17/03/2019
Chúa Nhật 2 Mùa
Chay năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: St 15, 5-12.
17-18
"Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông:
"Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi
sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế".
Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.
Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của
dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia
nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê
cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu
non". Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này
đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm
lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt
trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.
Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc
khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày
đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho
miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 7-8a.
8b-9abc. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng
Cứu Ðộ tôi. (c. 1a)
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng
phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con.
Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".- Ðáp.
3) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng
xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi
con. - Ðáp.
4) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi
nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ
đợi Chúa! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 3, 17 -
4, 1
"Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển
vinh của Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những
người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường
nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống
thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ
là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng
những cái trên cõi đời này.
Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng
Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của
chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn
có, để bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều
thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 - 4, 1
Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi
Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn
hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà
Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu
quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững
vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con
Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và
đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng
tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến
uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai
bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng
với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy
Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy,
một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì.
Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến
vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán
rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi
tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các
môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Ðến Ðể
Biến Ðổi Thân Xác Khốn Hèn Của Loài Người
Chúa Nhật trước đã đưa chúng ta vào 40 ngày Chay của Chúa Giêsu và đã cho
chúng ta thấy Người lướt thắng các cơn cám dỗ của Satan như thế nào, để chúng
ta biết phấn đấu theo gương Người trong Mùa Chay này và trong suốt cả đời sống.
Hôm nay phụng vụ nhắc lại chuyện Chúa biến hình trên núi như là hình ảnh báo
trước vinh quang Phục sinh đang chờ Người ở bên kia Mầu nhiệm Thập giá. Và như
vậy Chúa nhật hôm nay muốn cho chúng ta thấy trước quang cảnh của cuối mùa
Chay, đang khi Chúa nhật trước đã khai mạc mùa này và các Chúa nhật sau sẽ nói
về quãng giữa của đầu và cuối mùa Chay Thánh. Chúng ta sẽ tìm hiểu việc Chúa biến
hình và nhờ đó sẽ suy nghĩ về hai bài đọc Thánh Kinh kia để làm cho ngày hôm
nay rực lên ánh quang vinh của Chúa.
1. Việc Chúa Biến Hình
Chúng ta sẽ theo sát bản văn của Luca. Người bắt đầu cho một chi tiết
đáng kể. Theo Người, câu chuyện Chúa biến hình trên núi xảy ra chừng 8 ngày sau
hôm Người báo tin cho môn đệ biết: Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ... bị
giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Người cũng bảo: Ai muốn đi theo sau Người,
thì hãy chối bỏ chính mình và vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà đi theo Người.
Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Người đã hứa sẽ cho một số môn đệ
có mặt hôm đó được thấy vinh quang của Người. Và hôm nay, Người đem ba ông:
Phêrô, Gioan, Giacôbê lên núi với Người.
Như vậy, câu chuyện Chúa biến hình hôm nay là để thi hành Lời Người đã hứa.
Ba môn đệ sẽ được xem thấy vinh quang của Người để bù lại những lời tiên báo việc
Người sẽ bị nộp, bị giết. Phải chăng đây không phải là khía cạnh vinh quang của
mầu nhiệm thập giá? Ðó là mầu nhiệm Phục sinh phải đi liền với mầu nhiệm Tử nạn.
Các môn đệ được thấy trước ánh sáng Phục sinh để họ khỏi nao núng khi thấy Người
chịu đau khổ và chúng ta được phấn khởi đi vào con đường mùa Chay mà hôm nay
khai mạc, chúng ta đã thấy là con đường phấn đấu.
Nhưng vì việc biến hình lại xảy ra khoảng 8 ngày sau hôm Chúa Giêsu nói về
việc Tử nạn? Chúng ta có được phép nghĩ rằng ngày thứ 8 cũng là ngày thứ nhất
trong tuần lễ của người Kitô hữu không? Do đó cả việc Tử nạn cả việc Phục sinh
đều được loan báo trong cùng một ngày, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, ngày cử
hành các mầu nhiệm cứu thế trọng đại của Chúa chúng ta.
Người chỉ đem theo Phêrô, Gioan, Giacôbê vì ba người này sẽ được thấy Người
hấp hối trong vườn Cây Dầu, để làm chứng những ai đã tham dự mầu nhiệm Tử nạn
cũng sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh. Và cũng như ở vườn Cây Dầu sau này,
hôm nay ở đây Ðức Giêsu mãi miết trong cầu nguyện đang khi các môn đệ "li
bi giấc ngủ". Nhiều việc quan trọng đã hoặc sẽ xảy ra trong hoàn cảnh
tương tự. Chính những khi Ðức Giêsu cầu nguyện nhiều là có những việc trọng đại
đã đến.
Hôm nay, đang lúc Người cầu nguyện, dung nhan Người đã ra khác. Y phục
Người cũng sáng hẳn lên. Luca không chú trọng lắm đến những thay đổi này. Ông
không coi việc biến hình là chính, nếu chúng ta được phép nói như vậy. Ông quan
tâm đến nội dung hơn là hình thức. Ông tìm hiểu bản chất hơn là hiện tượng. Những
nét xa lạ về sắc diện và y phục cho thấy đang có gì khác thường xảy đến cho Người.
Quả thật, có hai nhân vật đến trao đổi với Ðức Giêsu. Ðó là Môsê và Êli,
một ông luật pháp và một nhà tiên tri. Ðó là cả Cựu Ước đang tâm sự với Người.
Cũng có thể hiểu hai ông đã mang đến một bầu khí cánh chung. Nhiều người nghĩ rằng
Êli phải đến trước để đi tiền hô cho Ðấng Thiên Sai. Sự hiện diện của ông ở đây
chứng tỏ thời đại Thiên Sai đã đến. Và Môsê nhà luật pháp của đạo cũ, nay đến
chào mừng và "bàn giao" với nhà luật pháp mới...
Nếu thế thì sao sự việc không xảy ra trên núi Sion? Ngọn núi đang có sự
hiện diện của ba vị chỉ là ngọn núi quen thuộc của Ðức Giêsu. Người hay lui tới
đây cầu nguyện. Sion bị truất phế rồi ư? Chúng ta phải hiểu như vậy; vì thời đại
thiên sai và cánh chung không còn ưu tiên cho nơi nào và dân nào nữa. Người ta
không còn cần phải chọn Giêrusalem hay Garizim làm điện thờ duy nhất nữa. Người
ta chỉ cần tìm đến với Ðức Giêsu mà cả Luật pháp (đạo cũ) và Tiên tri (đạo mới)
đều đang tuyên chứng.
Môsê và Êli hiện ra trong vinh quang, vì họ đã tham dự vào công cuộc của
Chúa và vì họ trở lại trong ánh sáng Phục sinh. Họ nói với Ðức Giêsu về cuộc ra
đi sắp tới của Người sẽ xảy ra ở Giêrusalem tức là cuộc tử nạn Phục sinh vượt
qua của Người... Chúng ta có thể bảo Môsê đã san sẻ kinh nghiệm cho Người
không? Bởi vì khi ông được tiếp xúc với vinh quang của Thiên Chúa lần đầu tiên ở
núi Horeb trước bụi gai cháy một cách kỳ diệu, ông đã được sai đi để tổ chức vượt
qua cho con cái Israen. Ai trong lịch sử Cựu Ước có kinh nghiệm hơn ông về vấn
đề này. Cuộc vượt qua Biển Ðỏ do ông tổ chức đã trở thành tiêu biểu cho mọi lần
Chúa muốn cứu dân. Hôm nay ông đến để nói với Ðức Giêsu về cuộc sắp ra đi của
Người. Lễ Vượt Qua của đạo mới sẽ bao trùm và kiện toàn lễ vượt qua đạo cũ khi
Môsê cũ đã trò chuyện hết với Môsê mới là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Câu chuyện giữa các Ngài ở ngoài tai các môn đệ; cũng như sau này trong
vườn Cây Dầu họ chẳng biết gì về việc Chúa hấp hối. "Phêrô và các bạn li
bì giấc ngủ". Xác thịt của họ còn nặng nề, chưa hiểu được mầu nhiệm Tử nạn,
khi ánh sáng Phục sinh chưa làm họ tỉnh dậy.
Bấy giờ bừng mắt ra, họ thấy vinh quang của Ðức Giêsu và thấy hai người
đang đứng với Người, tức là trước đây họ chưa thấy dung nhan mặt Người đã ra
khác và y phục của Người đã trở nên trắng ngời. Họ là những kẻ ngu mê cho đến
khi chuyện ra đi tử nạn đã qua.
Nhiệm vụ của Môsê và Êli cũng đã rồi. Họ ra đi, để lại Ðức Giêsu đứng với
môn đệ của Người. Luật pháp và tiên tri đã tuyên chứng cho công cuộc cứu thế của
Người, thì đến sinh hoạt của Hội Thánh Phêrô lên tiếng xin làm ba lều cho Chúa
Giêsu, cho Môsê và cho Êli. Luca bảo rằng: Phêrô không biết mình nói gì. Mà quả
thật, ông không thấy Môsê và Êli đã ra đi rồi sao? Ðàng khác sao lại có chuyện
tất cả lịch sử dừng lại ở đây? Chỉ có mấy người được ở trên núi hạnh phúc này
sao? Còn muôn muôn, ứu ức, triệu triệu con người của các dân tộc phải được tề tựu
về đây nữa chứ? Không, câu nói của Phêrô chưa để ý đến mọi khía cạnh. Nó chỉ có
giá trị nói lên một sự thật, sự thật ở đây là hạnh phúc...
Thiên Chúa không phủ nhận một tấm lòng thành như vậy. Người cho một đám
mây rợp xuống trên tất cả mọi người. Người hứa và bảo đảm sẽ cho mọi người được
hạnh phúc và chia sẻ vinh quang. Người muốn nói, mọi người sẽ được đưa vào sự sống
của Chúa Giêsu tử nạn phục sinh, miễn là người ta hãy nghe lời Ngài.
Là vì có tiếng phán ra từ trong đám mây, y như hôm nào ở bờ sông Giođan.
Chỉ thêm một điều hôm nay Thiên Chua bảo mọi người hãy nghe lời Con của Người.
Và như vậy cuộc hiển linh hôm nay không nhằm tấn phong Ðức Giêsu làm Tôi Tớ
Thiên Chúa đến để thi hành sứ mạng cứu thế, cho bằng đặt Người đứng trên mọi
loài sau khi Người đã tử nạn phục sinh. Người sẽ là Chúa của Hội Thánh sau khi
ơn cứu độ đã được ban cho mọi người.
Thế nên, sau khi lời tuyên bố, các môn đệ chỉ còn nhìn thấy một mình Chúa
Giêsu. Họ đã nín thinh, chờ ngày các mạc khải hôm nay trở thành sự thật. Và sau
khi Ðức Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời, họ đã ra đi khắp nơi công bố
Người là Chúa để thâu nạp mọi dân tộc đến nghe Lời Người mà được chia sẻ vinh
quang phục sinh.
Câu chuyện Chúa biến hình vì thế, không còn cho chúng ta thấy một Ðức
Giêsu phấn đấu để lướt thắng các cơn cám dỗ như trong Chúa nhật trước nữa. Chúa
nhật hôm nay báo trước vinh quang của Người sau Mầu nhiệm Thánh giá, để chúng
ta cũng như ba môn đệ ngày xưa được vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Người.
Chúng ta được hạnh phúc hơn Abraham trong bài Cựu Ước hôm nay biết bao! Ðọc lại
câu chuyện này, chúng ta sẽ thêm phấn khởi tin vào ơn cứu độ đang được dành cho
chúng ta.
2. Abraham Tin Vào
Chúa
Câu chuyện sẽ thêm nhiều ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ rằng nó đã không được
viết vào thời Abraham (vì thời đó làm gì Do Thái đã có chữ viết) nhưng mãi về
sau này. Chúng ta có thể nghĩ đây là tác phẩm của một thần học gia rất đạo đức,
sống ở đất Do Thái vào khoảng trước hoặc sau lưu đày. Ông thấy hoàn cảnh thật
đen tối. Ðất nước này không còn là của con cái Israen nữa. Sản nghiệp Lời Hứa
đã hoàn toàn tiêu tan. Cứ như thế này mãi sao? Hay là sẽ có lúc Thiên Chúa ngoảnh
mặt lại? Phần đa số trong dân không còn hy vọng nữa vì sự thật quá phủ phàng.
Nhưng niềm tin, niềm tin của các tổ phụ dân vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn nhiều
người, trong đó có tác giả của đoạn văn hôm nay. Niềm tin ấy tìm cách lóe lên
trong đêm tối, vươn lên khi sắp bị giập xuống. Nó mượn đời sống của chính tổ phụ
Abraham để chỗi dậy. Nó viết lại một câu chuyện trong cuộc đời của vị tổ phụ để
lấy lại nghị lực.
Tình cảnh của tổ phụ Abraham bấy giờ không bi đát sao? Thân ông càng ngày
càng già yếu. Bạn ông, bà Sara, cũng đã hết thời sinh sản. Thế mà hai người vẫn
chưa có lấy một mụn con! Ðang khi ấy Chúa vẫn phán: Dòng dõi của Abraham sẽ
đông đúc nhiều hơn sao trên trời và cát ngoài biển. Abraham tin Chúa, nhưng quả
là tin trong đêm tối.
Rồi Chúa còn hứa cho ông một Ðất Nước làm quê hương. Ðiều hứa này được
tác giả bài sách hôm nay để ý. Nó động đến điều ông đang thắc mắc. Vị tổ phụ
ngày xưa được hứa ban Ðất Nước này khi người không có quyền trên một tấc đất ở
đây. Ngày nay con cái Israen có còn nên hy vọng làm chủ được Ðất Nước này khi
nó đang nằm trong tay quân xâm lược hay không? Tác giả nhìn vào niềm tin của vị
Tổ Phụ mà thêm phấn chấn. Ông viết lại niềm tin này để phấn khởi đồng bào của
ông. Do đó chúng ta được bản văn hôm nay.
Nó cho chúng ta thấy Abraham như đã ép được Chúa phải cho ông một bảo đảm
về Lời Hứa. Khi Người hứa ban Ðất Nước này cho ông, ông đã bạo dạn thưa:
"Lạy Chúa Giavê, làm sao tôi biết là tôi sẽ được nó làm cơ nghiệp?"
Và Chúa đã phải ban cho ông một bằng chứng. Ðó là Giáo Ước. Người bảo ông lấy một
con bê, một con dê, một con cừu, một con chim gáy và một con bồ câu. Abraham
đem hết các vật ấy lại, rồi bổ đôi ba con vật lớn, đặt mỗi phần đối chiếu với
phần kia. Theo tục lệ thời ấy, hai bên ký kết giao ước sẽ đi qua những phần thịt
này để cam kết số phận mình sẽ bị phanh thây ra như thế nếu mình không giữ lời
giao ước. Vậy, Abraham cũng chờ Chúa đến để đi qua... Và khi mặt trời đã lặn,
thì này một lò lửa nghi ngút khói và một đuốc cháy đã ngang qua giữa những mảnh
thịt. Abraham biết rằng Chúa đã đến và đã cam kết. Lửa khói và đuốc sáng là dấu
hiệu hiện diện của Người. Người cam kết một mình để tỏ ra ưu vị và sự quyết tâm
của Người, khiến Abraham chỉ còn biết sấp mình thờ lạy và đặt hết tin tưởng vào
Chúa.
Con cái Israen thời của tác giả bản văn này, làm sao không phấn khởi khi
nghe nói như vậy? Tổ phụ của họ vì tin mà được Ðất Nước này. Họ cũng sẽ giữ và
lấy lại được Ðất Nước nếu có niềm tin như thế. Và cơ sở của niềm tin chính là
Giáo Ước. Thiên Chúa đã hứa, hứa một cách long trọng và có khế ước nghiêm chỉnh.
Chính Người sẽ thực hiện điều ấy.
Chúng ta cảm phục tác giả. Nhưng sánh với ông hạnh phúc của chúng ta thật
to lớn biết bao! Chúng ta được hứa ban sản nghiệp Nước Trời là sự sống đời đời.
Nhưng chúng ta không phải chỉ có Lời Hứa và giao ước, mà còn có bảo chứng cụ thể
là việc Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết và đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng
ta. Sự kiện Ngài sống lại, ai chối được nữa? Bài Tin Mừng hôm nay đã báo trước.
Môsê và Êli đã tuyên chứng. Các Tông đồ đã được nếm thử. Phêrô đã mãn nguyện rõ
ràng... Chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh để đi con đường mùa Chay, con
đường của đời sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô đoán chắc về hạnh phúc phục
sinh của chúng ta mai ngày.
3. Chúa Sẽ Biến Ðổi
Thân Xác Khốn Hèn Của Chúng Ta
Thánh Tông đồ khuyên hết mọi người bắt chước Người và bắt chước những kẻ
sống theo gương mẫu của Người, vì Người tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu
nhiệm Thánh Giá. Ðang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Ðức
Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang
nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do Thái. Họ
là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh
phúc, Họ sẽ đi tới diệt vong. Con đường của họ, không nên đi vào.
Trái lại, quê hương của chúng ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là
Ðức Giêsu Kitô. Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống như
thân xác vinh quang của Người. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường
thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
Hôm nay bài Tin Mừng đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Tác giả bài sách Khởi
Nguyên đã khuyên con cái Israen đặt niềm tin vào quê hương họ. Chúng ta còn phấn
khởi biết bao khi theo lời thánh Phaolô mà nghĩ đến quê hương trên trời, nơi Ðức
Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang để lấy sự vinh quang của Người bọc lấy và đưa
chúng ta về hạnh phúc đời sau, như các môn đệ của Người hôm nay đã được nếm thử
trên núi Biến hình. Vậy chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm thập giá. Hãy sống cuộc
đời không lấy bụng làm Chúa, nhưng biết nhìn xa hơn những điều dưới đất...
Giờ đây, trong Thánh Lễ chúng ta đang làm như thế. Chúng ta nhìn xa hơn
bánh rượu để thấy Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta nhìn xa hơn thánh giá để thấy
hy vọng phục sinh. Ðồng thời chúng ta cũng nhìn nhau xa hơn những nét bên ngoài
để thấy anh em là chi thể của nhau trong Ðức Giêsu Kitô. Như thế không còn cho
phép ta sống theo xác thịt nữa, nhưng như đã lột xác, đợi ngày biến hình thật sự
với ngày Chúa trở lại trong vinh quang mà lễ Chúa Biến hình hôm nay đã báo trước.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật II Mùa Chay, Năm C
Bài đọc: Gen 15:5-12, 17-18; Phi 3:17-4:1; Lk 9:28b-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm hy vọng vào những gì Thiên
Chúa hứa
Con người sống và hoạt động là nhờ
niềm hy vọng, chẳng hạn: học sinh đi học vì hy vọng có ngày ra trường; nhà nông
cầy bừa vì hy vọng có ngày gặt hái mùa màng; lực sĩ thế vận hội luyện tập vì hy
vọng có ngày đứng trên bục nhận huy chương vàng; người tín hữu giữ đạo vì hy vọng
sẽ được chung sống với Thiên Chúa trong cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hy vọng rất
cần thiết cho con người, vì nếu không có hy vọng, con người sẽ không có nghị lực
để sống, để tiến tới, và nhất là để vượt qua các đau khổ trong cuộc đời. Khi hy
vọng, con người cần biết tính chắc chắn của điều mình hy vọng và khả năng của
mình có thể đạt tới; chứ không phải là hy vọng hão huyền hay hy vọng những điều
không thể đạt được.
Các Bài Đọc trong Chủ Nhật II Mùa
Chay nêu bật niềm hy vọng của các tín hữu vào những gì Thiên Chúa hứa và sự chắc
chắn của những gì Thiên Chúa hứa trong lịch sử. Trong Bài Đọc I, tổ phụ Abram
được Thiên Chúa hứa sẽ ban cho một dòng dõi đông như sao trên trời và một Đất Hứa.
Lời hứa này được ký kết bằng giao ước với xác thú vật bị xẻ đôi. Trong Bài Đọc
II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy vững lòng trông cậy nơi Đức Kitô, Đấng
có quyền năng biến đổi thân xác hèn hạ của con người nên giống thân thể sáng
láng của Người ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đem ba môn đệ lên núi, cho
các ông xem thần tính của Người, và nghe chứng từ của Chúa Cha; để các ông có
thể vững lòng đối phó với Cuộc Thương Khó sắp xảy đến cho Người tại Jerusalem.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa hứa ban một dòng dõi và Đất Hứa cho tổ phụ Abraham.
1.1/ Lời hứa của Thiên Chúa: Có hai điều Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abram.
(1) Ban một dòng dõi: Người đưa
ông ra ngoài trời và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao,
xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế
đó!" Đây là một thử thách cho niềm tin của Abram, vì ông chỉ có hai người
con: một người con với Sarah là Isaac, một với nữ tỳ của Sarah là Ismael; làm
sao ông có thể có một dòng dõi đông như sao trên trời được? Nhưng “ông tin Đức
Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.”
Lời Hứa này không được hiện thực
khi Abram còn sống; nhưng cho đến nay hơn nửa dân số điạ cầu chính thức coi
mình là dòng dõi của Abram: Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo.
(2) Ban một Đất Hứa: Người lại
phán với ông: "Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Urs của người
Chaldean, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu... Ta ban cho dòng dõi ngươi đất
này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Euphrate.” Điều này cũng không được
thực hiện khi Abram còn sống, nhưng được thực hiện khi Thiên Chúa đưa dân
Do-thái ra khỏi Ai-cập và đưa họ vào sở hữu vùng Đất Hứa chảy sữa và mật.
1.2/ Giao ước Thiên Chúa ký kết để bảo
đảm Lời Hứa. Abram thưa: "Lạy Đức Chúa,
làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?" Để đáp câu hỏi của
Abram, Người phán với ông: "Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con
dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non."
Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện
với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ.
Theo truyền thống Do-thái (x/c
Jer 31:18), giao ước được ký kết bằng cách phân thây súc vật. Nếu bên nào không
chịu giữ lời cam kết, bên đó sẽ bị phân thây làm hai như xác thú vật, và làm mồi
cho các mãnh cầm. Khi ông đã chuẩn bị xong thì “mãnh cầm sà xuống trên các con
vật bị giết, nhưng ông Abram đuổi chúng đi.” Các nhà chú giải cho mãnh cầm là
biểu tượng của những cám dỗ sẽ tới từ phiá Abram, để ông không tin vào những gì
Thiên Chúa hứa. Mãnh cầm bị xua đuổi đi vì đức tin của Abram. Những hiện tượng
lạ xảy ra cho Abram nói lên sự nghiêm trọng của giao ước. Hiện tượng “một ngọn
đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi” là biểu sự hiện diện của
Thiên Chúa (x/c Exo 3:2; 13:21; 19:18). Giao ước được ký kết là hoàn toàn do từ
phía Thiên Chúa; đó là lý do chỉ có Thiên Chúa đi qua các lễ vật.
2/ Bài đọc II: Chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng
ta.
2.1/ Hai loại người trong cuộc đời: Thánh Phaolô nhận định có hai loại người chính trong cuộc đời:
(1) Người không có niềm hy vọng
nơi cuộc sống đời sau: Những người sống đối nghịch với thập giá của Đức Kitô là
những người Do-thái không tin Ngài được Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho con
người bằng cái chết trên thập giá. Những người “thờ cái bụng” là những người
theo chủ thuyết hưởng lạc, bằng lòng với những gì thế gian dâng tặng. Họ chỉ biết
có cuộc sống hiện tại, nên họ sẽ dành mọi nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu của
thân xác. “Cái đáng hổ thẹn” có lẽ muốn ám chỉ việc cắt bì mà những người
Do-thái lấy làm hãnh diện.
2) Người đặt niềm hy vọng vào cuộc
sống mai sau: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng
lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc
phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng
ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” Đối với các tín hữu, tuy họ vẫn sống
đời này, nhưng với con mắt luôn hướng về đích điểm là cuộc sống mai sau. Hy vọng
của người tín hữu được bảo đảm bằng máu của Đức Kitô đã đổ ra để rửa sạch tội lỗi
cho con người; và Ngài đã phục sinh vinh hiển về trời để chuẩn bị cuộc sống
tương lai cho các tín hữu.
2.2/ Hãy sống như có niềm hy vọng
vào cuộc sống mai sau: Thánh Phaolô khuyên các tín hữu
hãy bắt chước ngài và những ai đang “quên đi tất cả những gì đàng sau để lao
mình về phía đích điểm, vượt qua tất cả để lãnh triều thiên vinh hiển mà Đức
Kitô đang sẵn sàng trao cho họ như phần thưởng của một lực sĩ chiến thắng (Phi
3:13-14). Phaolô vừa muốn nhắc lại những gì Đức Kitô đã hứa, vừa muốn chứng
minh ngài là nhân chứng sống động cho niềm tin vào cuộc sống mai sau.
Nếu người tín hữu đã tin có cuộc
sống mai sau, họ phải biểu lộ niềm tin này trong cuộc sống bằng cách tin và thực
hành tất cả những gì Đức Kitô truyền dạy; chứ không thể sống như những người
không tin vào Đức Kitô và không tin có sự sống đời sau.
3/ Phúc Âm: Các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng
bên Người.
3.1/ Cuộc biến hình của Chúa Giêsu: Trình thuật của Lucas hôm nay muốn liên kết với trình thuật khi
Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa và Chúa Giêsu tiên báo
Cuộc Thương Khó sắp xảy ra tại Jerusalem của Ngài (Lk 9:18-22), qua việc đề cập
đến “tám ngày sau.” Mục đích của Chúa Giêsu khi đem theo Phêrô, Gioan và
Giacôbê lên núi cầu nguyện là để cho các tông đồ chứng kiến thần tính thực sự của
Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở
nên trắng tinh chói loà.”
Hai nhân vật hiện ra và đàm đạo với
Chúa Giêsu là ông Moses và ông Elijah. Điều này muốn nói cho các tông đồ biết
Chúa Giêsu vừa là gạch nối Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa vừa là đích điểm mà Lề
Luật (ông Moses) và Tiên Tri (ông Elijah) phải hướng về. Cuộc Thương Khó và Phục
Sinh sắp tới của Chúa Giêsu làm trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3.2/ Mục đích của cuộc biến hình: Chúa Giêsu nhìn thấy trước những gì sẽ xảy ra cho các tông đồ
khi các ông phải chứng kiến Cuộc Thương Khó, nên Ngài muốn cho các ông nhìn thấy
rõ vinh quang thực sự của Ngài. Chúa Giêsu hy vọng điều này sẽ giúp các ông có
sức mạnh vượt qua những sợ hãi và can đảm làm chứng cho Ngài.
Các tông đồ cũng được nghe chứng
từ của Thiên Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời: "Đây là Con Ta, người đã được
Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" Theo Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần
thứ hai Chúa Cha đã làm chứng cho Con của Ngài; lần đầu khi Chúa Giêsu chiụ
phép rửa tại sông Jordan (x/c Mt 3:17; Mk 1:11; Lk 3:22). Chúa Cha xác thực điều
mà Phêrô đã tuyên xưng và Ngài muốn các tông đồ vâng theo những gì Chúa Giêsu
truyền dạy.
Nhìn lại cả ba Bài Đọc, chúng ta
nhận ra những điều sau:
1.
Những gì Thiên Chúa hứa vượt quá
trí khôn con người có thể hiểu. Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người sẽ
không bao giờ thấu hiểu được.
2.
Tổ phụ Abram, thánh Phaolô, và
các Tông-đồ đã phải vật lộn với bao nhiêu cám dỗ và thử thách để vững bền trông
cậy vào Lời Hứa của Thiên Chúa.
3.
Những gì Thiên Chúa hứa sẽ luôn
thành tựu. Khi nào thành tựu, con người không biết trước được, vì Thiên Chúa
không lệ thuộc vào thời gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không giống như con người hay thay đổi và vi phạm lời hứa; khi
Thiên Chúa đã hứa điều gì, Ngài sẽ trung thành thực hiện lời đã hứa. Chúng ta
phải đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Lời Hứa của Thiên Chúa.
- Những gì Thiên Chúa hứa với các
tổ phụ được thực hiện và làm trọn hảo nơi Đức Kitô, Người Con yêu dấu, qua Cuộc
Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh vinh hiển của Ngài.
- Niềm hy vọng vào cuộc sống đời
sau phải là đích điểm giúp chúng ta dựa vào đó để làm những quyết định khôn
ngoan và vượt qua mọi gian khổ ở đời này. Hy vọng này không chỉ giúp chúng ta ở
đời sau; nhưng còn giúp chúng ta có nghị lực sống vui vẻ, hạnh phúc ngay từ đời
này.
- Gian nan thử thách cần thiết để
chúng ta chứng tỏ đức tin và tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
17/03/2019
CHÚA NHẬT TUẦN 2 MC – C
Lc 9,28b-36
Lc 9,28b-36
HIỂN DUNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Đang lúc Chúa Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi
khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29)
Suy niệm: Kinh nghiệm về cuộc hiển dung của Chúa Giê-su không dành cho mọi người.
Ba môn đệ yêu dấu của Ngài cũng đã “choáng” trước kinh nghiệm đó: họ tưởng rằng
vinh quang choáng ngợp ấy chỉ xảy ra trên đỉnh núi cách xa cõi đời ô trọc ở dưới
kia. Khi “lôi” các ông trở lại với thực tại đời thường Chúa Giê-su mạc khải cho
các ông biết hai điều: 1. Vinh quang của một vị Thiên Chúa được ẩn dấu trong
con người Giê-su Na-gia-rét sống cuộc đời bình dị như mọi người; 2. Mầu nhiệm ấy
chỉ có thể tỏ hiện khi bức màn che khuất vinh quang đó bị xé tung nghĩa là khi
con người Giê-su ấy phải chịu tan nát tấm thân trên thập giá để rồi ngày thứ ba
sống lại.
Mời Bạn: Những ai đi xa Việt Nam một thời gian ngắn thôi khi trở về cũng đều
kinh ngạc về sự phát triển rầm rộ và nhanh chóng của đất nước. Thế nhưng, cùng
với sự biến đổi đó, cũng lộ diện lối sống hưởng thụ ích kỷ, con đẻ của não trạng
duy vật thực dụng. Thách đố cho người Ki-tô hữu ngày nay trong việc thánh hóa
trần gian chính là biến đổi mình bằng thập giá của Đức Ki-tô để cho vinh quang
Thiên Chúa được tỏ hiện ngay giữa đời thường này.
Sống Lời Chúa: Mời bạn áp dụng lộ trình này của Đức Ki-tô vào đời sống: lên
núi gặp gỡ Ngài qua việc cầu nguyện để được biến đổi; và rồi xuống
núi bằng việc dấn thân phục vụ để biến đổi thế giới.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin cho con không quản ngại dấn thân phục vụ để mọi người nhận ra sự hiện
diện của Chúa nơi các Ki-tô hữu chúng con. (Thư Mục Vụ 2006 của HĐGMVN)
(5 phút Lời Chúa)
KHUÔN MẶT NGÀI BIẾN ĐỔI
Chúng ta dễ lãng quên
việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa. Thế giới hôm
nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng...
Suy niệm:
Khuôn mặt phản ánh đời
sống nội tâm của con người.
Ai cũng muốn mình có
khuôn mặt dễ mến.
Người ta bỏ ra nhiều
tiền để sửa sang lại khuôn mặt,
vì họ muốn người khác
đổi cái nhìn về họ.
Bài Tin Mừng hôm nay mời
chúng ta chiêm ngắm
khuôn mặt ngời sáng của
Chúa Giêsu trên núi cao.
Chỉ mình thánh Luca
nói rõ chi tiết này:
“Ðang khi Người cầu
nguyện, thì khuôn mặt Người biến đổi”.
Gần đèn thì sáng.
Gặp gỡ Thiên Chúa làm
biến đổi nội tâm con người,
thậm chí làm biến đổi
thân xác, biến đổi khuôn mặt,
và cả những gì con người
sử dụng cũng bừng tỏa:
“y phục Người nên
trắng ngời như chớp sáng”.
Trong mùa Chay, chúng
ta muốn biến đổi cuộc sống mình,
chúng ta muốn mang bộ mặt mới.
Chúng ta đã làm nhiều
điều, trừ một điều quan trọng,
đó là lên núi cao để gặp
gỡ Thiên Chúa.
Núi cao ở ngay trong
sâu thẳm lòng ta,
nơi đây ta gặp gỡ Người,
diện đối diện.
Mọi biến đổi nơi cá
nhân cũng như tập thể,
nơi gia đình, giáo xứ,
dòng tu và cả Giáo Hội
đều phải khởi đi từ việc
tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng ta dễ lãng quên
việc gặp Chúa mỗi ngày,
lấy cớ mình bận làm những
việc của Chúa.
Thế giới hôm nay đói
những người cầu nguyện,
và thừa ứ những người
lăng xăng...
Ba môn đệ thân tín
cũng đâu có cầu nguyện.
Họ ngủ li bì.
Sau này ở núi Cây Dầu,
họ cũng say ngủ.
Thế nên họ chẳng biến
đổi gì.
Dù họ chợt tỉnh và thấy
khuôn mặt ngời sáng của Chúa,
điều đó chỉ đem lại
cho họ chút hưng phấn chóng qua,
nhưng không cho họ sức
để trung thành theo Chúa.
Họ mơ ước dựng lều ở
ngọn núi thánh này,
vì họ thích ngắm khuôn
mặt rực sáng của Ðức Giêsu.
Nhưng họ không có can
đảm ở lại Núi Sọ,
để chiêm ngưỡng khuôn
mặt đầy thương tích của Thầy.
“Hãy vâng nghe lời
Người”:
một lời nhắc nhở hiếm
hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn có nghe thấy lời
nào của Ðức Giêsu
vang vọng nơi lòng bạn
trong mùa Chay không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ
từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG BA
Quí Hơn Vàng!
Trong Mùa Chay, chúng
ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta khảo sát
lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã chúng ta hoán cải và
giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta tuân giữ luật luân lý
của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải có nghĩa là đoạn tuyệt
với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định trở về vâng phục
Thiên Chúa và thực thi điều tốt.
Chúng ta biết rằng Đức
Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã trao cho dân Ngài
tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới răn đó. Người
xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền tảng của cuộc
giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.
Đó là lý do vì sao phụng
vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là
hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng… Quyết định
Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y
muôn lượng” (Tv 19,8-11).
Mùa Chay là lúc để ta
quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập Giới, chúng ta bắt
đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ trong đời ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Hạnh Các Thánh
Ngày 17 Tháng 3
Thánh Patrick
(389?-461?)
Truyền thuyết về
Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của
ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ
cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của
Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất
cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.
Chi tiết về đời
ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là
ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là
người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.
Khoảng 14 tuổi,
chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc
Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là
đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của
dân tộc đang bắt giữ ngài.
Sáu năm sau,
Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia
đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học
làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.
Sau đó, khi 43
tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như "mọi
trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay" đến ngài. Ngài hiểu
thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái
Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng
ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất
nhiều người.
Ngài tấn phong
nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng,
thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.
Ngài chịu đau khổ
vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan
vì đường lối truyền giáo của ngài.
Trong 40 năm rao
giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình
yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây
dựng nhà thờ đầu tiên.
Lời Bàn
Ðiểm đặc biệt của
Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái
Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao
nhọc và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát
triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của
một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ.
Lời Trích
"Ðức Kitô che
chở tôi hôm nay: Ðức Kitô ở với tôi, Ðức Kitô ở trước tôi, Ðức Kitô ở sau tôi,
Ðức Kitô ở trong tôi, Ðức Kitô ở dưới tôi, Ðức Kitô ở trên tôi, Ðức Kitô ở bên
phải tôi, Ðức Kitô ở bên trái tôi, Ðức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Ðức Kitô ở
với tôi khi thức dậy, Ðức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Ðức
Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Ðức Kitô ở trong tai những ai khi
nghe lời tôi" (trích từ ca vịnh của Thánh Patrick).
(nguoitinhuu.com)
17 Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ
Ngày xưa có một người cha có ba đứa
con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và cần kiệm,
nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới
chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con nào thông minh
nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến
giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể
lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.
Ba đứa con vâng lời cha cầm tiền
ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một công việc dễ dàng. Anh ta ra tới
chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ
lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao
lông vịt rất đẹp mắt.
Còn người con trai thứ ba, suy
nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này, để có thể
lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt chàng thanh
niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường nhỏ gần chợ, anh ta
mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai anh
mình đã mua được cái gì.
Ngày hôm sau, cả ba người con
trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của mình cho
cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá lớn,
rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai mang lông vịt ra, nhưng
cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ thất vọng. Bấy giờ người
con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. hai người em tò
mò chăm chú nhìn em, và hỏi: "Mày không mua cái gì sao?". Bấy giờ đứa
em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm. Thoáng một cái, căn
phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà
tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình
cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình
và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.
Ðứng trước khó khăn thử thách, để
kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường nói với
nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét