17/03/2019
Chúa Nhật 2 Mùa
Chay năm C
(phần
II)
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 2 Mùa Chay năm C
(St
15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9,28b-36)
DUNG
MẠO ĐỨC KITÔ – DUNG MẠO NGƯỜI TÍN HỮU
“Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục
Người trở nên trắng tinh chói loà”(Lc 9,29)
I.
CÁC
BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Với Abram, giai đoạn đầu tiên của nhiệm cục cứu độ được trình bày cho chúng ta. Ông là tổ phụ dân Israel, đã nhận từ nơi Thiên Chúa một lời hứa kép, đó là một dòng dõi và một miền đất.
Lời hứa về dòng dõi là một quà tặng nhưng không. Trong bối cảnh trước đó, Abram đã kêu cầu với Thiên Chúa: “con ra đi mà không có con cái” (c.2). Vì lý do này, Abram đã rất tin tưởng vào lời hứa và thái độ đó đã làm cho ông nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Với lời hứa sở hữu một miền đất, Abram đã xin một dấu chỉ: “làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (c.8). Và Thiên Chúa đã trả lời ông với một nghi thức giao ước cổ xưa. Với một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi, giao ước đã được lập. Giao ước này mang tính một bên, xuất phát từ ý định của Thiên Chúa, là một quà tặng nhưng không, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể cởi bỏ.
Quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa: một dòng dõi con cháu, một miền đất được hứa ban, hy lễ chiên bò, sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa, tất cả những yếu tố này chúng ta tìm thấy trong Giao ước mới của Đức Kitô, và đây là hình ảnh tiên khởi.
2. Bài đọc II (Pl 3,17-4,1)
Mầu nhiệm Chúa Kitô trình bày cho chúng ta:
- Một Đức Kitô chịu đóng đinh, được mặc lấy vinh quang và uy quyền (bộ ba: tử nạn, phục sinh và thăng thiên);
- Một Đức Kitô đã cứu chuộc nhân loại cách nhưng không, đối nghịch với suy nghĩ của những “thù địch” của thập giá Đức Kitô. Đây là một nhóm các Kitô hữu trong cộng đoàn Philipphê. Cách nói “Chúa họ thờ là cái bụng” không nhắm đến việc ham mê ăn uống hay tính dục, nhưng ám chỉ những người chỉ biết đặt để niềm tin vào các giới răn thực hành của truyền thống, như việc cắt bì, kiêng ăn một số thức ăn, và ăn chay. Đây là điều đáng hổ thẹn chứ không phải vinh quang như họ nghĩ, và vì thế chúng được xem là “những sự thế gian”;
- Một Đức Kitô định cho chúng ta được chia sẻ vinh quang của Người. Chính Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta (sự kiện Hiển dung là một thể hiện về thân xác vinh quang của Đức Kitô), và chúng ta là những “công dân” Nước Trời.
Sẽ là sai lầm đối với những người chỉ biết cúi mặt xuống đất và xem đó như là chốn vĩnh cửu của đời mình. Thật ra trong thế giới này, cũng như Abram, chúng ta như là những khách lữ hành trong sa mạc.
Chính vì thế, noi gương thánh Phaolô có nghĩa đơn giản là đặt để niềm tin vào Đức Kitô và những giá trị thuộc thượng giới, với xác tín là chỉ duy nơi Người chúng ta được cứu độ.
3. Bài Tin Mừng (Lc 9,28b-36)
Quang cảnh Chúa Hiển Dung chứa đựng nhiều ý nghĩa và thường chúng ta thấy một số điểm sau:
- một sự tỏ bày trước vinh quang của Đức Kitô trước khi thực hiện cuộc xuất hành lên Giêrusalem. Dung mạo Đức Giêsu “bỗng đổi khác” như dung mạo của Đấng Phục sinh mà cần phải có thời gian để được nhận thấy.
- một sự khích lệ và đỡ nâng cho niềm tin của các môn đệ: Chính ba môn đệ này cũng chứng kiến đau khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu sau này (x. Mt 26,37). Cả hai trường hợp các ông đều ngủ. Sức nặng của vinh quang cũng như khổ đau đã đè nặng các ông, tuy nhiên, đây cũng là chức năng của người tông đồ trong Giáo hội: nhìn thấy Đức Kitô Phục sinh.
- một sự chuẩn nhận bản tính của Đức Giêsu và sứ mạng của vị Ngôn sứ: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”.
Sâu xa hơn, chúng ta còn thấy những điểm khác:
- Đức Giêsu như là người thừa kế toàn bộ gia sản Cựu ước: sự hiện diện của Môsê (Lề luật) và của Êlia (Ngôn sứ). Đức Giêsu là “Con”, là dòng dõi được hứa ban cho Ápraham.
- Đức Giêsu như là vị Tôi Tớ (x. Isaia đệ nhị), là “Đấng Thánh của Israel” bị “người đời khinh chê” (Is 49,7). Duy chỉ có Tin Mừng Luca sử dụng thuật ngữ “người được tuyển chọn” từ Bài ca thứ hai Người Tôi tớ, trong lúc Hiển dung và khi trên thập giá (x. Lc 23,35).
- Trong hành trình chuẩn bị Lễ Phục sinh mới. Môsê và Êlia nói về sự “xuất hành ” của các ngài (đã khởi hành); “núi”, mây che phủ, cùng với nỗi sợ hãi, nhắc nhớ về biến cố Sinai. Lều mà Phêrô xin được dựng gợi lại hình ảnh trong sa mạc.
- Sự thân mật với Chúa, mà sau đó được biến chuyển thành lời cầu nguyện. Thật ra, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ lên núi để “cầu nguyện”.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Không phải được tuyển chọn, nhưng Abram được Chúa chọn gọi giữa muôn người theo ý định và tình thương nhưng không của Người.
Tin tưởng vào Chúa, vào tình thương và lời hứa của Người, Abram trở thành khuôn mẫu của mọi người chúng ta về một niềm tin kiên vững và phó thác. Cũng như Abram, tôi có xác tín và nhận ra rằng tôi cũng chắc chắn được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi và đặt để trong một kế hoạch yêu thương của Người?
2. Hành trình Mùa Chay hướng về tâm tình mừng lễ Vượt qua với cuộc vinh thắng của Đức Kitô. Lắng đọng trong tâm hồn và suy nghĩ về những giá trị mà tôi đang sống, tôi thấy những giá trị này có phản ánh thập giá Đức Kitô và Nước Trời không? Có điều gì tôi cần phải ‘xuất hành’ và ‘vượt qua’?
3. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Đức Giêsu đã tỏ lộ chân dung vinh quang của Người cho các môn đệ, để củng cố niềm tin của các ông và giúp các ông vượt qua những gian nan thử thách. Chắc chắn đây cũng là cách thức mà Chúa cũng thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vậy trong những hoàn cảnh khó khăn, thập giá của đời mình, tôi có nhận ra dung mạo vinh quang của Chúa, cuộc vinh thắng của Người, cũng như niềm hy vọng về đức tin của tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Khi cho các môn đệ chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của các ông trước mầu nhiệm thập giá. Trong niềm tin tưởng và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời tôn vinh chúc tụng và khẩn khoản cầu xin:
1. Dung mạo Chúa Giêsu biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn vững tin vào vinh quang của Đức Kitô, biết sẵn sàng chết đi cho tội lỗi và tích cực trở nên chứng nhân cho quyền năng và tình thương của Thiên Chúa ở giữa thế gian.
2. “Thưa Thầy, chúng con được ở đây thật là hay.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những tổ chức và cá nhân đang dấn thân đấu tranh cho công lý và mưu cầu hạnh phúc cho con người ở khắp nơi trên thế giới, tìm được sự đồng tình cộng tác và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp qua những nỗ lực của mình.
3. “Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người tội lỗi lầm lạc tìm được niềm tin yêu hy vọng nơi tình thương quan phòng của Thiên Chúa, biết thành tâm sám hối và nhiệt tâm biến đổi đời sống để xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa.
4. “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để ngày càng gắn bó mật thiết với Đức Kitô hầu xứng đáng là người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa bày tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ và tất cả chúng con. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con một đức tin kiên cường cùng đức cậy vững chắc, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng con luôn tiến bước trên con đường thập giá theo chân Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Với Abram, giai đoạn đầu tiên của nhiệm cục cứu độ được trình bày cho chúng ta. Ông là tổ phụ dân Israel, đã nhận từ nơi Thiên Chúa một lời hứa kép, đó là một dòng dõi và một miền đất.
Lời hứa về dòng dõi là một quà tặng nhưng không. Trong bối cảnh trước đó, Abram đã kêu cầu với Thiên Chúa: “con ra đi mà không có con cái” (c.2). Vì lý do này, Abram đã rất tin tưởng vào lời hứa và thái độ đó đã làm cho ông nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Với lời hứa sở hữu một miền đất, Abram đã xin một dấu chỉ: “làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (c.8). Và Thiên Chúa đã trả lời ông với một nghi thức giao ước cổ xưa. Với một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi, giao ước đã được lập. Giao ước này mang tính một bên, xuất phát từ ý định của Thiên Chúa, là một quà tặng nhưng không, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể cởi bỏ.
Quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa: một dòng dõi con cháu, một miền đất được hứa ban, hy lễ chiên bò, sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa, tất cả những yếu tố này chúng ta tìm thấy trong Giao ước mới của Đức Kitô, và đây là hình ảnh tiên khởi.
2. Bài đọc II (Pl 3,17-4,1)
Mầu nhiệm Chúa Kitô trình bày cho chúng ta:
- Một Đức Kitô chịu đóng đinh, được mặc lấy vinh quang và uy quyền (bộ ba: tử nạn, phục sinh và thăng thiên);
- Một Đức Kitô đã cứu chuộc nhân loại cách nhưng không, đối nghịch với suy nghĩ của những “thù địch” của thập giá Đức Kitô. Đây là một nhóm các Kitô hữu trong cộng đoàn Philipphê. Cách nói “Chúa họ thờ là cái bụng” không nhắm đến việc ham mê ăn uống hay tính dục, nhưng ám chỉ những người chỉ biết đặt để niềm tin vào các giới răn thực hành của truyền thống, như việc cắt bì, kiêng ăn một số thức ăn, và ăn chay. Đây là điều đáng hổ thẹn chứ không phải vinh quang như họ nghĩ, và vì thế chúng được xem là “những sự thế gian”;
- Một Đức Kitô định cho chúng ta được chia sẻ vinh quang của Người. Chính Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta (sự kiện Hiển dung là một thể hiện về thân xác vinh quang của Đức Kitô), và chúng ta là những “công dân” Nước Trời.
Sẽ là sai lầm đối với những người chỉ biết cúi mặt xuống đất và xem đó như là chốn vĩnh cửu của đời mình. Thật ra trong thế giới này, cũng như Abram, chúng ta như là những khách lữ hành trong sa mạc.
Chính vì thế, noi gương thánh Phaolô có nghĩa đơn giản là đặt để niềm tin vào Đức Kitô và những giá trị thuộc thượng giới, với xác tín là chỉ duy nơi Người chúng ta được cứu độ.
3. Bài Tin Mừng (Lc 9,28b-36)
Quang cảnh Chúa Hiển Dung chứa đựng nhiều ý nghĩa và thường chúng ta thấy một số điểm sau:
- một sự tỏ bày trước vinh quang của Đức Kitô trước khi thực hiện cuộc xuất hành lên Giêrusalem. Dung mạo Đức Giêsu “bỗng đổi khác” như dung mạo của Đấng Phục sinh mà cần phải có thời gian để được nhận thấy.
- một sự khích lệ và đỡ nâng cho niềm tin của các môn đệ: Chính ba môn đệ này cũng chứng kiến đau khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu sau này (x. Mt 26,37). Cả hai trường hợp các ông đều ngủ. Sức nặng của vinh quang cũng như khổ đau đã đè nặng các ông, tuy nhiên, đây cũng là chức năng của người tông đồ trong Giáo hội: nhìn thấy Đức Kitô Phục sinh.
- một sự chuẩn nhận bản tính của Đức Giêsu và sứ mạng của vị Ngôn sứ: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”.
Sâu xa hơn, chúng ta còn thấy những điểm khác:
- Đức Giêsu như là người thừa kế toàn bộ gia sản Cựu ước: sự hiện diện của Môsê (Lề luật) và của Êlia (Ngôn sứ). Đức Giêsu là “Con”, là dòng dõi được hứa ban cho Ápraham.
- Đức Giêsu như là vị Tôi Tớ (x. Isaia đệ nhị), là “Đấng Thánh của Israel” bị “người đời khinh chê” (Is 49,7). Duy chỉ có Tin Mừng Luca sử dụng thuật ngữ “người được tuyển chọn” từ Bài ca thứ hai Người Tôi tớ, trong lúc Hiển dung và khi trên thập giá (x. Lc 23,35).
- Trong hành trình chuẩn bị Lễ Phục sinh mới. Môsê và Êlia nói về sự “xuất hành ” của các ngài (đã khởi hành); “núi”, mây che phủ, cùng với nỗi sợ hãi, nhắc nhớ về biến cố Sinai. Lều mà Phêrô xin được dựng gợi lại hình ảnh trong sa mạc.
- Sự thân mật với Chúa, mà sau đó được biến chuyển thành lời cầu nguyện. Thật ra, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ lên núi để “cầu nguyện”.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Không phải được tuyển chọn, nhưng Abram được Chúa chọn gọi giữa muôn người theo ý định và tình thương nhưng không của Người.
Tin tưởng vào Chúa, vào tình thương và lời hứa của Người, Abram trở thành khuôn mẫu của mọi người chúng ta về một niềm tin kiên vững và phó thác. Cũng như Abram, tôi có xác tín và nhận ra rằng tôi cũng chắc chắn được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi và đặt để trong một kế hoạch yêu thương của Người?
2. Hành trình Mùa Chay hướng về tâm tình mừng lễ Vượt qua với cuộc vinh thắng của Đức Kitô. Lắng đọng trong tâm hồn và suy nghĩ về những giá trị mà tôi đang sống, tôi thấy những giá trị này có phản ánh thập giá Đức Kitô và Nước Trời không? Có điều gì tôi cần phải ‘xuất hành’ và ‘vượt qua’?
3. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Đức Giêsu đã tỏ lộ chân dung vinh quang của Người cho các môn đệ, để củng cố niềm tin của các ông và giúp các ông vượt qua những gian nan thử thách. Chắc chắn đây cũng là cách thức mà Chúa cũng thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vậy trong những hoàn cảnh khó khăn, thập giá của đời mình, tôi có nhận ra dung mạo vinh quang của Chúa, cuộc vinh thắng của Người, cũng như niềm hy vọng về đức tin của tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Khi cho các môn đệ chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của các ông trước mầu nhiệm thập giá. Trong niềm tin tưởng và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời tôn vinh chúc tụng và khẩn khoản cầu xin:
1. Dung mạo Chúa Giêsu biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn vững tin vào vinh quang của Đức Kitô, biết sẵn sàng chết đi cho tội lỗi và tích cực trở nên chứng nhân cho quyền năng và tình thương của Thiên Chúa ở giữa thế gian.
2. “Thưa Thầy, chúng con được ở đây thật là hay.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những tổ chức và cá nhân đang dấn thân đấu tranh cho công lý và mưu cầu hạnh phúc cho con người ở khắp nơi trên thế giới, tìm được sự đồng tình cộng tác và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp qua những nỗ lực của mình.
3. “Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người tội lỗi lầm lạc tìm được niềm tin yêu hy vọng nơi tình thương quan phòng của Thiên Chúa, biết thành tâm sám hối và nhiệt tâm biến đổi đời sống để xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa.
4. “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để ngày càng gắn bó mật thiết với Đức Kitô hầu xứng đáng là người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa bày tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ và tất cả chúng con. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con một đức tin kiên cường cùng đức cậy vững chắc, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng con luôn tiến bước trên con đường thập giá theo chân Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
SCĐ Chúa Nhật II Chay C
Chủ đề :
Biến đổi
Chúa Giêsu biến hình (Lc 9,28b-38)
Sợi chỉ đỏ :
Việc Thiên Chúa
kết giao ước với tổ phụ Abraham (Bài đọc I) là nền tảng của sự biến đổi thân phận
loài người : Vì loài người phàm hèn mà được vinh dự kết giao ước với Thiên
Chúa ; Việc biến đổi được thực hiện một cách mẫu mực nơi Chúa Giêsu (Bài
Tin Mừng) : nhân tính của Ngài lu mờ đi để thiên tính hiển lộ ; Thánh
Phaolô (Bài đọc II) hứa hẹn với các tín hữu rằng “Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác
yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”
I. Dẫn vào
Thánh lễ
Anh chị em thân
mến
Chắc hẳn nhiều
lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều
lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng
ta thất bại.
Bài Tin Mừng
hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang ; Thánh Phaolô
hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ
này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta đã
được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng
khác xa Ngài.
– Sở dĩ chúng
ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác thịt mà
không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.
– Gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn
Chúa.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các bài đọc Cựu
Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng
của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu
tiên : Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam
kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới
bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào
Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi
đông đức, là dân riêng của Ngài.
Giao ước được
ký kết theo nghi thức thời xưa : Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai
bên ; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu
không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy.
Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói)
đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn
phương : chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những
mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con
vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.
2.
Đáp ca
(Tv Tv 26)
Thánh vịnh 26
được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của
Abraham : quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng
nơi Ngài.
3.
Tin Mừng
(Lc 9,28-36)
Chúng ta nên để
ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình :
- Ngài biến đổi hình dạng ra
vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
- Có một số chi tiết cho thấy cuộc
biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại :
– Việc biến
hình xảy ra “khoảng 8 ngày sau”, tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ
nhất (xem Lc 9,22)
– Hai ông Môsê
và Êlia đàm đạo với Ngài “về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
– Tiếng Chúa
Cha từ trời phán “Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn” là trích những đoạn Cựu Ước
nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.
Như thế Chúa
Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang
thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn
chịu chết.
4.
Bài đọc
II (Pl 3,17–4,1)
Mở đầu trích đoạn
này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài. Sở dị
Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn
niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô còn khuyến
khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì
Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận
con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ơn gọi và
Biến hình
Ơn gọi của
Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ
cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm
cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống
thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước
mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước
quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành
anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của
Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực
là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ
diệu với lời trách nhẹ nhàng : “Saulê, sao người bắt bớ Ta ?”.
Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử
thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô
đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội
ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa ; từ gái
giang hồ thành thánh nhân ; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng ; từ
kẻ khô khan đến người sốt mến ; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng
lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp
tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người
và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay
hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai
nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu
độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời
hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi.
Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc
thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một
lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài“.
Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và
ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên
Chúa.
Không phải chỉ
có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn
gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được
trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn
vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John
Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ
mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau : “Cha rất hài lòng khi thấy các
con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền
văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình
thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng
do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của
chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác“.
Tin đạo, thực
hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế
trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “danh Cha cả sáng,
nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần
Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất
mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa
lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến
hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng,
đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường
chinh” trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó
thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức
Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm
Nguyễn Bình An, Nguyệt san “Dân Chúa Mỹ Châu”)
2 * Hai ngọn
núi
Hãy so sánh cảnh
hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu :
– cùng xảy ra trên một ngọn núi : núi biến hình (Tabor ?) và núi Cây
Dầu.
– ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình : ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình
dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa ; ở núi Cây dầu, từ hình
dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
– Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng : Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Và 2 điểm phụ : 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu
nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau : Trên núi biến hình,
các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến
họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó ; Trên
núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người
thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau
giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta : trong
ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
– Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất
ngây sung sướng ; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị
em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm
hại mình…
– Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp
trầm trọng ; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời
thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng
xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những
kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ : Chúa Giêsu luôn cầu nguyện
khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não
trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh
Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ
cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên
núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).
“Lạy Chúa
Xin cho con
được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.
Trong những
giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa : con sẽ hướng về
Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói : Con là con yêu dấu của
Cha.
Và lạy Chúa
Khi con gặp
những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa : Con cũng
hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ
và xoa dịu con.” (Viết
theo Mark Link, Sunday homilies)
* 3. Nét mặt
con người
Nét mặt con người
rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì
kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái
của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt
là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và
cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng
“mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn : “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt
nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy :
họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…
Chúng ta cũng
thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, ‘mặt” chính là danh dự của con người.
Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng
ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau : khi
thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì
bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện,
khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của
thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo,
vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo
nói lên sự dối trá.
Tại sao người
ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình ? Tại sao người ta hay mang
mặt nạ ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của
mình ? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười
đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Tin Mừng
hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời.
Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của
Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên
trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt
vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những
nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa
Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất
của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt
giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn,
có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét
mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài :
vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh
quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quý của Ta”.
Mặc dù người ta
nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều hơn là biểu
lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một
huyền nhiệm.
Cũng như
Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt
bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người
anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
* 4. Một thoáng
vinh quang
Trên núi Tabor,
ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được
biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải
chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt
một lời : Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng
có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh
nói : “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có
những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng”.
Một người nghèo
sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một
hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông
không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn
mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an.
Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu
đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả
đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan
loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt
vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của
người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm
thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa :
lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm
tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai
lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh
quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng
Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm
nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi
chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với
giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa,
Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng
mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết : “Chúng ta đã được chứng
kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng : Đây
là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng
những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy
cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết
rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những
nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự
cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta
đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
5.
Người
vẫn đồng hành
Truyện ngụ ngôn
kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao,
nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia,
đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý
ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó
nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra,
bèn nói với nhà thiên văn : “Này ông, ông cứ muốn biết những việc
xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy ?”
*
Đêm hôm ấy,
Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu
nguyện.
Trong lúc Người
thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say.
Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và
Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn
thưa : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá !” (Lc
9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu
nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê.
Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến
khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết
các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của
Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn
mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan
báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình
sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê
cách đây tám ngày : “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt
16,16).
Nếu cuộc biến
hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp
nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng
sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu
nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong
suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta
mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến
hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc
sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện,
chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố
của cuộc sống.
*
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi
Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha.
Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an
vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa
nâng đỡ chở che. Amen. (TP)
6.
Chuyện
minh họa
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ
cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến
xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo
mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc
tuyên bố :
– Đúng, anh ta
nhập đạo thật.
– Sao anh biết ?
– Tôi vừa xem lại
số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu
nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác,
việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu
hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu
nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên
giầu có : cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời
Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng
dâng lời cầu xin :
- Chúa Giêsu phải trải qua
đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng
là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
- Như thánh Phêrô / ai
cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự /
khi tận tụy phục vụ tha nhân.
- Trong đời sống thường
ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen
tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô
soi sáng đỡ nâng.
- Đây là Con yêu dấu của
Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm
chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ tế : Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu
xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống
và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh
Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài
và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa
Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo
của chúng ta.
– Lúc chúc bình
an : Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự ;
và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt
trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Sau khi các môn
đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống
núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa
trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ
thường ngày với một sức mạnh mới.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật
II Mùa Chay (C)
Chủ Nhật 17
Tháng Ba, 2019
Chúa Giêsu Hiển
Dung
Phương cách mới
làm viên mãn những lời tiên tri
Lc 9:28-36
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình
mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của
Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được
sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo
trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự
Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong
những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện
xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con
cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người
khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh
em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Một vài ngày
trước đó, Đức Giêsu đã nói rằng chính Người, Con Một Thiên Chúa, phải chịu xét
xử và bị đóng đinh bởi những kẻ có thẩm quyền (Lc 9:22; Mc 8:31). Dựa
theo các dữ kiện trong các sách Tin Mừng Máccô và Mátthêu, các môn đệ, đặc biệt
là ông Phêrô, đã không hiểu được những điều Chúa Giêsu nói và đã cảm thấy bất
an bởi lời ấy (Mt 16:22; Mc 8:32). Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ và
quay sang Phêrô gọi ông là Satan (Mt 16:23; Mc 8:33). Do bởi vì những
lời của Chúa Giêsu đã không tương ứng với ý tưởng một Đấng Cứu Thế vinh quang
mà họ đã mường tượng. Luca không đề cập đến phản ứng của Phêrô và
câu trả lời mạnh mẽ của Chúa Giêsu, nhưng ông có mô tả, như những Thánh Sử
khác, cảnh Chúa Biến Hình. Luca xem việc Chúa Biến Hình như là một sự
hỗ trợ cho các môn đệ để cho các ông có thể vượt thắng được sự bất an và thay đổi
ý tưởng của họ về Đấng Cứu Thế (Lc 9:28-36). Đem ba môn đệ cùng đi với
Người, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và, trong khi Người đang cầu nguyện, Người
biến hình. Khi đọc văn bản, tốt hơn chúng ta nên lưu ý đến những điểm
sau đây: “Ai xuất hiện cùng với Chúa Giêsu trên núi để đàm đạo cùng
Người? Chủ đề của cuộc đàm đạo là gì? Thái độ của các môn
đệ ra sao?”
b) Phần phân
đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
9:28: Giây phút khủng hoảng
Lc
9:29: Sự thay đổi diễn ra trong lúc cầu nguyện
Lc
9:30-31: Sự xuất hiện của hai người đàn ông và cuộc đàm đạo của họ với
Chúa Giêsu
Lc
9:32-34: Phản ứng của các môn đệ
Lc
9:35-36: Tiếng nói của Chúa Cha
c) Tin Mừng:
28 Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và
Gioan lên núi cầu nguyện. 29 Và đang khi cầu nguyện, diện
mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. 30 Bỗng
có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, 31 hiện đến
uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. 32 Phêrô
và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị
đang đứng với Người. 33 Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô
thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng
con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế,
Phêrô không rõ mình nói gì. 34 Lúc ông còn đang nói, thì một
đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều
kinh hoàng. 35 Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây
là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. 36 Và
khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó,
các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
3. Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có
thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng
ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong câu chuyện Chúa Biến Hình
đã làm bạn hài lòng nhất? Tại sao?
b) Những ai cùng đi lên núi với Chúa
Giêsu? Tại sao họ lại đi?
c) Ông Môisen và tiên tri Êlia xuất hiện
trên núi bên cạnh Chúa Giêsu. Tầm quan trọng của hai vị này trong Cựu
Ước đối với Chúa Giêsu, đối với các môn đệ, đối với các giáo đoàn trong thập
niên 80 là gì? Và đối với chúng ta ngày nay là gì?
d) Lời tiên tri nào trong Cựu Ước được viên
mãn trong lời của Chúa Cha nói về Chúa Giêsu?
e) Thái độ của các môn đệ trong câu chuyện
này là gì?
f) Đã có hiện tượng biến hình trong cuộc sống
của bạn chưa? Kinh nghiệm về hiện tượng biến hình đã giúp bạn hoàn
thành sứ vụ của mình tốt đẹp hơn như thế nào?
g) Hãy so sánh lời mô tả của Luca về việc
Biến Hình của Chúa Giêsu (Lc 9:28-36) với lời mô tả về nỗi lo buồn của Chúa
Giêsu trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Hãy cố gắng tìm xem có bất kỳ
điểm tương đồng nào không. Ý nghĩa của những điểm tương đồng này là
gì?
5. Chìa khóa
dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong
chủ đề
a) Bối
cảnh về bài giảng của Chúa Giêsu:
Trong hai
chương trước của sách Tin Mừng Luca, sự đổi mới được đem đến bởi Chúa Giêsu thì
nổi bật và mối căng thẳng giữa Mới và Cũ ngày càng tăng. Cuối cùng,
Chúa Giêsu nhận ra rằng không có ai hiểu được ý của Người và lại càng không hiểu
về chính con người của Chúa. Người ta đã nghĩ rằng Người giống như
Gioan Tiền Hô, tiên tri Êlia hay một tiên tri thuở xưa (Lc
9:18-19). Các môn đệ chấp nhận Người là Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng
Cứu Thế vinh quang, theo như lời tuyên truyền bởi nhà cầm quyền và những chức sắc
tôn giáo của Đền Thờ (Lc 9:20-21). Đức Giêsu đã cố gắng giải thích với
các môn đệ của Người rằng cuộc hành trình được dự kiến bởi các tiên tri là cuộc
hành trình đau thương bởi vì sự ràng buộc của nó với những kẻ bị hắt hủi trong
xã hội và người môn đệ chỉ có thể là môn đệ nếu người ấy tự vác lấy thập giá của
mình (Lc 9:22-26). Tuy nhiên, Người đã không thành công cho lắm. Trong
một bối cảnh khủng hoảng như thế, việc Chúa Hiển Dung xảy ra.
Trong những năm
của thập niên 30, kinh nghiệm Chúa Biến Hình đã có một ý nghĩa rất quan trọng
trong đời sống của Chúa Giêsu và cũng như của các môn đệ. Nó đã giúp
họ vượt qua cuộc khủng hoảng đức tin và thay đổi ý tưởng của họ về Đấng Cứu Thế. Vào
những năm của thập niên 80, khi Luca đang viết sách cho các giáo đoàn Kitô hữu ở
Hy Lạp, ý nghĩa của cuộc Biến Hình đã được đào sâu và mở rộng. Trong
ánh sáng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và của việc truyền bá Tin Mừng giữa dân
ngoại trong hầu hết các quốc gia, từ miền Paléstine đến nước Ý, kinh nghiệm của
việc Chúa Biến Hình đã bắt đầu được xem như là một lời xác tín của các cộng
đoàn Kitô hữu vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hai ý nghĩa
được hiện diện trong lời mô tả và diễn giải của việc Chúa Biến Hình trong Tin Mừng
theo thánh Luca.
b) Lời bình
luận về văn bản:
Lc
9:28: Thời khắc khủng hoảng
Có vài lần,
Chúa Giêsu gặp phải rắc rối với dân chúng, với các giới chức tôn giáo và các
nhà cầm quyền thời ấy (Lc 4:28-29; 5:20-21; 6:2-11; 7:30,39; 8:37;
9:9). Người biết họ sẽ không để yên cho Người làm những việc Người
đã làm. Chẳng chóng thì chầy họ sẽ bắt Người. Ngoài ra,
trong xã hội thời ấy, việc công bố về Vương Quốc Nước Trời, như Chúa Giêsu đã
làm, là việc không thể nào được dung thứ. Người hoặc giả phải rút
lui hay là sẽ phải chết! Không có sự chọn lựa nào
khác. Chúa Giêsu đã không rút lui. Do đó, cây thập giá đã
thấp thoáng xuất hiện, không chỉ là chuyện có thể xảy ra mà là một điều chắc chắn
(Lc 9:22). Cùng với cây thập giá, cũng có xuất hiện sự cám dỗ với ý
nghĩ về một Đấng Cứu Thế Vinh Quang, thay vì Đấng Cứu Thế
Chịu Đóng Đinh, người tôi tớ chịu đau khổ, được công bố bởi
ngôn sứ Isaia (Mc 8:32-33). Vào lúc khó khăn này, Chúa Giêsu đi lên
núi để cầu nguyện, đi theo cùng với Người có các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Qua lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu tìm kiếm sức mạnh để
khỏi bị mất khả năng định hướng trong sứ vụ của mình (xem Mc 1:35).
Lc 9:29: Sự
biến đổi xảy ra trong lúc cầu nguyện
Ngay khi Chúa
Giêsu bắt đầu cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi và Người xuất hiện vinh
quang. Dung mạo Người thay đổi và áo Người trở nên trắng tinh
sáng láng. Đó là sự vinh quang mà các môn đệ mường
tượng về Đấng Mêssia. Việc biến hình này cho các ông biết rõ ràng rằng
Đức Giêsu đích thực là Đấng Thiên Sai được tất cả mọi người mong đợi. Nhưng
những gì xảy ra tiếp theo sau việc Chúa Biến Hình sẽ chỉ ra rằng con đường đi đến
vinh quang thì khá khác so với những gì họ đã tưởng tượng. Việc biến
hình sẽ là lời mời gọi để hoán cải.
Lc
9:30-31: Hai người xuất hiện đàm đạo với Chúa Giêsu
Cùng với Chúa
Giêsu và trong cùng một trạng thái vinh quang có sự xuất hiện của các ông
Môisen và Êlia, hai nhân vật lớn của Cựu Ước, đại diện cho Lề Luật và các Ngôn
Sứ. Họ đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc Xuất Hành đem lại sự viên mãn
tại Giêrusalem”. Như vậy, trước mặt các môn đệ, Lề Luật và các Ngôn
Sứ xác nhận rằng Đức Giêsu chính là Đấng Mêssia vinh quang, được hứa
hẹn trong Cựu Ước và được chờ đợi bởi toàn dân. Các ông cũng còn xác
nhận rằng con đường dẫn đến sự Vinh Quang là con đường đau khổ
của sự xuất hành. Cuộc Xuất Hành của Chúa Giêsu là cuộc thương khó,
cái chết và sự sống lại của Người. Qua “cuộc xuất hành” của mình,
Chúa Giêsu đánh đổ sự thống trị của tư tưởng sai lầm về Đấng Mêssia được tuyên
truyền bởi nhà cầm quyền và bởi các viên chức tôn giáo và gài bẫy mọi người
trong điều mơ ước về một vị Mêssia anh hùng dân tộc và vinh
quang. Kinh nghiệm Chúa Biến Hình đã xác nhận rằng Đức Giêsu là Đấng
Mêssia Tôi Tớ được chỉ định như một sự trợ giúp để giải thoát họ khỏi những ý
tưởng sai lầm về Đấng Thiên Sai và để khám phá ra ý nghĩa thực sự của Vương Quốc
Nước Trời.
Lc
9:32-34: Phản ứng của các môn đệ
Các môn đệ đã
ngủ say. Khi các ông thức dậy, nhìn thấy Chúa Giêsu trong vinh quang
và có hai người đàn ông cùng với Người. Nhưng phản ứng của Phêrô cho
thấy rằng các ông đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của vinh
quang mà Chúa Giêsu đã hiện ra cho các ông. Như thường cũng
xảy ra với chúng ta, các ông chỉ nhận thức được những gì liên quan đến họ. Ngoài
những điều ấy thì họ không chú ý đến. “Lạy Thầy, chúng con được ở
đây thì tốt lắm!” Và các ông không còn muốn đi xuống núi nữa! Khi
vấn đề là cây thập giá, cho dù trên Núi Biến Hình hay là Núi Cây Dầu (Lc
22:45), các ông ngủ say! Các ông ưa chuộng sự Vinh Quang hơn
là Thập Giá! Các ông không muốn nói đến hoặc nghe về cây
thập giá. Các ông muốn nắm chắc giây phút vinh quang trên núi, và
các ông đề nghị xin dựng ba lều. Phêrô không biết mình đang nói gì.
Trong khi Phêrô
còn đang nói, thì có một đám mây hạ xuống từ trên cao và bao phủ các
Ngài. Thánh Luca nói rằng các môn đệ đã kinh hoảng khi đám mây bao
phủ họ. Đám mây là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên
Chúa. Đám mây đi theo đám đông dân chúng trên cuộc hành
trình của họ qua sa mạc (Xh 40:34-38; Ds 10:11-12). Khi Chúa Giêsu
lên trời, Người đã được bao phủ bởi một đám mây và họ không còn nhìn thấy Người
(Cv 1:9). Đây là dấu hiệu cho thấy rằng Đức Giêsu đã mãi mãi tiến
vào thế giới của Thiên Chúa.
Lc
9:35-36: Tiếng nói của Chúa Cha
Một giọng nói từ
trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Tuyển Chọn,
các ngươi hãy nghe lời Người”. Với cùng một câu mà ngôn sứ Isaia đã
công bố Đấng Mêssia-Tôi Tớ (Is 42:1). Đầu tiên là các ông Môisen và
Êlia, bây giờ đến chính Thiên Chúa trình diện Đức Giêsu như là Đấng Cứu Thế-Tôi
Tớ, Đấng bước tới vinh quang qua cây thập giá. Tiếng nói kết thúc với
một lời khuyên cuối cùng: “Các ngươi hãy nghe lời Người!” Đang
lúc tiếng nói từ trời phát ra, các ông Môisen và Êlia biến mất, và chỉ thấy còn
mình Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa rằng từ giờ trở đi sẽ chỉ có Đức
Giêsu giải thích Kinh Thánh và ý muốn của Thiên Chúa. Người là Lời
Thiên Chúa dành cho các môn đệ: “Các ngươi hãy nghe lời Người!”
Lời tuyên bố
“Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Chọn, các ngươi hãy nghe lời Người” rất quan
trọng cho các giáo đoàn vào những năm cuối thập niên 80. Qua sự khẳng
định này, Thiên Chúa Cha đã xác nhận niềm tin của các Kitô hữu vào Đức Giêsu
là Con Một Thiên Chúa. Vào thời Chúa Giêsu, đó là những
năm 30, từ ngữ Con Thiên Chúa được dành riêng cho một người có
phẩm giá và sứ vụ rất cao. Chính Đức Giêsu đã đưa ra ý nghĩa liên
quan đến từ ngữ này bằng cách nói rằng tất cả đều là con cái Thiên Chúa (xem Ga
10:33-35). Tuy nhiên đối với một số người thì danh hiệu Con
Thiên Chúa đã trở thành bản tóm gọn tất cả mọi danh hiệu, hơn một trăm
danh hiệu mà các Kitô hữu tiên khởi đã đặt cho Chúa Giêsu vào hậu bán thế kỷ thứ
nhất. Trong những thế kỷ sau đó, danh hiệu Con Thiên Chúađã
được Giáo Hội tập trung tất cả niềm tin vào con người của Đức Giêsu.
c) Phần phụ
chú:
i) Việc Chúa Biến Hình đã được ghi lại
trong ba sách Tin Mừng: Mátthêu (Mt 17:1-9), Máccô (Mc 9:2-8) và Luca
(Lc 9:28-36). Điều này cho thấy rằng cảnh này chứa một sứ điệp rất
quan trọng. Như đã nói, đó là điều trợ giúp rất nhiều cho Chúa
Giêsu, cho các môn đệ và cho các cộng đoàn tiên khởi. Nó xác nhận rằng
Đức Giêsu trong sứ vụ của Người là Đấng Cứu Thế-Tôi Tớ. Nó đã giúp
cho các môn đệ vượt qua cuộc khủng hoảng mà cây thập giá và sự đau khổ đã gây
ra cho họ. Nó hướng dẫn các cộng đoàn để đào sâu thêm đức tin của họ
vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã được mặc khải bởi Chúa Cha và Đấng đã
trở nên chìa khóa mới để giải thích Lề Luật và lời các Ngôn Sứ. Sự
kiện Chúa Biến Hình tiếp tục là sự trợ giúp trong việc khắc phục khủng hoảng mà
cây thập giá và sự đau khổ đem đến vào ngày nay. Ba môn đệ say ngủ
là sự phản ảnh của tất cả chúng ta. Tiếng nói của Chúa Cha được nói
với chúng ta như đã nói với các ông: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được
Chọn; các ngươi hãy nghe lời Người!”
ii) Trong Tin Mừng của Luca, có một sự
tương đồng giữa cảnh Chúa Biến Hình (Lc 9:28-36) và cảnh Chúa Giêsu buồn sầu
trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Chúng ta có thể lưu ý những điều
sau đây: trong cả hai cảnh, Chúa Giêsu đi lên núi cầu nguyện và đem
theo ba môn đệ, Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trong cả hai trường hợp, diện
mạo của Chúa Giêsu được biến đổi và Người biến hình trước mặt các ông; vinh
quang tại lúc Chúa Biến Hình, đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu. Cả
hai lần những nhân vật trên trời xuất hiện để an ủi Người, các ông Môisen và
Êlia và thiên thần từ trời. Trong cả hai lần Chúa Biến Hình và Chúa
Lo Buồn, các môn đệ say ngủ, dường như các ông đứng ngoài sự kiện và dường như
họ không hiểu được gì. Tại phần cuối của cả hai câu chuyện, Chúa
Giêsu tái hợp với các môn đệ. Không còn nghi ngờ gì, Luca muốn nhấn
mạnh đến sự tương đồng giữa hai cảnh này. Đó là điều
gì? Đó là trong sự suy gẫm và cầu nguyện, chúng ta sẽ thành công
trong việc hiểu được ý nghĩa mà nó vượt khỏi phạm vi từ ngữ, và để cảm nhận được
chủ đích của tác giả. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta.
iii) Thánh Luca mô tả việc Chúa
Biến Hình. Có những lần trong đời chúng ta khi đau khổ đến nỗi mà
chúng ta có thể nghĩ rằng: “Thiên Chúa đã bỏ tôi! Người
không còn ở với tôi nữa!” Và sau đó đột nhiên chúng ta nhận ra rằng
Người chẳng bao giờ bỏ rơi chúng ta, mà là mắt của chúng ta đã bị bịt kín và đã
không nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa. Rồi thì mọi việc
được thay đổi và biến dạng. Đó là sự biến hình! Điều này
xảy ra hàng ngày trong đời sống chúng ta.
6. Thánh Vịnh
42 (41)
“Linh
hồn tôi khao khát Thiên Chúa hằng sống!”
Như nai rừng
mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?
Châu lệ là cơm
bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
“Này Thiên Chúa ngươi đâu? ”
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
“Này Thiên Chúa ngươi đâu? ”
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Hồn tôi hỡi, cớ
sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn,
nên chi từ giải đất Giođan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất, và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn,
nên chi từ giải đất Giođan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất, và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
Ban ngày CHÚA gửi
tình thương xuống,
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời nguồn sống.
Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con: “Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi? ”
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
“Này Thiên Chúa ngươi đâu? ”
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời nguồn sống.
Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con: “Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi? ”
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
“Này Thiên Chúa ngươi đâu? ”
Hồn tôi hỡi, cớ
sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
7. Lời Nguyện
Kết
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của
Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng
con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét