01/09/2019
Chúa Nhật 22 Thường Niên năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 22 Thường niên năm C
Hc
3,17-18.20.28-29; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14
CHÚA GIÊSU KITÔ – MẪU GƯƠNG KHIÊM HẠ
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11)
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Được trích từ bộ sưu tập
các châm ngôn trong sách Huấn Ca, bài đọc 1 hôm nay là những lời khuyên nhủ con
người không được kiêu ngạo, nhưng phải biết khiêm tốn trong cuộc sống thường
ngày. Đây không chỉ đơn thuần là quy tắc sống luân lý, nhưng còn mang động cơ
và chiều kích tôn giáo: khiêm hạ là làm đẹp lòng Thiên Chúa; khiêm hạ là tôn
vinh Người.
2. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a)
“Chớ từ chối không
nghe Đấng phán dạy” (c.25). Câu khuyến dụ này không nằm trong đoạn trích hôm
nay, nhưng nó đi liền theo sau và làm nổi bật ý nghĩa của đoạn văn. Thật ra,
đây là những lời kêu gọi lòng trung tín của những người đang lo lắng về những
cuộc bách hại và họ có nguy cơ muốn quay về lối sống xưa cũ của Do Thái giáo.
Vì thế, lá thư đã làm cuộc so sánh giữa Giao Ước cũ với Giao Ước mới. Những dấu
chỉ của Giao Ước cũ có tính cách “trần thế”, vật chất như: lửa, mây mù, bóng tối
và giông tố. Những dấu chỉ này không gì khác hơn là làm sợ hãi những người con
dân Israel, đến nỗi họ phải van xin “đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa”(c.19).
Trái lại, những dấu chỉ
khởi đầu của Giao Ước mới hoàn toàn trái ngược. Thực tại “thế trần” nhường chỗ
cho thánh thiêng, Sion trở thành Giêrusalem thiên quốc, là thành đô của Thiên
Chúa hằng sống, nơi chúng ta cùng kết hiệp với các thiên thần và các thánh mà
ca tụng Thiên Chúa.
Cuối cùng, trong tất cả
mọi sự, Chúa Giêsu là trung tâm, là “Trung gian Giao Ước mới”, Đấng xét xử mọi
người trong cả hoàn vũ.
Bối cảnh của bức thư
giúp chúng ta hiểu rằng: mặc dù phải trải qua những cuộc bách hại khốc liệt,
nhưng chúng ta không được nhìn lại phía sau, và dính bén với những biểu tượng
và Giao Ước xưa cũ, vốn sẽ kết thúc nơi trần thế này. Trái lại, chúng ta phải
tiếp tục lắng nghe Đức Giêsu là Đấng dẫn đưa chúng ta về quê trời.
3. Bài Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Thoáng đọc qua, đoạn
trích có vẻ như là một bài huấn dụ khôn ngoan khi kêu gọi lối sống khiêm hạ,
không ngồi tức thì nơi chỗ tốt nhất… Thực tế, đằng sau lời khuyên đó là một quy
luật về Nước Thiên Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy qua nhiều cấp độ khác nhau:
- Tại nhà người
Pharisêu nơi Chúa Giêsu đang ngồi bàn là lời dạy liên quan đến cách hành xử của
Chúa Giêsu. Đây là một bài học đạo đức răn dạy về việc tìm kiếm thế danh.
- Tại các cộng đoàn
Kitô hữu: với họ, thánh Luca nhắc về lời dạy của Chúa Giêsu, nhằm khuyên các
Kitô hữu đừng ganh đua và khinh rẻ các Kitô hữu gốc ngoại giáo hay những người
nghèo khổ (xem thêm Cr 11,21-22).
- Với tất cả các Kitô
hữu: là bài học chung cho những ai biết vượt qua cách hành xử thông thường mà học
thấy cách hành xử của Chúa Giêsu, vì chính Người đã chọn chỗ rốt nhất và như thế,
không ai có thể lấy mất chỗ đó của Người. Đây là quy tắc căn bản của Tin Mừng
mà Đức Giêsu đã sống đến độ phải cúi xuống mà rửa chân cho các môn đệ.
Đây còn là một lời mời
gọi sống đức ái với người nghèo khổ và không lưu tâm đến việc mình làm được trả
ơn hay lấy tiếng. Đó cũng là tinh thần của Tám Mối Phúc.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Khiêm hạ là làm đẹp
lòng Thiên Chúa. Khiêm hạ là tôn vinh Người. Lời dạy từ sách Huấn Ca giúp tôi
hiểu trọn vẹn ý nghĩa của cách sống khiêm nhường. Và như thế, những lần tôi cao
ngạo không những tôi làm mất lòng anh em, mà còn cả đến Thiên Chúa, vì tất cả,
dù giàu sang hay nghèo hèn, đều là con cái Thiên Chúa. Vậy tôi có sẵn sàng là một
bài ca tán tụng Thiên Chúa bằng cuộc sống đơn sơ khiêm nhường của tôi?
2. Giao Ước mới giúp
con người cởi bỏ bản tính xưa cũ và hướng về những giá trị Nước Trời. Nhìn lại
đời sống mình, tôi thấy tôi đã được chi phối bởi những giá trị Nước Trời hay những
giá trị chóng qua của trần thế?
3. Hãy trở nên bé nhỏ
và làm ơn cho những kẻ bé nhỏ. Lời dạy Chúa Giêsu hôm nay tuy có vẻ đơn giản,
nhưng lại đụng chạm trực tiếp đến cách sống hảo danh vô bổ của người đời. Trong
đời sống đạo, có bao giờ lối sống này theo đuổi và bám chặt vào tôi, khi luôn
muốn mọi người chân nhận công trạng của mình, và đôi khi sự mong muốn này còn
nhắm đến cả Thiên Chúa?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Người đến trần gian nêu gương sống
khiêm nhường phục vụ, và mời gọi chúng ta noi theo để được hưởng hạnh phúc Nước
Trời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết cầu
xin.
1. Hội thánh được mời
gọi tiếp nối sứ mạng cứu thế của Chúa Kitô. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị mục
tử trong Hội Thánh, cách riêng Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các Giám mục của
chúng ta, luôn hăng say phục vụ Tin Mừng và sống hết mình vì phần rỗi mọi người.
2. “Ai hạ mình xuống sẽ
được tôn lên.” Chúng ta cùng cầu xin cho tất cả những ai đang giữ vai trò lãnh
đạo trong giáo hội cũng như xã hội, luôn khiêm tốn chân thành với mọi người,
không lạm dụng quyền lực, và biết đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi riêng
tư.
3. Tham vọng và ích kỷ
đã gây bao thương tích cho đời sống gia đình và xã hội. Chúng ta cùng cầu xin
cho những ai đang đau khổ vì sự ích kỷ của người khác, tìm được niềm vui và nguồn
an ủi nơi Chúa Giêsu Kitô là Đấng “hiền lành và khiêm nhường trong lòng.”
4. Khiêm nhường và bác
ái là phương thế hữu hiệu để người tín hữu nên trọn lành. Chúng ta cùng cầu xin
cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết trung thành thực thi Lời Chúa dạy:
chân thành yêu thương nhau và luôn tôn trọng phẩm giá của người khác.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Đấng quyền năng cao cả, xin đoái thương chúc lành cho những ý nguyện của
chúng con. Xin giúp chúng con luôn tích cực sống khiêm nhường bác ái như Đức
Giêsu Kitô, Con Chúa truyền dạy. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 22 TN C
Chủ đề :
Khuyến khích sống khiêm hạ
“Xin ông hãy
nhường chỗ” (Lc 14,9)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Những
châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.
– Đáp ca : Ca tụng
lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
– Tin Mừng : Chúa
Giêsu chỉ trích thói dành chỗ danh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ
danh giá đến dự tiệc của mình.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn
nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về
khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú
nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta đều mang
tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
– Vì ham danh vọng,
chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
– Chúng ta đối xử đặc
biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn ca này
gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn :
– Kẻ làm việc cách
khiêm tốn thì được người khác mến yêu
– Chính Thiên Chúa yêu
thương những kẻ khiêm tốn
– Kẻ kiêu căng khi lâm
cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2.
Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi
là Bài ca của kẻ nghèo hèn : Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành
cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3.
Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu
chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và
nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai
bài học :
a/ Bài học về việc chọn
chỗ ngồi (cc 7-11) : chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
– Không nên tự mình
tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm
giá của mình.
– Địa vị ấy, hãy để
cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
– Và tốt nhất là hãy để
chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống,
còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục
vụ vô vị lợi : bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc
mời khách dự tiệc :
– “Hãy mời những người
nghèo, người què, người cà thọt và người đui” : ba hạng người sau chỉ là
giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những
người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự
những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8 ; Lv 21,18).
– “Họ không có gì đáp
lễ“ : người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại,
do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách
khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng
không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công
cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ” : thể thụ
động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4.
Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái tiếp
tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái : khi họ bỏ Do thái giáo để theo
Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái
giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành
Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hai
bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để
dạy hai bài học : bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi
tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc :
– Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất
ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng “chủ tịch” nghĩa là làm chủ chiếc
chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi” là danh dự.
– Những người do thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ
danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có
thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự
mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi
vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
– Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” : Động từ “Bị hạ xuống”
ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa : không phải
người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy,
điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào.
Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các
anh Đavít/các anh Đức Maria v.v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc :
– Người do thái làm theo óc tính toán : do ut dat. Cái lợi là được người
ta đền đáp
– Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính
Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là
không, Chúa là tất cả
Một hôm Dương Chu sang
nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp,
một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người
thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp
việc.
Cậu bé tiết lộ :
– Người thiếp đẹp hay
kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp
của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với
mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học
trò đến dặn :
– Các con hãy ghi nhớ
lời này : Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng
được người yêu quí tôn trọng.
*
“Ai tôn mình lên sẽ
bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường
mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng
Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống
rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời
cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình
xuống như thế : không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi
báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là
để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế,
khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm
phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường
như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên
chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những
ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm
nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được
tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường
nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời,
nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết
bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những
công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những
bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ
em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương
vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt,
đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”,
vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu
nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn
lưu ý chúng ta rằng : dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không
thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó
là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực
thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì
trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban
vì yêu thương. Thánh Gioan viết : “Thiên Chúa yêu thương thế gian
đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô
vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên
Chúa.
*
Lạy Chúa, Chúa thương
những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà
thôi.
Xin Chúa dạy chúng con
biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán,
vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (TP)
* 3. Những
bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào
cũng có những bậc thang cao thấp : trong cơ quan, trong trường học, trong
hội đoàn v.v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản
lý v.v.
Ngay trong Giáo Hội
cũng thế : có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát
biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của
mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay
phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề : “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu,
và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót”. Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà
không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ
nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác ?
Sau đây là một số hoàn
cảnh chúng ta cần suy nghĩ :
– Cách chọn người đại
diện cho những thành phần tín hữu.
– Những hình thức ưu
tiên trong cộng đoàn.
– Cách đối xử với người
nghèo, người ít học và cả người “tội lỗi” v.v.
* 4. Đức
tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay
được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin : họ đã rời bỏ
Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm
giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo,
nhưng thực tế ngược hẳn lại ; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp
sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối
thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối
củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống
với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào :
những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với
những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời
sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ
có tội thì bị phạt v.v.
Thế rồi, khi họ đụng
chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn
hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này
là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin.
Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa
bé.
5.
Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người
ngồi
Một người chủ nhà kia
mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi
tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng
Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân
nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi
bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn
mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không
còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị
Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc :
“Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà !” Người chủ nhà nhanh trí đáp :
“Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng
hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này
là : không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự ; ngược lại
chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới
có giá trị
Nicholas là một người
nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người.
Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho
ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục
vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi :
– Những cục vàng kia để
làm gì thế ?
Thánh Phêrô giải
thích :
– Đó là phần thưởng
dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần
cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi
trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh
Phêrô nói tiếp :
– Tuy nhiên không phải
lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do
tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
– Sao vậy ?
– Đống vàng lớn tượng
trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có
giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của
mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói
xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô
lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn
lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải
thích :
– Những cục vàng bị lọt
xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực
sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy
trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các
lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và
sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống :
– Đây là những của người
ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên
cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan
thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh
những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống :
– Đây là những của người
ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập
tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư,
thánh Phêrô nói :
– Đây là những của người
ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị
sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại : “Thôi thôi, xin Ngài đừng
sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn
đáp :
– Đúng thế, những của
cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh
đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
– Tin vui gì ?
– Thiên Chúa là người
quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
– Nhưng mà hai bàn tay
của con rỗng không, con không có gì cả.
– Nghĩa là anh nghèo
chứ gì ! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối
với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần
đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn.
Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.
Chúa Giêsu
nói : / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi
gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
2.
Con người vốn có
rất nhiều tham vọng : / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực /
thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người /
nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
3.
Chúa ghét kẻ kiêu
căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu
hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách
xử sự của mình.
4.
Đức bác ái buộc
người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo
khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết
cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn
lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô
hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin
cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin
thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong
Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em
với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với
nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
– Sau kinh Lạy
Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là
thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi… Xin đoái thương cho những ngày chúng
con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị
em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì “ai nâng mình lên sẽ bị
hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, và nếu chúng ta giúp đỡ những người
không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu
cho chúng ta.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XXII Thường Niên (C)
Sunday 1 September,
2019
Dụ ngôn chỗ trên nhất
và chỗ rốt hết:
Vì hễ ai tự nâng
mình lên thì sẽ bị hạ xuống
Lc 14:1, 7-14
1. Lắng Nghe Lời Chúa
a) Lời
nguyện mở đầu:
Lạy Chúa, tất cả chúng con có một nỗi khao khát được lắng
nghe Chúa, và Chúa biết điều ấy, bởi vì chính Chúa đã tạo dựng nên chúng
con như thế. “Chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6:68).
Chúng con tin vào những Lời này, chúng con đang đói và khát cho những Lời này;
vì những Lời này, trong sự khiêm nhường và lòng yêu thương, chúng con cam nguyện
với tất cả lòng trung thành chúng con. “Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ
Chúa đang lắng nghe” (1Sm 3:9). Đây là lời cầu nguyện khẩn thiết của
Samuel là người không biết; trường hợp chúng con có phần khác, nhưng đó chính
là tiếng nói của Chúa, Lời của Chúa, mà đã thay đổi sự run sợ của lời cầu nguyện
cổ xưa thành niềm khao khát được hiệp thông của một người con nài van cha
nó: Xin cha hãy nói vì con cha đang lắng nghe.
b) Tin Mừng:
1 Khi ấy,
trong ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người Biệt Phái để dùng
bữa; và họ dò xét Người.
7 Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất,
nên nói với họ dụ ngôn này rằng: 8 “Khi có ai mời
ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi
cũng được mời dự tiệc với ngươi, 9 và chủ tiệc đã mời
ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này.’
Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. 10 Nhưng
khi ngươi được mời, hãy đi vào chỗ ngồi rốt hết, để khi người mời ngươi đến,
nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên.’ Bấy giờ ngươi
sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. 11 Vì
hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc
lên.’ 12 Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng:
“Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng
giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. 13 Nhưng
khi làm việc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; 14 ông
sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những
người công chính sống lại.”
c)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để được thấm nhuần Lời
của Chúa Kitô và để Lời Chúa trở nên xác phàm, là Đức Kitô, có thể ngự trị
trong lòng chúng ta và để chúng ta có thể tuân giữ các Lời ấy, thật là cần thiết
rằng có sự lắng nghe và im lặng sâu sắc.
2. Lời Chúa được soi sáng (Lectio)
a) Bối cảnh:
Dụ ngôn về sự chọn chỗ
được kể lại, trong một ngày thứ bảy khi Chúa Giêsu đã đến thành Giêrusalem, nơi
Mầu Nhiệm Vượt Qua sẽ được hoàn tất, nơi Nhiệm Tích Thánh Thể của Giao Ước Mới
sẽ được cử hành, mà sau đó là cuộc gặp gỡ với Đấng hằng sống và sự ủy thác sứ vụ
vào các môn đệ do đó nối tiếp sứ vụ lịch sử của Đức Giêsu. Ánh sáng của Lễ
Vượt Qua làm cho tất cả những ai được gọi để đại diện Người như là người tôi tớ, phục
vụ (diakonos), trong cộng đoàn, trong các cuộc tập họp quây quần bên bàn
ăn, để xem thấy con đường mà Chúa sẽ đi qua. Đó là chủ đề
của các khách mời tại bàn tiệc hoặc sống vui vẻ cùng nhau của thánh Luca.
Chúa Giêsu đã nhận ra thực tế đẹp đẽ nhất, được công bố và giảng dạy tại bàn tiệc
trong một khung cảnh hòa đồng vui vẻ.
Trong chương 14, thánh
Luca, với nghệ thuật một người kể chuyện có khả năng của ông, vẽ nên một bức
tranh, trong đó ông đã chồng hai hình ảnh lên nhau: Đức Giêsu tại bàn ăn
xác định khuôn mặt của cộng đồng mới, được mời đến chung quanh bàn tiệc Thánh
Thể. Trang này được phân chia thành hai cảnh: cảnh thứ nhất, lời mời ăn tối
tại nhà một thủ lãnh các người Biệt Phái, vào một ngày lễ, ngày thứ bảy (Lc
14:15-16), mà cũng là mối quan tâm đến vấn đề của các khách mời: ai sẽ tham gia
vào bàn tiệc trên nước Trời? Điều này chuẩn bị bắt đầu ngay từ bây giờ
trong mối quan hệ với Chúa Giêsu, Đấng mời gọi những kẻ chung quanh Người gia
nhập vào trong cộng đoàn-Giáo Hội.
b) Lời chú giải:
– Thứ
bảy, một ngày lễ và ngày giải thoát
Đây là đoạn trong Tin
Mừng theo thánh Luca: “Trong ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào nhà một
thủ lãnh các người Biệt Phái để dùng bữa; và họ dò xét Người” (Lc
14:1). Trong một ngày lễ, Chúa Giêsu được mời bởi một người là kẻ chịu
trách nhiệm về phong trào của các người tuân giữ lề luật hoặc người Biệt
Phái. Chúa Giêsu đang ngồi tại bàn ăn. Cảnh thứ nhất diễn ra trong
bối cảnh này: việc chữa lành một người đàn ông bị bệnh phù thủng đã bị cản trở
bởi sự tàn phế thân thể nên không thể ngồi dự tiệc. Những người bị bệnh
trong thân thể thì bị gạt bỏ ra khỏi cộng đoàn bởi những người biệt phái theo lề
luật Qumran. Bữa ăn trong ngày Thứ Bảy mang đặc tính ngày lễ hội và
thiêng liêng cách đặc biệt đối với người tuân thủ theo Lề Luật. Thực ra,
vào ngày Thứ Bảy, có sự tưởng nhớ hàng tuần của việc rời bỏ đất Ai Cập và sự
tao dựng trời đất. Chúa Giêsu, một cách chính xác vào ngày Thứ Bảy đã đem
lại sự tự do và việc tái hội nhập xã hội với đầy đủ sức khỏe cho người bị bệnh
phù thủng.
Vì thế, Chúa đã dùng
những lời sau đây để chứng minh cho việc làm của mình trước các giảng viên và
các người biệt phái: “Trong số các ông ở đây nếu có con lừa hoặc
con bò của mình bị rơi xuống giếng mà không kéo nó lên dù rằng trong ngày
Sabbát không?” Thiên Chúa quan tâm đến loài người và không
phải chỉ vì của cải hoặc các tài sản của người ta. Ngày Thứ Bảy không chỉ
là ngày phải tuân giữ các lề luật về sự nghỉ ngơi thiêng liêng bên ngoài, mà đó
còn là ngày có ích lợi cho con người. Với mối quan tâm hướng về loài người,
nó cũng được ban cho chiếc chìa khóa để định nghĩa các tiêu chuẩn cho việc hội
họp trong cộng đoàn này được biểu tượng là bàn tiệc: Làm cách nào để chọn
vị trí chỗ ngồi? Ai được mời và ai tham gia cuối cùng tại Bàn Tiệc Nước Trời?
Cử chỉ của Chúa Giêsu là một chương trình: Thứ bảy là ngày tạo ra cho
loài người. Vào ngày Thứ Bảy, Chúa đã làm đúng theo ý nghĩa căn bản của
việc cử hành ngày kỷ niệm rời khỏi đất Ai-Cập và sự tạo dựng trời đất.
– Về việc
chọn chỗ ngồi và các khách mời
Các tiêu chuẩn để chọn
vị trí chỗ ngồi không dựa trên địa vị, chức tước, hoặc danh tiếng, mà được đặt
để bởi việc làm của Thiên Chúa khuyến khích những người sau rốt, “bởi
vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc
14:11). Nguyên tắc này kết thúc bài dụ ngôn về các nghi lễ mới, đã làm đảo
ngược các tiêu chuẩn đã có của thế gian, nói về việc làm của Thiên Chúa qua
hình thức thụ động “sẽ được nhắc lên”. Thiên Chúa cất nhắc những
người bé nhỏ và nghèo hèn như Chúa Giêsu đã làm cho người đàn ông bị bệnh phù
thủng, là người đã bị gạt bỏ ra ngoài, đem người ấy đến bàn tiệc và cùng ngồi
ăn với ông ta trong ngày lễ Sabbát.
Sau đó chúng ta có
tiêu chuẩn cho việc chọn lựa những khách mời. Tiêu chuẩn của việc giới
thiệu và sự quen biết trong cùng giai cấp đã bị loại bỏ: “Đừng
mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có…” “Ngược lại, khi ngươi
có một bữa tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, và đui mù…” (Lc
14:12-13).
Danh sách bắt đầu với
những người nghèo khó, những người mà trong sách Tin Mừng Luca là những người
thừa hưởng các Mối Phúc Thật: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó,
vì nước Trời là của họ”. Trong danh sách những khách mời, những người
nghèo khó được đề cập đến như là những người bị tật phế về thể chất, người tàn
tật, bị loại trừ ra khỏi tình bạn bè của các người Biệt Phái và khỏi các cuộc tế
lễ (2Sm 5:8; Lv 21:18).
Danh sách này cũng được
tìm thấy trong dụ ngôn về buổi tiệc lớn: kẻ nghèo khó, người tàn tật, kẻ mù
lòa, què quặt được đặt vào chỗ những người khách quý (Lc 14:21).
Dụ ngôn thứ hai về
tiêu chuẩn chọn lựa khách mời được loan báo với lời công bố này: “Ông
sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những
người công chính sống lại” (Lc 14:14), vào lúc tận thế Thiên Chúa sẽ
chứng tỏ quyền tối cao của mình bằng cách chia sẻ sự sống đời đời. Tại thời
điểm này có một thành ngữ nói về những khách mời như một món quà lưu niệm giữa
hai dụ ngôn nhỏ và dụ ngôn buổi tiệc lớn: “Phúc thay ai được dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa!” (Lc 14:15). Lời này nhắc nhớ lại những mối
Phúc Thật của Nước Trời và điều kiện để gia nhập vào nước này qua hình ảnh của
bữa tiệc, “ăn bánh”, giới thiệu trong dụ ngôn nói trước đó về bữa
tiệc lớn trong ý nghĩa ngày tận thế. Nhưng bữa tiệc cuối cùng này, là Nước
Thiên Chúa và sự hiệp thông toàn vẹn với Người, được chuẩn bị từ lúc này bằng
cách ngồi chung và ăn cùng một bàn. Chúa Giêsu thuật lại dụ ngôn này để
giải thích việc tập họp mọi người với việc công bố Nước Thiên Chúa và qua các
hành động mang tính cách lịch sử của Người.
3. Suy Gẫm Lời Chúa
a) Khi Chúa Giêsu ở trong nhà người Biệt Phái đã mời
Người đến dùng bữa, Chúa quan sát cách mà những người được mời cố để có những
chỗ ngồi trên nhất. Đó là một thái độ rất phổ biến trong cuộc sống, không
những chỉ khi người ta tại bàn tiệc: mỗi người cũng cố để có được chỗ trước nhất
về sự quan tâm và kính trọng từ những người khác. Tất cả mọi người, bắt đầu
từ chính mình, chúng ta đều có kinh nghiệm này. Nhưng chúng ta hãy chú ý,
Lời của Chúa Giêsu khuyên nhủ tránh không chọn chỗ trên nhất không chỉ đơn giản
là một lời dạy bảo giáo dục xuông; đó còn là một quy luật trong cuộc sống.
Đức Giêsu minh xác rằng chính Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta nhân phẩm
và danh dự; chúng ta không thể tự ban phát nó cho mình, hay tự cho đó là các
giá trị riêng của chúng ta. Như Người đã nói trong bài giảng các Mối Phúc
Thật, Đức Giêsu đảo ngược sự xét đoán và cách cư xử của thế gian này. Ai
tự thú nhận mình là kẻ tội lỗi và khiêm hạ thì được nhắc lên bởi Thiên Chúa;
nhưng, những ai có dự định để được mọi người thừa nhận và chọn chỗ nhất thì có
nguy cơ bị loại trừ khỏi bữa tiệc này.
b) “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng
ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi
… Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết” (Lc
14:8-9). Dường như Chúa Giêsu muốn bông đùa về nỗ lực trẻ con của các người
khách đã cố gắng dành cho được những chỗ tốt nhất; nhưng ý định của Người có một
mục đích nghiêm trọng hơn. Nói với các thủ lãnh của người Do-thái, Chúa
đã cho thấy quyền năng nào đã tạo dựng nên mối quan hệ với Nước Trời: “Ai
tự nhắc mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Lc
14:11). Chúa nói cho họ biết “lối xử dụng quyền lực đúng đắn” được tìm thấy
trong sự khiêm nhu. Nó cũng là sức mạnh mà Thiên Chúa đã ban phát cho
nhân loại trong việc Nhập Thể: “Vì vâng theo thánh ý của Chúa Cha, để
toàn thể nhân loại được cứu rỗi, Đức Kitô đã không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế; Người lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2:6-8).
Việc hoàn toàn trút bỏ vinh quang của Con Thiên Chúa có khả năng chữa
lành, hòa giải và giải thoát mọi tạo vật. Sự khiêm tốn chính là động lực
xây dựng Nước Trời và cộng đoàn các môn đệ, là Giáo Hội.
4. Cầu Nguyện – Thánh Vịnh 23
Bài Thánh Vịnh dường như xoay quanh một tiêu đề:
“Chúa là Đấng chăn nuôi tôi”. Các Thánh là hình ảnh của một đoàn chiên
trên đường: họ được chăn dắt bởi sự tốt lành và lòng trung tín của Thiên Chúa,
cho đến lúc họ cuối cùng đã tiến vào nhà Chúa Cha (L. Alonso Schokel, Các Thánh Vịnh của lòng tín
thác, Sách Dehoniana, Bologna, 2006, 54).
CHÚA là mục tử chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng
âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa
tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình
thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Lời nguyện kết:
“Lạy Chúa, con xin cảm
tạ về ánh sáng Chúa đã đổ tràn trên con, ánh sáng tràn ngập đời con với niềm
xác tín rằng con là kẻ tội lỗi. Con đã hiểu cặn kẽ hơn rằng Đức Giêsu,
Con Một Chúa, là Đấng Cứu Chuộc con.
Ý chí con, tâm hồn
con, tất cả thể xác con xin trao trọn nơi Chúa. Nguyện xin tình yêu của Đấng
Toàn Năng chinh phục con, Ôi lạy Chúa! Xin hãy đánh đổ sự phản kháng thường
xuyên làm cho con nổi loạn, nỗi luyến tiếc đã thúc đẩy con trở nên biếng nhác;
nguyện xin Tình Yêu Chúa chinh phục được tất cả để con có thể là một giải thưởng
hạnh phúc cho sự chiến thắng vinh quang của Chúa.
Niềm hy vọng của con
nương tựa vào lòng trung tín của Chúa. Cho dù con có phải lớn lên trong
những cơn lốc xoáy của nền văn minh, con đã biến đổi thành một bông hoa và người
gác cổng của Chúa trong mùa Xuân đã được nở rộ, đâm chồi nảy lộc từ Máu Con
Thiên Chúa. Xin Chúa nhìn vào mỗi người chúng con, Chúa chăm sóc chúng
con, Chúa bảo vệ chúng con; Lạy Chúa, Đấng vun xới mùa Xuân của Cuộc Sống Đời Đời:
Lạy Chúa, là Cha của Đức Giêsu, và là Cha của chúng con; lạy Cha của con!”
(ĐHY Anastasio Ballestrero)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét