.
Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa.
Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5).
Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây.
Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý
cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8).
Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối,
nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than.
Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc.
Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa.
Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng.
Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công.
Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý.
Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt.
“Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2).
Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu.
Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa.
Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5).
Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây.
Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý
cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8).
Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối,
nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than.
Trong thế giới hôm nay, sự dữ vẫn làm mưa làm gió.
Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện.
Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công.
Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng.
Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới.
Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện.
Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công.
Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng.
Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới.
Nhiều khi con người cảm thấy mình yếu đuối và bất lực.
Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày!
Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8),
dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao
vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức.
Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài.
Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy.
Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời,
để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới.
Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái,
đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta.
Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ,
nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng.
Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày!
Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8),
dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao
vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức.
Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài.
Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy.
Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời,
để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới.
Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái,
đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta.
Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ,
nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG MƯỜI MỘT
Ân Sủng Thánh Hóa
Tình Cảm Nhân Loại
Sự đồng ý đón nhận
nhau giữa một người nam và một người nữ khi họ cử hành hôn nhân Kitô giáo không
chỉ là một diễn tả tình cảm nhân loại mà hai người cam kết trọn đời. Họ nói
‘vâng’ với nhau trong đức tin, một đức tin mà họ dứt khoát chọn lựa cho cả đời
mình. Mầu nhiệm này của cuộc hôn nhân giữa họ là một phản ảnh của sự kết hợp thần
nhiệm và của tình yêu phu phụ giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Vì thế, hôn nhân giữa
hai Kitôhữu trước hết là một hành vi của đức tin. Tình cảm nhân loại của họ được
chuyển hóa và được làm cho nên thánh thiện nhờ ân sủng. Vì họ đã ký thác tình
yêu và cuộc hôn nhân của họ cho Thiên Chúa, nên Ngài nhất định sẽ bảo vệ và
nuôi dưỡng nó bằng ân phúc của Ngài. Chính Đức Kitô cho biết rằng ở đây không
chủ yếu là tự họ ràng buộc với nhau, mà đúng hơn chính Cha trên trời đang ràng
buộc họ với nhau. Và công việc quan trọng đệ nhất của họ là liệu sao để không
phá vỡ sự kết hợp thánh thiện này.
Một đôi vợ chồng sẽ
thành công trong việc bảo vệ cuộc hôn nhân của mình nếu họ nhớ rằng chính Thiên
Chúa đã trở thành người bảo vệ sự kết hợp giữa họ. Và khi họ trải qua những khó
khăn trong cuộc sống hôn nhân, họ sẽ chạy đến với Thiên Chúa trong lòng tin tưởng
vững vàng vào sự quan phòng và vào tình yêu thương của Ngài.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17-11
Thánh nữ
Êlisabeth Hunggari
3Ga 1, 5-8; Lc 18,
1-8.
LỜI SUY NIỆM: “Trong thành
đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ‘Đối phương tôi hại
tôi, xin ngài minh xét cho.’ Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối
cùng, ông ta nghĩ bụng: ‘Dẫu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà chẳng coi ai
ra gì, nhưng mụ góa này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến
hoài, làm ta nhức đầu, nhức óc.”
Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người trong chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi trong cầu
nguyện cùng Chúa Cha. Nên Người đã đưa ra câu chuyện về một vị quan tòa. Rõ
ràng ông này là một thẩm phán kiêu ngạo, nhưng đầy quyền uy; trong khi đó có một
bà góa nghèo hèn và cô thế. Nhưng trong câu chuyện, cho chúng ta thấy được bà
đã kiên trì trong kêu xin, đã làm cho ông quan tòa phải minh xét cho bà, bởi lý
do duy nhất đó là sự kiên trì của bà.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con là con cái của Chúa, và Chúa là Cha của chúng con,
Chúa biết trước những gì chúng con sẽ cầu xin, và biết những gì cần thiết cho
phần rỗi đời đời của chúng con. Xin cho mỗi người chúng con trong cầu nguyện đầy
lòng chân thành và tin tưởng vào lòng thương xót và quang phòng của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 17-11
Thánh ELISABETH Nước
Hungaria
Nữ Tu (1207 –
-1231)
Em bé 4 tuổi mặc ái
nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia, là con vua Hungaria. Tên Ngài là
Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử Luy (Louis) mười một tuổi con của
Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường Ngài lớn lên tại cung điện
Thuringia.
Elisabeth xem ra đã được
tiền định với niềm vui, được cầu nguyện hãm mình và mỗi ngày hy sinh một điều
thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng
lại. Một phần những cái người ta cho Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng
Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không phải mọi người đều vui lòng khi thấy Ngài
lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của
Luy tức giận vì sự hoàn thiện này.
Khi bà dẫn Elisabeth với
cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại
cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội
mão gai. Thế là công chúa và con mình khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng
để làm vợ của bá tước. Nhưng khi Luy đã trở lại triều đình chàng ngây ngất vì vị
hôn thê trẻ của mình. Chàng chọn làm châm ngôn những đức tính: đạo đức, trong sạch
và công bình. Chàng đã cử hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và
nàng 14.
Năm sau họ có con đầu
lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: “Bà
kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu
nguyện”. Ngày sống của nữ bá tước được phân phối cho công việc cầu nguyện, làm
việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng
quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn
trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ
có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của mình. Người ta thích kể lại một huyền thoại
làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau:
Vào một ngày mùa đông.
Luy đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo.
Ông hỏi: – Em mang gì đó ?
Vạch áo ra ông chỉ thấy
những bó hoa hồng trắng rất đẹp không mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động
vì phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lý tưởng của mình hơn nữa.
Còn chính thánh nữ thì
tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng
bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã hôn chân các người
cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm.
Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài. Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có
nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu nguyện làm chứng: “Ngài hoàn thành những
công trình bác ái trong tâm hồn vui tươi và không đổi nét mặt”.
Chính Elisabeth đã nói
về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột: “Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên
Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu thích những kẻ cho một cách vui tươi”.
Luy phải ra trận. Đây
là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ
vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công mà lãnh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi
đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ,
Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài thiết lập những nhà thương. Dân chúng
gọi Ngài là “mẹ”. Khi chồng trở về, thánh nữ thường cười nói: – Em đã dâng cho
Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo vệ của cải của chúng ta,
Nhưng đã đến lúc những
thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn
quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài ngày sau thánh nữ sinh hạ người con
thứ ba. Ngài như điên lên vì đau đớn, nhưng đã chứng tỏ lòng đai độ từ bỏ thánh
nữ đã có từ buổi thiếu thời. Hình ảnh cổ truyền còn diễn tả thánh nữ, bị người
em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc
ôm con nhỏ đi vào đường mòn sỏi đá giữa mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu
bên tay…
Thực tế là người em rể
đã một thời không cho Ngài được thừa hưởng của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ
chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài
coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh
nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đã chọn được nên nghèo khó. Thực vậy,
Ngài đã phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và đã biết khốn cực là gì. Người
đày tớ theo Ngài kể rằng: – “Bị bắt bớ bởi những chư hầu của chồng, thiếu mọi
thứ của cải và vì thiếu thốn, Ngài đã phải gửi con đến những miền xa để chúng
được nuôi dưỡng ở đó.
Dầu vậy, Ngài vẫn cảm
tạ Chúa và đã bóc lột Ngài như thế, và trong một nguyện đường các anh em hèn mọn
Ngài đã đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ bỏ tất cả.
Cậu của Ngài là giám mục
miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và còn gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine
nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài. Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và
tạ ơn Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, con yêu biết
bao. Nhưng Chúa biết con không hối tiếc việc hy sinh người yêu của con cho
Chúa. Anh đã tự hiến mình cho Chúa, con cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm
trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng
đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng tỏ rằng: nếu trái với ý Chúa, con sẽ
không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến sợi tóc đi nữa… Nguyện ý Chúa
thành sự trong chúng con”.
Người góa phụ trẻ
không muốn có phần gì đối với vinh hoa trần thế nữa, đã mặc áo dòng ba Phanxicô
và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một nhà thương là nơi bà ngồi ăn
chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở trong một ngôi nhà bằng cây
vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những hy sinh cực khổ hơn nữa.
Cha giải tội của Ngài
là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ tạo nên cảm tình của hai người bạn từ
hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho Ngài giữ họ gần mình nữa. Thay vào đó
là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ
cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa
trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi đêm sáu lần và chính Ngài giặt
giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết, Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong
cùi và nói: – Tôi không đang cởi giây giầy cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở
vào đại vị của em.
Đứa trẻ chết, lại một
người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị hướng dẫn còn dùng đến những cư xử
nghiệt ngã lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng: “ông ta có thể đánh vào mặt Ngài,
nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như một người đang chiêm niệm. Ngài qua những
giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực sáng.
Nhưng Elisabeth yếu dần
và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19 tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ
lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đã có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn
năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
17 Tháng Mười Một
Trong Mọi Sự, Hãy Nghĩ Ðến Cùng Ðích
Một ngày nọ, triết
gia Diogene của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athène và dựng lên một căn lều có ghi đậm
hàng chữ như sau: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.
Một bậc khoa cử
tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao báo, mới cười thầm trong bụng… Muốn biết
đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và
mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền
ra đi làm theo lời căn dặn của chủ… Anh đưa cho Diogene 3 hào và nói rằng chủ của
anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogene nói với
người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe
câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.
Vị khoa cử thành
Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà
như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi
qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy…
“Trong tất cả mọi sự,
hãy nghĩ đến cùng đích”.
Có lẽ đó cũng là khuôn
vàng thước ngọc mà Giáo Hội muốn ngỏ với mọi người chúng ta trong những ngày
tháng cuối cùng của năm Phụng Vụ này. Mỗi năm qua đi: đó là hình bóng của đời
người và lịch sử của thế giới này.
“Trong tất cả mọi sự,
hãy nghĩ đến cùng đích”. Người lực sĩ nghĩ đến phần thưởng đang chờ đợi mình.
Người học sinh nghĩ đến ngày đỗ đạt thành tài… Ðiểm đến thúc đẩy con người hăng
say làm việc.
Thời Noe, mọi người ăn
uống, vui chơi và cười nhạo khi ông cho đóng tàu để phòng nạn Hồng Thủy. Ðối với
họ, chuẩn bị để đương đầu với tai nạn, chuẩn bị để làm một cuộc hành trình dài
là một chuyện viển vông, là điều ngu xuẩn…
Hãy vui hưởng cuộc sống,
hãy sống như thể con người sẽ không bao giờ chết: đó là thái độ của nhiều người
trong chúng ta. Sống như thế là sống không định hướng, sống như thế là sống
không mục đích. Thánh Phaolô đã gọi những người đó là những người chỉ biết thờ
cái bụng của mình…
Cái chết là cửa để bước
vào cuộc sống mai hậu. Và cuộc sống mai hậu ấy tùy thuộc vào những tích chứa,
những xây dựng của chúng ta trong cuộc sống tại thế này. Nếu trong cuộc sống
này, chúng ta hướng tất cả mọi hoạt động của chúng ta vào cùng đích ấy, nếu
chúng ta hành động, suy nghĩ như thể chúng ta sẽ ra đi tức khắc, thì chắc chắn
khi bước qua ngưỡng cửa ấy, chúng ta sẽ không ngỡ ngàng, thất vọng…
Nhưng dĩ nhiên, không
phải từ sức mình, chúng ta có thể xây dựng cho mình tương lai vĩnh cửu ấy. Sự sống
trường sinh là ân ban nhưng không của Chúa. Thiên Chúa chỉ chờ đợi nơi chúng ta
sự ưng thuận và đáp trả tích cực mà thôi… Ước gì từng suy nghĩ, từng hành động,
từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta đều là một đáp trả tích cực của chúng ta
đối với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự,
sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa
ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta có thể
nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này…
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét