Trang

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

19-11-2018 : THỨ HAI - TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN


19/11/2018
Thứ hai tuần 33 thường niên


BÀI ĐỌC I: Kh 1, 1-4; 2, 1-5a
“Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức nào và hãy hối cải”.
Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Mạc khải của Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra. Vậy Người đã sai thiên thần loan báo cho tôi tớ người là Gioan, và Gioan làm chứng rằng tất cả những gì ông đã thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giêsu Kitô. Phúc cho ai đọc và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân giữ những điều đã chép trong đó, vì thời giờ đã gần.
Gioan kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á. Nguyện chúc ân sủng và bình an cho anh em do từ Đấng đang có, đã có và sẽ đến và do từ bảy thần linh đứng trước ngai của Người.
Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: “Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Êphêxô rằng: ‘Đây là lời của Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối cải và làm lại những việc thuở ban đầu’ “. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
A+B:Ta sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).
A)Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. .
B)Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
A)Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
A+B:Ta sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).

ALLELUIA: Lc 16, 31 – Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 18, 35-43
“Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? – Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi!” Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi!” Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?” Anh thưa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”. Chúa Giêsu bảo anh: “Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Người mù thành Giêrikhô
Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản là Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga. Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống cụ thể của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, và không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mỗi người chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêrikhô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Ðây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát hai thái độ thực hành.
Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như thể chỉ có họ mới có quyền hay đặc quyền theo bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia không có phẩm giá, không được kính trọng và không có quyền làm phiền Chúa, không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền và muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính con người đặt ra. Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện của sự thông ban ân sủng cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Tất cả là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình muốn mà thôi.
Và thái độ thứ hai là thái độ chúng ta quan sát thấy nơi anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô. Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài, và từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy". Anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng được khuyến khích làm theo như vậy. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã chú ý ghi lại chi tiết: "Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Ðược Thiên Chúa chữa lành, anh mù được sáng mắt kia đi theo Chúa.
Trong Phúc Âm cũng có trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành nhưng rất ít người có phản ứng như anh mù này: "Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa". Anh làm cho nhiều người bị lôi cuốn ca tụng Thiên Chúa như anh vậy. Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ "Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô". Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các đồ đệ của Ngài như được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5,16 như sau: "Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời".
Lạy Chúa,
Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đó là sự mù lòa thiêng liêng có thể làm cho con người càng ngày càng sống bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)




Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 33 TN2
Bài đọcRev 1:1-4, 2:1-5; Lk 18:35-43.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy năng làm sống lại tình yêu ban đầu!
Tình yêu là yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống, vì nó là động lực thúc đẩy con người ham sống và làm việc. Nếu đánh mất tình yêu, con người sẽ đâm ra chán nản và mất hết nghị lực để làm việc. Kẻ thù của tình yêu là thời gian và những thay đổi của cuộc sống. Ví dụ: tình yêu vợ chồng. Rất nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm hay đã được chứng kiến cảnh gia đình tan rã sau biến cố tháng 4/1975. Chồng đi vượt biên, vợ và các con ở lại; mấy năm sau nghe tin chồng đã có vợ khác. Tại sao những chuyện như thế xảy ra? Thời gian và hòan cảnh là 2 yêu tố chính: xa mặt cách lòng và có mới nới cũ. Chuyện như thế cũng xảy ra trong tình yêu của con người với Thiên Chúa: bỏ nhà thờ hay cầu nguyện để chạy theo những cám dỗ vật chất là 2 lý do chính làm con người xa Chúa. Vì thế, để có thể gìn giữ tình yêu, điều cần thiết là phải năng làm sống lại tình yêu ban đầu: “tương quí như tương tân,” hãy luôn biết quí trọng nhau như thuở ban đầu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mặc khải của Đức Giêsu Kitô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người.
Sách Khải Huyền: không chú trọng đến những gì sẽ xảy ra trong Ngày Tận Thế như nhiều người lầm tưởng, nhưng chú trọng đến việc nhận ra những lầm lỗi để sửa sai và sống tốt đẹp hơn trước khi Ngày Tận Thế đến như tác giả trình bày hôm nay: “Phúc thay người đọc, phúc thay những ai nghe những sấm ngôn đó và tuân giữ các điều chép trong đó, vì thời giờ đã gần đến!”
(1) Mặc khải của Đức Giêsu Kitô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến. Người đã sai thiên thần của Người đến báo cho ông Gioan là tôi tớ của Người biết mặc khải đó. Ông Gioan đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và về lời chứng của Đức Giêsu Kitô, về những gì ông đã thấy.
(2) Ý nghĩa con số 7 trong Sách Khải Huyền: Số 7 xảy ra tất cả 54 lần trong Sách Khải Huyền; đây là con số được dùng để biểu tỏ sự tròn đầy, tòan hảo. Ví dụ: việc Đức Kitô gởi Lời cho 7 Giáo Phận có nghĩa gởi cho tất cả Giáo Hội trên tòan cầu.
(3) Thị kiến đầu tiên: Lời của Đức Kitô cho 7 Giáo Phận ở Asia Minor (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay): “Tôi là Gioan kính gửi 7 Giáo Phận Asia. Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người.”
(4) Lời cho Hội Thánh Êphêxô: Đây là thành phố thương mại rất sầm uất của Tiểu Á thời đó, là trung tâm của các Tòa Đại Sứ, là trung tâm của văn hóa và tôn giáo. Vị thế của Thành Êphêsô mở đường cho rất nhiều mê tín dị đoan và thờ các tà thần; thần phổ thông nhất của Thành là Artemis (Tđcv 19:8, 10). Thánh Phaolô thành lập Giáo Phận Êphêsô vào khỏang 53-56 AD (Tdcv 19:8-10). “Hãy viết cho thiên thần của Giáo Phận Êphêxô: Đây là lời của Đấng cầm trong tay hữu bảy vì sao, Đấng đi giữa bảy cây đèn vàng.” 7 vì sao tượng trưng cho 7 thiên thần coi giữ 7 Giáo Phận, và 7 cây đèn tượng trưng cho 7 Giáo Phận (Kh 1:20). Đấng đi giữa 7 cây đèn là Đức Kitô, như Ngài đã hứa “sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến Ngày Tận Thế” (Mt 18:20, 28:20).
1.1/ Lời khen: Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Một việc cụ thể được liệt kê: “Ta biết ngươi không thể chịu đựng kẻ ác. Ngươi đã thử thách những kẻ xưng mình là tông đồ, mà thực ra không phải, và ngươi đã thấy rằng chúng là những kẻ nói dối.” Việc này có lẽ liên quan tới Nicolaitans (Kh 2:6, 15).
1.2/ Lời chê trách: “Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu.” Đánh mất tình huynh đệ ban đầu là cũng đánh mất tình yêu với Thiên Chúa; vì mến Chúa đòi phải yêu người. Lời khuyên nhủ: “Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu.” Ba việc cần làm trong tiến trình hối cải đựợc đề ra: xét mình (nhớ lại) – ăn năn (hối cải) – đền tội (làm việc). Lời đe dọa: “Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải.” Cây đèn tượng trưng cho Giáo Phận; đem cây đèn ra khỏi chỗ có thể nói tới sự tiêu hủy của GP Êphêsô.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa người mù thành Jericho.
2.1/ Lời cầu xin khẩn thiết của người mù: Việt-Nam có câu tục ngữ: “Có đau mắt thì mới biết thương người mù.” Vì không thấy đường nên tất cả thế giới đẹp đẽ đối với anh là một bóng đen, và công việc duy nhất anh có thể làm được là ngồi ăn xin lòng thương xót của người qua đường. Anh mù chứ không điếc nên khi nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nazareth đang đi qua đó. Chắc chắn anh đã nghe về Đức Kitô chuyên chữa lành bệnh nhân, nên anh không bỏ lỡ cơ hội, anh liền kêu lên (boa,w) rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Không ai có thể hiểu nỗi đau khổ của anh; tất cả đều bận tâm với những toan tính riêng tư của họ. Những người quát nạt này có lẽ bực mình vì tiếng kêu cứu của anh làm họ không nghe rõ những gì Chúa Giêsu đang giảng giải. Nhưng anh mù không sờn lòng và càng kêu lớn tiếng hơn (krazo): “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!”
Việc anh kêu lớn tiếng hơn có thể anh sợ Chúa Giêsu chưa nghe thấy tiếng kêu nài của anh; nhưng cũng để biểu tỏ tấm lòng kiên trì kêu cầu của anh, không một sức mạnh nào có thể ngăn ngừa anh đừng trông cậy vào Thiên Chúa. Với bệnh tật của anh, anh nghĩ có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở anh có cơ hội được Chúa Giêsu chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu, người mù, và đám đông: Làm sao Thiên Chúa của lòng thương xót không động lòng trước tiếng kêu bi thương của con cái mình? Ngài dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” Người mù không xin tiền, không xin bất cứ sự gì khác, nhưng xin cho được thấy, vì anh biết sự sáng quan trọng thế nào đối với anh. Đức Giêsu nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Anh biết Chúa Giêsu có lòng thương xót, anh biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể chữa anh, và chính anh đã được Chúa Giêsu thương xót chữa lành; nên chuyện anh đi theo Ngài để ngợi khen Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Cuộc sống với quá nhiều quyến dũ vật chất và hưởng thụ làm cho trái tim con người ra chai đá, khiến chúng ta không còn nhạy cảm với tình thương Thiên Chúa và tình thương của tha nhân. Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, bằng cách năng nhớ lại những gì Ngài đã làm cho chúng ta, để biết ơn, để ca tụng, và biết sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.
– Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho nhau; để luôn biết quí trọng và dễ tha thứ cho nhau. 
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP



19/11/2018 – THỨ HAI TUẦN 33 TN
Lc 18,35-43

NHÌN TRONG ĐỨC TIN
Đức Giê-su nói: “Anh nhìn thấy đi ! lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 18,42)
Suy niệm: Đây đó trên đường, người ta gặp những người mù với một cây gậy chuyên dụng như một giác quan kỳ lạ giúp họ đi đến nơi họ muốn. Thật đáng thán phục! Có thể nói, cây gậy trợ lực giúp họ dò con đường họ thấy bằng trí nhớ. Cũng vậy, dù không thấy được bằng giác quan, con mắt đức tin giúp Ki-tô hữu nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Trong khi dưới con mắt của đám đông, Chúa Giê-su chỉ là một người làng Na-da-rét, thì người mù thành Giê-ri-cô nhận ra Ngài chính là Con Vua Đa-vít, là Đấng Mê-si-a. Bằng “con mắt đức tin”, anh đã thấy điều mà người khác không thấy: thấy Ngài có quyền năng tái tạo những gì đã hư mất; thấy Ngài là Đấng chia sẻ được nỗi thống khổ anh đang chịu, là chỗ dựa cho anh trong lúc mọi người bỏ rơi. Giữa đám đông anh có thể bị lẻ loi vì đức tin của anh nhưng anh không cô độc, bởi Đấng cứu chữa anh từ nay đồng hành với anh trên mọi nẻo đường, còn anh quyết theo đường Ngài, dù là đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó.
Mời Bạn: Chúa trách hai môn đệ Em-mau “tối dạ và lòng chậm tin” vì không hiểu lời ngôn sứ báo về Đấng Cứu Thế, và vì thế, không nhận ra Ngài. Giáo Hội luôn mời gọi bạn suy niệm Lời Chúa để con mắt đức tin của bạn được rạng sáng.
Chia sẻ: Bạn có thói quen suy niệm và chia sẻ Lời Chúa để “con mắt đức tin” được sáng không?
Sống Lời Chúa: Tập nhìn một biến cố bằng con mắt đức tin để nhận ra Thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con được thấy bóng dáng của Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời con. Xin chữa lành sự mù tối của tâm hồn con.
(5 Phút Lời Chúa)



Xin cho tôi nhìn thấy (19.11.2018 – Thứ hai Tuần 33 Thường niên)

Suy nim:
Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.
Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,
Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.
Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,
nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.
Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.
Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.
Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.
Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.
Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).
Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.
Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,
anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.
Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.
Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.
Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.
Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.
Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?
Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?
Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.
Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,
và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.
Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).
Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.
Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.
Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.
Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.
Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.
Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).
Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).
Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”
Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.
Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.
Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,
tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?
Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.
Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.
Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).
Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,
đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,
và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga  16, 13).
Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu
mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).
Cầu nguyn:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG MƯỜI MỘT
Tiếng Gọi Chung Thủy
Được sinh ra từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, hôn nhân tìm thấy luật nền tảng và giá trị luân lý của nó trong một tình yêu đích thực giữa hai người. Cả vợ và chồng đều hoàn toàn dấn thân để nâng đỡ nhau. Và xuất phát từ khát vọng chung của hai người muốn sống trung thành với tình yêu của Thiên Chúa – là Đấng Sáng Tạo và là Cha của mình – họ sinh ra sự sống mới. Sứ mạng mà họ lãnh nhận từ Thiên Chúa này đòi hỏi họ phải có một sự dấn thân triệt để hơn nữa và một ý thức cao vượt hơn nữa về những trách nhiệm của họ trong tư cách là con người và là Kitôhữu.
Họ phải không ngừng tìm cách tận dụng các ân sủng tuôn chảy từ Bí Tích Hôn Nhân. Ân sủng bí tích này thật cần thiết để giúp họ đương đầu với những thách đố của bao khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Các đôi vợ chồng Kitôhữu tìm thấy ánh sáng và sức mạnh để giải quyết những vấn đề riêng của họ nhờ ân sủng này. Họ có thể sống triệt để một tình yêu đích thực và phổ quát – trước hết đó là tình yêu hướng về Thiên Chúa, vì họ phải khao khát vinh quang của Ngài và nhiệt tình mở rộng Nước Ngài; thứ hai, đó là tình yêu hướng về con cái họ trong ánh sáng của nguyên tắc Thánh Phao-lô: “Tình yêu không tìm ích lợi cho riêng mình” (1Cr 13,5); và cuối cùng, đó là tình yêu hướng về nhau trong đó người này tìm cách phục vụ người kia và hiểu được những tâm tư nguyện vọng tốt lành của người kia. Ở đây không có sự độc đoán hay ích kỷ chen vào trong ý hướng. Không, ở đây chỉ có một tình yêu trọn vẹn và phổ quát.
Điều này giải thích tại sao linh đạo vợ chồng đòi hỏi một nỗ lực triệt để về luân lý và sự thánh thiện suốt đời. Nó phải được nuôi dưỡng bởi những niềm vui và những hy sinh trong đời sống hằng ngày.
Những người vợ và chồng, anh chị em đừng cảm thấy cô đơn trong sự dấn thân của anh chị em cho các mục đích nói trên. Thật vậy, Công Đồng nhắc anh chị em rằng “Hôn Phu của Giáo Hội đến gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitôhữu qua Bí Tích Hôn Phối. Ngài vẫn ở với họ để – như Ngài đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội – họ cũng yêu thương nhau bằng một tình yêu chung thủy” (MV 48). Anh chị em hãy sống tình yêu chung thủy ấy, sự chung thủy được nâng đỡ bởi chính tình yêu của Chúa Kitô.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19-11
Kh 1, 1-4;2, 1-5a; Lc 18,35-43.

LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” Đức Giêsu nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
            Trong câu chuyện người mù ở thành Giêrikhô được Chúa Giêsu chữa lành, giúp chúng ta suy niệm: Điểm đầu tiên về thái độ của anh mù, khi chưa rõ sự việc thì hỏi để được biết, và khi biết rồi thì đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu, thứ đến là thái độ thờ ơ của đám đông, không quan tâm đến người thấp cổ bé họng như anh mù và họ đã ngăn cản ước muốn của người  mù: “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi.”. Trong lúc đó anh mù vẫn cố tình kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi.” Và cuối cùng đã được Chúa Giêsu truyền lênh: “Dẫn anh ta đến.”
            Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có sức mạnh đức tin như anh mù. Có quyết tâm đi theo Chúa với tâm tình tôn vinh Thiên Chúa. Chứ đừng ngăn cản bất cứ ai muốn tìm gặp Chúa.
Mạnh Phương


19 Tháng Mười Một
Một Lỗ Nhỏ Trên Vách Tường
Tại một trung tâm bài phung nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.
Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Ðó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy. Khuôn mặt của người đàn bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười trong trung tâm bài phung đó đã giải thích cho vị nữ tu như sau:
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn… Nhưng cuối cùng, nàng không thể giữ tôi lâu hơn. Người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này.
Nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng của vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống. Nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống…”.
Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không nhìn người chồng xấu số như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ đã đem lại sức mạnh và niềm vui sống cho người chồng… Nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và được yêu. Bất cứ ai cũng cần đến tình yêu và muốn thể hiện tình yêu… Bạn có biết rằng có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, một ánh mắt cảm thông của bạn không?
(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét