13/10/2019
Chúa Nhật 28 Thường
Niên năm C.
(phần I)
Bài Ðọc I: 2 V 5, 14-17
"Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng
Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy
lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại
trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi,
ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có
Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi
xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông".
Tiên tri trả lời rằng: "Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt
Người: Thật tôi không dám nhận đâu". Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri
không nghe. Naaman nói thêm rằng: "Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép
cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì
từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ
cho thần minh nào khác".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ
của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều
huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay
thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức
công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
- Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tm 2,
8-13
"Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Ðức
Kitô".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít, đã từ
cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải
đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa
đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn,
để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống
với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người.
Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta
không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình
Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình
an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại
bang này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và
Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở
đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng
tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với
các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn
họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa,
rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người
xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được
lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên
Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi
hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
“Lòng biết ơn là trí
nhớ của trái tim.” Chúng ta cảm thấy sốc khi đọc thấy rằng chỉ một người trong
mười người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành quay lại để “cảm ơn” Người. Biết
ơn không chỉ là một bổn phận xã hội mà chúng ta chia sẻ, nhưng còn là một cách
diễn tả nội tâm chúng ta để nó cũng trở thành một hành vi thiêng liêng.
Câu chuyện của Tin Mừng
về việc chữa lành mười người phong cùi có thể đã được mô phỏng theo câu chuyện
của Cựu Ước về việc ông Naaman được chữa lành. Naaman, tướng chỉ huy quân đội
Syria, là một nhân vật cao sang, một cố vấn tin cậy của nhà vua và một chiến
binh dũng cảm, nhưng ông bị bệnh phong cùi, căn bệnh đáng sợ nhất trong thế giới
cổ đại. Một cô gái Ítraen, tù nhân chiến tranh, đã giúp vị tướng lớn này tìm ra
cách chữa bệnh. Cô gái không được nêu tên nói với vợ tướng Naaman rằng ông sẽ
được chữa lành nếu đến gặp “vị ngôn sứ tại Samaria” (2 V 5:3). Trước hết,
Naa- man phải xin phép vua Aram, và vua đã cấp thư giới thiệu ông cho vua
Ítraen. Naaman mang theo một ít lễ vật cùng với thư giới thiệu của vua Aram rồi
đến gặp vua Ítraen. Nghĩ rằng vua Aram có ý khiêu khích mình, vua Ítraen nổi
cơn thịnh nộ xé áo ra. Nghe biết chuyện này, ngôn sứ Êlisa xin vua Ítraen truyền
cho Naaman đến với mình: “Bệ hạ cứ cho ông ta đến với thần, để ông ta biết rằng
có một ngôn sứ ở Ítraen” (2 V 5:8). Đích thân gặp mặt là điều kiện thiết yếu để
vị tướng này được chữa lành. Naaman cùng với một đoàn tùy tùng ấn tượng đến gặp
ngôn sứ Êlisa. Trên cương vị một ông tướng chỉ huy, Naaman chờ đợi một cuộc chữa
bệnh ngoạn mục từ phía ông Êlisa. Nhưng vị ngôn sứ thậm chí không ra gặp
Naaman, mà chỉ sai người ra nói cho Naaman biết phải làm gì: đến tắm bảy lần ở
sông Giođan (một dấu chỉ tiên tri về phép rửa của chúng ta). Một việc quá đơn
giản khiến Naaman không thể tin nổi. Không lẽ ông không cần đích thân gặp vị
ngôn sứ? Các con sông ở Đamát lại không tốt hơn các con sông ở đây hay sao? Bài
tường thuật gợi ý rằng một phần thì được chữa, còn phần khác thì được lãnh. Chữa
là phần thể xác; lành là phần tâm hồn. Naaman tuy tức giận nhưng vẫn làm theo.
Khi thấy mình được chữa lành, ông quay lại cám ơn ngôn sứ Êlia và dâng lễ vật để
tỏ lòng biết ơn. Đây là lúc mà cuối cùng ông được gặp Êlia diện đối diện.
Chữa lành toàn diện, hoán cải thực sự, là kết quả của việc ông vâng lời của vị
ngôn sứ, gặp vị ngôn sứ diện đối diện, và cũng là kết quả của nước bí tích của
sông Giođan. Đó là một cuộc gặp gỡ dẫn ông tới chỗ nhìn nhận Thiên Chúa của
Israel.
Trong bài Tin Mừng
này, Luca cho chúng ta gặp lại hình ảnh của người ngoại quốc khi chúng ta đi
theo Đức Giêsu trong hành trình của Người. Hành trình này có đích đến là
Giêrusalem địa lý, nhưng cùng đích hiện sinh là việc Người hiến dâng sự sống Người
trên thập giá, dấu chỉ của sự sẵn sàng vô hạn của Con đối với Cha và công trình
cứu độ phổ quát của Người. Đức Giêsu hướng tới Giêrusalem, “thành thánh”, nhưng
để đến được nơi ấy, Người đi qua các vùng đất mà người Do Thái cho là quá gần với
những người ngoại quốc (gọi là “Galilê của Dân Ngoại”) hay thậm chí là ô uế vì
là vùng đất cư ngụ của các dân lạc đạo (dân thành Samaria).
Chính trên con đường đầy
nguy hiểm này mà Đức Giêsu gặp nhóm người thuộc số những người bị gạt ra bên lề
xã hội nhất: người phong cùi (như Naaman người Syria). Phong cùi là một thứ bệnh
da liễu bị coi là một sự trừng phạt cho những kẻ tội lỗi (xem Vua uzziah trong
2 Sbn 26:20). Người ta tin rằng các bệnh nhân cùi không xứng đáng với việc
thờ phượng hay sống chung giữa cộng đồng, vì thế các nạn nhân này phải sống
cách ly với phần còn lại của xã hội (x. Lv 13:46). Người phong cùi bị loại trừ,
bị cưỡng bức đi vào sống tại những nơi hoang vắng, chỉ được sống chung với những
người cùi khác, và luôn luôn phải hô to lên mỗi khi họ đến gần các khu dân cư.
Họ cũng bị làm nhục vì phải mặc đồ rách rưới và phải trùm kín đầu.
Một nhóm mười người
phong cùi đến gặp Đức Giêsu. Họ lớn tiếng kêu xin Người cứu giúp, vì theo luật
họ phải đứng từ đàng xa. Họ chỉ có thể sử dụng giọng nói của họ để làm Đức
Giêsu chú ý tới: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (Lc 17:13). Khi
xưng Đức Giêsu là Thầy, họ nói với Người như các môn đệ thường nói với thầy
mình. Đức Giêsu nhìn thấy và chú ý đến họ, yêu cầu họ làm một hành động cụ thể:
“Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Tại Ítraen, các tư tế là những
người có thẩm quyền xác nhận một người có bệnh phong cùi hay đã được sạch khỏi
phong cùi (x. Lv 13:9-10; 14:2).
Khi đến gặp Đức Giêsu,
những người phong cùi đứng ở xa xa. Đó là vì họ phải giữ khoảng cách dựa theo
luật thanh sạch (x. Lv 13:45-46). Điều này cũng có thể cho chúng ta thấy rằng
những người bệnh tật này - giống như những người dân ngoại, bị coi là “những
người ở xa” (Cv 2:39) - bất chấp sự tủi hổ vì hoàn cảnh tật nguyền của
mình, sẽ nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa. Đây là một chi tiết để dạy chúng
ta rằng Thiên Chúa là Đấng đi bước trước và xoá bỏ những khoảng cách. Các người
phong cùi thưa với Đức Giêsu là “Thầy” thay vì “Chúa”, điều này có thể cho thấy
rằng đức tin của họ lúc này mới chỉ là sơ khởi. Họ xin Người dủ lòng thương xót
và họ vâng lời Người dạy, nhưng họ không nhận ra được ý nghĩa đích thực của việc
họ được chữa lành.
Luca nhấn mạnh sự kiện
Đức Giêsu “nhìn thấy” mười người phong cùi khi Người đáp lại tiếng kêu xin của
họ. Ở những chỗ khác trong Tin Mừng của ông, Luca cũng liên kết “nhìn thấy” với
“cứu thoát” (xem, chẳng hạn, Lc 13:12). Trong sự gặp gỡ sơ khởi này, việc chữa
lành không xảy ra ngay lập tức, như trong trường hợp của ông Naaman. Trung
thành với sách Luật, Đức Giêsu ra lệnh cho các người phong cùi đến trình diện với
các tư tế (x. Lc 17:14). Vì vậy, việc chữa lành thường bao gồm việc nghe lời của
Đức Giêsu, và như trong trường hợp của Naaman, cũng bao gồm việc tỏ lòng biết
ơn người chữa lành mình. Chín người phong cùi kia, mặc dù đã có ý tốt khi vâng
lời Đức Giêsu và được đặc ân gặp Người trực tiếp, nhưng họ không thể chấp nhận
sự mạo hiểm lớn nhất: quay trở lại với Đức Giêsu. Chỉ có một người quay trở lại,
mà lại là một người Samaria, đồng nghĩa với một “kẻ thù”. Nhưng khi “nhận
ra” (một số bản dịch là “thấy”) mình đã được chữa lành, anh liền quay trở lại gặp
Đức Giêsu (x. Lc 17:15). Theo Luca, “thấy” ở đây có nghĩa là đôi mắt đức tin của
người Samaria này đã được mở ra. Bây giờ, đây là vấn đề có một quyết định cá vị
đối với đức tin ấy, và nó xảy ra khi người này quyết định “quay trở lại” với Đức
Giêsu. Việc người ngoại quốc này hăng hái tôn vinh Thiên Chúa, phục mình xuống
chân Thầy để tạ ơn Thầy, chứng tỏ rằng trong cuộc gặp lần thứ hai này của anh với
Đức Giêsu, người Samaria này không chỉ đơn thuần bày tỏ lòng biết ơn của mình,
mà còn trải nghiệm một sự chữa lành toàn diện và một sự biến đổi bên trong.
Thông thường lòng biết ơn được bày tỏ cho Thiên Chúa; đây là lần duy nhất trong
Tân Ước mà lòng biết ơn được bày tỏ cho Đức Giêsu. Cuối cùng, người ngoại quốc
này, sau khi được biến đổi nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, bây giờ anh sẵn sàng được
sai đi cho một sứ mạng: “Đứng dậy và đi đi” (Lc 17:19; cũng xem Lc 10:3).
Việc chữa lành của cả
ông Naaman và của mười người phong cùi đều là những câu chuyện xoay quanh chủ đề
về sự hoán cải bên trong xảy ra nhờ một sự gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa. Cuộc gặp
gỡ này diễn ra xuất phát từ một khủng hoảng cá nhân, như một căn bệnh nghiêm trọng
chẳng hạn, và nó là một sáng kiến của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của đương sự là
đi bước tiếp theo bằng các nhìn nhận và đón nhận ý nghĩa của cuộc gặp gỡ này để
dẫn đến sự hoán cải.
Sự chữa lành chỉ có thể
xảy ra cho những người mà nơi họ có sự đan xen giữa việc chữa trị thể xác và
lòng biết ơn; chữa lành thể xác và hoán cải tâm hồn đan xen với nhau. Nước sông
Giođan và việc đi trình diện với các tư tế nhấn mạnh tầm quan trọng của hành động
bí tích trong công trình cứu độ. Đây không phải là một sự chữa trị thuần tuý có
tính chất cá nhân và trừu tượng. Từ tình trạng bị cách ly và bị loại trừ, chúng
ta được hòa giải hoàn toàn với chính mình, trong thân xác mình, và với cộng
đoàn, vì chúng ta được giao hòa tự thâm tâm với Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô nhờ hành động của Hội Thánh. Giống như ông Naaman và mười
người phong cùi, chỉ những ai trải qua kinh nghiệm của sự hiệp thông thanh tẩy
và giao hòa này mới có thể được tái hội nhập vào cộng đoàn và được sai đi làm sứ
mạng.
Sứ mạng của Hội Thánh
đem đến và truyền thông ơn cứu độ của Thiên Chúa bởi vì nó tại tạo những con
người từ sự huỷ diệt của tội lỗi, từ sự chia lìa của thần chết. Đón nhận Tin Mừng
có nghĩa là đi vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, chấp nhận cái chết tại sinh
của Người và chiêm ngắm sự trung thành của Người trong sự sống lại. Được
tái sinh trong giếng rửa tội, sông Giođan mới của Hội Thánh, và biết ơn vì sự cứu
độ mà chúng ta không đáng được, chúng ta được làm cho trở thành những người
truyền giáo trong các trải nghiệm của đời sống: hãy đứng dậy, đi đi, trở về nhà
mình. Những người khác có thể được chọn làm những môn đệ truyền giáo tại những
vùng đất xa lạ, có thể là thù nghịch và ngoại giáo: Galilê của Dân Ngoại,
Samaria của dân lạc đạo, và Syria của lương dân.
(Trích 31 bài giảng
của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan
báo Tin Mừng
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 28 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: 2 Kgs 5:14-17; 2 Tim 2:8-13; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng
biết ơn.
Không ai thích người vô ơn; nhưng nhiều khi chính chúng ta lại là những
người vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với tha nhân. Để biết ơn, chúng ta cần
phải nhận ra ơn, chứ đừng bao giờ nghĩ mọi sự phải xảy ra như vậy: Thiên Chúa
phải ban ơn, cha mẹ phải săn sóc con cái, các nhà lãnh đạo phải lo cho dân...
Công ơn mình đang hưởng có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Có những người sợ phải
biết ơn vì họ sợ sẽ phải đền ơn; vì thế họ vô ơn. Họ quên đi rằng khi con người
biết ơn, họ sẽ được lãnh nhận nhiều ơn hơn, và cuộc đời họ sẽ thăng tiến. Người
vô ơn sẽ càng ngày càng lụi bại dần, và sẽ bị mọi người xa lánh.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong hai khía cạnh quan trọng của việc biết
ơn: (1) nhận ra những gì ân nhân đã làm cho mình; (2) cám ơn bằng việc làm cụ
thể. Trong bài đọc I, tướng Syria là Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel là
Người đã chữa ông khỏi bệnh cùi. Ông trở lại cám ơn ngôn sứ Elisha như khí cụ
Thiên Chúa dùng để chữa lành, và cam kết từ nay sẽ không thờ phượng một Thiên
Chúa nào khác. Trong bài đọc II, Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho
con người và cho chính bản thân ông trên đường đi Damascus. Ông khuyên môn đệ
Timothy trung thành chịu đau khổ để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Đức Kitô cho
mọi người để họ cũng được hưởng sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, người bệnh
phong xứ Samaria là người duy nhất trong 10 người đã nhận ra ơn lành Chúa Giêsu
đã làm cho ông. Ông trở lại cám ơn Chúa Giêsu, và ông nhận được thêm ơn lành cứu
độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng hy
lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.
1.1/
Tướng Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel đã chữa bệnh cho mình: Trước khi Naaman, tướng Syria,
vâng lời dìm mình 7 lần trong sông Jordan, ông đã trải qua cuộc thử thách nội
tâm: Tại sao ngôn sứ Elisha không chịu ra đón tiếp ông? Tại sao khinh thường
ông đến độ chỉ sai đầy tớ ra đón ông với một mệnh lệnh đơn giản: “Xuống sông
Jordan dìm mình 7 lần sẽ được sạch.” Tại sao phải dìm mình 7 lần trong sông
Jordan của người Do-thái, trong khi có biết bao con sông ở Syria sạch sẽ hơn
nhiều? Và ông đã giận dữ bỏ ra về...
Đoàn tùy tùng phải mở trí cho ông để ông nhận ra những vô lý của ông:
Chính ông là người cần nhận ơn từ người của Thiên Chúa chứ không ngược lại. Đã
vất vả qua Do-thái rồi, giờ chỉ cần nghe lời người của Thiên Chúa, khiêm nhường
dìm mình 7 lần trong sông Jordan là được sạch. Tại sao ông không chịu làm công
việc quá dễ dàng như thế để khỏi phải chịu một chứng bệnh nan y suốt đời?
Và ông đã nhận ra sự vô lý của mình, ông khiêm nhường làm theo lời của
ngôn sứ Elisha: “ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời người của
Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.”
1.2/
Tướng Naaman tuyên thệ sẽ không thờ bất cứ thần nào ngoại trừ Thiên Chúa của
Elisha: Khi tướng
Naaman nhận ra đã được lành bệnh, ông thân hành trở lại đứng trước mặt ngôn sứ
Elisha, người của Thiên Chúa, tuyên xưng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất,
không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.” Ông không những đã được Thiên
Chúa chữa lành phần xác là cho khỏi bệnh phong, ông còn được chữa lành phần hồn
qua việc nhận ra Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, và bổn phận của
ông là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa này mà thôi.
Khi Naaman dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, ngôn sứ Elisha không lãnh nhận,
vì ngôn sứ biết rõ việc chữa lành là ơn của Thiên Chúa dành cho tướng Naaman,
không phải do bởi ông. Ông không thể nhận quà tặng, vì như thế là đánh cắp công
ơn của Thiên Chúa, và có thể làm cho người nhận ơn hiểu lầm. Đây phải là một
bài học quan trọng cho chúng ta: Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Đừng bao giờ
đánh cắp làm của mình. Cần phải nói cho người được ơn biết rõ lý do để họ cám
ơn Thiên Chúa.
Tại sao Naaman muốn xin mang về hai xe đất? Có lẽ Naaman muốn dùng đất đó
để xây dựng bàn thờ kính Thiên Chúa, vì theo như lời ông nói: “Tôi tớ ngài sẽ
không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô, vị đại ân nhân của loài
người.
1.1/
Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho loài người và cho chính ông: Để hiểu những gì Phaolô nói,
chúng ta cần luôn trở về với biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Phaolô
trên đường đi Damascus. Phaolô đã nhận ra những ơn Thiên Chúa ban cho ông:
- Ơn phần hồn: cho ông nhìn thấy chính Chúa phục sinh; giúp ông thay đổi
não trạng kiêu ngạo để biết nhìn nhận: con người được cứu độ do bởi ơn thánh chứ
không do bởi việc cố gắng giữ Lề Luật. Sự sống lại có thật; và như thế, tất cả
những Lời dạy dỗ của Đức Kitô là sự thật.
- Ơn phần xác: ông được chữa khỏi mù và khỏi bị phạt chết.
Phaolô cũng nhận ra Đức Kitô là vị đại ân nhân của loài người, qua lời
Phaolô khuyên môn đệ Timothy: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại
từ cõi chết.” Ngài đã chết thay cho con người, Ngài đã tha mọi tội cho con người.
Ngài đã mang lại cho con người sự sống đời đời đã bị đánh mất bởi tội.
1.2/
Phaolô cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn: Một khi Phaolô đã nhận ra tất cả
các ơn Đức Kitô đã làm cho ông, ông quyết định dành trọn cuộc đời còn lại để
báo đáp bằng cách chu toàn trọn vẹn sứ vụ Đức Kitô trao phó cho ông là rao giảng
Tin Mừng. Phaolô có kinh nghiệm rất rõ trong ba cuộc hành trình, ông phải chịu
nhiều đau khổ để mang Tin Mừng đến cho mọi người và để chứng minh lòng trung
thành của ông với Đức Kitô.
Một trong những điểm quan trọng của thần học Phaolô là “Hãy bắt chước
Phaolô như Phaolô bắt chước Đức Kitô.” Chúa Giêsu không có tội nhưng Ngài sẵn
sàng chịu đựng đau khổ cho phần rỗi linh hồn của mọi người. Thánh Phaolô cũng sẵn
sàng chịu đau khổ như một tên gian phi vì rao giảng Tin Mừng, “để mưu ích cho
những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Giêsu
Kitô, và được hưởng vinh quang muôn đời.” Ngài viết Thư này cho Timothy khi
đang bị xiềng xích tại Roma, để khuyên nhủ Timothy cũng phải sẵn sàng chịu đựng
đau khổ để rao giảng Tin Mừng. Ngài khuyên Timothy noi gương ngài đừng để Lời của
Thiên Chúa bị xiềng xích. Người ta có thể cầm tù người rao giảng; nhưng không
ai có thể cầm tù Lời của Thiên Chúa, vì đó là Lời tồn tại muôn đời.
Chỉ trong gian nan một người mới biết ai là người trung thành với mình.
Người trốn chạy bạn hữu khi gặp gian khổ không phải là bạn nghĩa thiết. Chúa
Giêsu từng nói với các môn đệ: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy
cũng tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy. Ai chối Thầy trước mặt người đời,
Thầy cũng chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy” (Mt 10:32-33). Thánh Phaolô lặp
lại lời tuyên xưng ấy với một nghĩa tương tự: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta
cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ
cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.”
3/ Phúc Âm: “Chín người kia đâu? Sao không thấy
họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
3.1/
Người cùi Samaria nhận ra Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh: Trên đường lên Giêrusalem, Đức
Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Khi Người vào một làng
kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn
tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
Mấy phong tục của người Do-thái chúng ta cần hiểu trước khi phân tích
trình thuật này:
- Người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên trong cũng như
bên ngoài; vì thế, những người phong cùi không được ở chung với dân chúng; mà
phải sống cách biệt bên ngoài làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được
phép tiếp xúc trực tiếp với dân, và phải dừng lại và la lớn để mọi người biết sự
có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
- Ngày xưa không có y sĩ như bây giờ. Để chứng tỏ đã hết bệnh phong cùi,
họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch;
bấy giờ họ có thể trở về sinh hoạt bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3).
Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế."
Chúa Giêsu thử thách cả 10 người khi bảo họ đi trình diện với các tư tế,
vì khi họ đi, chưa ai trong họ được sạch cả. Chỉ đang khi đi thì họ mới nhận ra
họ đã được sạch.
3.2/
Người Samaria được sạch trở lại cám ơn Chúa Giêsu.
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng
tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Chúa Giêsu
nhận ra ngay anh ta là người Samaria và 9 người kia là người Do-thái. Đức Giêsu
nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia
đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang
này?"
Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn. Chúa Giêsu nói với anh ta: "Đứng
dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Anh không chỉ được thanh sạch
bên ngoài, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng
đáng được hưởng ơn cứu độ.
Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy
nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy
nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là
Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học
sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn; vì thế, họ vô ơn với Thiên
Chúa, với cha mẹ, và với mọi người chung quanh. Những con người vô ơn bạc nghĩa
sẽ không sống nổi trong cuộc đời, vì họ sẽ bị Thiên Chúa và mọi người khai trừ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết dùng trí khôn để nhận ra ơn và dùng trí nhớ để đếm tất
cả những ơn lành đã nhận được. Lười biếng và vô tâm làm con người không nhận ra
những ơn lành lãnh nhận.
- Biết ơn là điều kiện để nhận thêm ơn, nhiều khi những ơn đó còn cao cả
hơn những ơn đã lãnh nhận. Người vô ơn không nhận được thêm ơn.
- Không phải chỉ biết ơn suông, nhưng còn phải nói lời cám ơn và tìm dịp
để đền ơn.
- Con người không thể làm ơn cho Thiên Chúa, họ chỉ có thể làm cho tha
nhân và được Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Những gì con người làm cho
tha nhân không chỉ đáp đền ơn Thiên Chúa ở đời này, mà còn trở nên công trạng
giúp cho con người ở đời sau. Vì thế, hãy ra sức giúp đỡ tha nhân bao nhiêu có
thể làm được.
- Chúng ta phải biết ơn cha mẹ, những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy
dỗ chúng ta trong suốt một phần tư của cuộc đời. Khi cha mẹ về già và không còn
tự săn sóc mình được nữa, chúng ta phải phụng dưỡng và săn sóc các ngài. Đừng
cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn
ta.”
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/10/19 CHÚA NHẬT TUẦN 28 TN – C
Lc 17,11-19
Lc 17,11-19
ĐỀ CAO LÒNG BIẾT ƠN
Một người trong bọn họ, thấy mình được khỏi, liền quay
trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (Lc 17,15)
Suy niệm: Mười
người phong cùi được Chúa chữa lành cách nhẹ nhàng qua một câu nói: “Hãy đi trình diện các tư tế.” Phải
chăng vì thế mà “chín người kia” nghĩ
rằng mình khỏi bệnh là chuyện “tự nhiên” chứ không phải là một “ơn” do sự can
thiệp siêu nhiên của Chúa Giê-su? Chỉ có một người biết mình được khỏi bệnh là
một “ơn”, anh “biết ơn” và “quay trở lại
tôn vinh Thiên Chúa.” Thật phũ phàng, số người biết tạ ơn Thiên Chúa chỉ có
1/10! Mà người ấy lại là người xứ Sa-ma-ri, vốn bị người Do Thái cho là quân
ngoại đạo!
Mời Bạn: Biết
ơn là một trong những đức tính cao quý nhất của con người. Ông bà chúng ta dạy:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.” Người có lòng biết ơn như được tăng thêm giá trị cho
chính họ, dù họ là ai, thuộc quốc gia hay tôn giáo nào. Không ai có thể tự lo
cho mình mọi thứ mình cần. Nói cho thấu đáo, tất cả những gì chúng ta đang có,
kể cả sự hiện hữu của mình, chúng ta đều đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Tất cả, từ
những thứ rất nhỏ bé, vô hình, ngay cả không khí hằng ngày mình hít thở, tất cả
đều là hồng ân của Thiên Chúa. Tôi có nhận ra hồng ân của Ngài tặng ban cho tôi
không? Và tôi có ở trong số người quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa hay trong số “chín người kia”?
Sống Lời Chúa: Hãy
chia sẻ một ơn mình nhận trong ngày hôm nay mà mình cho là có giá trị to lớn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dựng
nên chúng con và ban cho chúng con muôn vàn ơn phúc. Xin giúp chúng con nhận ra
giá trị của ơn Chúa, nhất là Đấng ban ơn cho chúng con để chúng con thường
xuyên nói lời tạ ơn Chúa.
(5 phút Lời Chúa)
CHÍN
NGƯỜI KIA ĐÂU
Ðời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó
thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Suy niệm:
Mười người phong đón gặp Ðức Giêsu.
Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót.
Ðức Giêsu không chữa cho họ ngay,
Ngài muốn thử thách lòng tin của họ.
Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế
như thể họ đã được khỏi bệnh rồi.
Mười người phong đã vâng phục lên đường,
và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người.
Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình,
trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Ðức Giêsu khiến anh quay lại,
sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Ðức Giêsu,
nhưng họ quên Ðấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng,
nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh,
nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn,
vì là gặp lại chính Ðấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn.
Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ,
và trao cho họ chính con người Ngài.
Ðiều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu
để ta gặp gỡ Ðấng ban ơn,
và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người.
Tôi quá quen với những ơn Chúa ban,
đến độ thấy đó là chuyện bình thường,
đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu
chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng.
Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận,
là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu,
và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên
Chúa,
vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Ðức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa
từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám ơn mọi người.
Ðời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi.
Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy
được,
và những ơn con
không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được
nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con
nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho
con,
và quên rằng đời
con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết
không ban
bởi lẽ điều đó có
hại cho con,
hay vì Cha muốn ban
cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu
hết những gì
Cha làm cho đời
con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG MƯỜI
Một Thời Đại Khẩn Trương
Thật bi đát là còn nhiều vùng
trên thế giới, người ta vẫn chưa biết hoặc đã lãng quên Tin Mừng. Xã hội hiện đại
vốn tự hào là một xã hội thông tin, nhưng có hàng triệu con người mong mỏi được
nghe Tin Mừng mà chỉ mới được biết loáng thoáng hoặc chẳng biết gì cả về Đức
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Và trong thế giới cũ, vốn in đậm truyền thống đức tin
Kitô giáo hàng bao thế kỷ, đang tồn tại những ý thức hệ sai lạc và tư tưởng duy
vật quá tràn ngập đến nỗi nhiều người sợ rằng thế giới có nguy cơ bị nhận chìm
vào trong vực thẳm đen tối của chủ nghĩa vô thần. Vì thế, song song với nhu cầu
Phúc Aâm hóa, chúng ta nhận ra một nhu cầu cấp bách không kém, đó là tái rao giảng
Tin Mừng.
Tất cả chúng ta – linh mục cũng
như giáo dân – đều được mời gọi khơi lại ý thức trong Giáo Hội về nhu cầu khẩn
thiết của việc Phúc Aâm hóa và tái Phúc Aâm hóa. Đặc biệt, chúng ta phải giúp
cho thế hệ trẻ nắm bắt sứ điệp này. Tâm hồn các bạn trẻ thường bị phân tán bởi
những hy vọng trống rỗng. Chúng ta phải nhấn mạnh với họ về tính khẩn thiết của
công việc truyền giáo, là lời tiếng gọi thách đố tất cả những ai đã lãnh nhận
Phép Rửa. Chúng ta cũng cần phải làm cho các cộng đoàn Kitô hữu trở nên liên đới
mật thiết với những nhu cầu những thử thách của các anh em tại các vùng truyền
giáo.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 09 -10
Chúa Nhật XXVIII Thường Niên
2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc
17,11-19.
Lời suy niệm “Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại
tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
Qua câu chuyện Chúa Giêsu chữa
lành cho mười người phung hủi được lành, nhưng chỉ có người ngoại bang trở lại tôn
vinh Thiên Chúa còn chín người kia không trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Chúa
Giêsu đã nhắc nhở mỗi người Kitô hữu hôm nay, luôn cần phải biết tạ ơn Thiên
Chúa trong từng giây phút sống của mình, vi muôn hồng ân của Chúa đang ban xuống
trên chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta chỉ cần nhìn lại số phận và hoàn cảnh của
những con người đang sống chung quanh với chúng ta trên trái đất này; với nhìn
lại chính mình, gia đình mình và con cái của mình; thì sẽ thấy được muôn ơn
lành Chúa đã ban, để luôn phải luôn tạ ơn Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con luôn nhận ra tình yêu thương của Chúa đã
dành để cho mình, để luôn biết tạ ơn Thiên Chúa và tôn vinh Ngài.
Mạnh Phương
13 Tháng Mười
Mặt Trời Múa
Hôm nay 13 tháng 10, là kỷ niệm Ðức
Mẹ hiện ra lần thứ sáu cho ba em Lucia, Phanxicô và Giacinta tại làng Fatima
bên Bồ Ðào Nha.
Ðây là lần hiện ra có đông đảo
dân chúng chứng kiến nhất. Mặc dù thời tiết xấu, ngay từ ngày 12, có trên mười
ngàn người Bồ Ðào Nha từ khắp nơi trong nước đổ xô về Fatima để chờ đợi phép lạ
như Ðức Mẹ đã hứa trong các lần hiện ra trước. Người lo lắng nhất trong suốt mấy
ngày hôm đó chính là bà mẹ của Lucia. Bà khuyên cô con gái hãy đi xưng tội để
nhỡ nếu không có phép lạ xảy ra, thì khi bị giết chết, họ cũng an tâm vì đã
xưng tội. Cô Lucia trả lời: con sẽ đi xưng tội, nhưng không phải vì sợ phép lạ
không xảy ra... Ðức Mẹ sẽ giữ lời hứa.
Buổi sáng sớm ngày 13/10, người
ta đã thấy đám đông đứng phủ đầy ngọn đồi Cova da Iria, nơi Ðức Mẹ hứa sẽ hiện
đến. Dưới cơn mưa lất phất của những ngày đầu mùa thu, ai cũng cảm thấy lạnh
cóng, nhưng đều hiệp ý với nhau trong lời kinh Mân Côi kính Mẹ. Mọi người đều
chăm chú hướng nhìn về ba em bé mục đồng, trong y phục rách rưới và bê bết những
bùn.
Lucia bắt đầu đọc kinh Mân Côi, bỗng
cô hô lớn: "Xin mọi người hãy xếp dù lại". Với hai em Phanxicô và
Giacinta, cô ra lệnh: "Hai em hãy quỳ xuống, vì Ðức Mẹ đang hiện đến".
Cùng với ba em, nhiều người đã
nhìn thấy vệt sáng trên nền trời. Trong một cái nhìn vừa cảm thông và u buồn, Ðức
Mẹ nói với ba em bé: "Ta là Ðức Mẹ Mân Côi... Ta muốn người ta xây một nhà
nguyện tại đây để kính nhớ Ta. Các con hãy tiếp tục lần hạt mỗi ngày". Và
Ðức Mẹ đã hứa sẽ nhận lời cầu xin của một số người mà Lucia đại diện trình lên
Mẹ. Nhưng Mẹ cảnh cáo: "Ðừng xúc phạm đến Chúa nữa, người ta đã xúc phạm
quá đỗi rồi". Nói xong những điều đó, Ðức Mẹ chỉ tay về hướng mặt trời...
Trong cơn ngây ngất, Lucia đã thốt lên: "Xin mọi người hãy nhìn về mặt trời".
Lạ lùng thay, ai cũng có thể nhìn
về mặt trời mà không bị lóa mắt. Như một bánh xe cuồn cuộn lửa đỏ, ánh thái
dương bỗng quay lượn, nhảy múa và toát ra những tia sáng muôn màu sắc. Rồi
thình lình, từ trời cao, mặt trời bỗng đổ xuống như một trái bóng da khổng lồ.
Trong cơn hốt hoảng, mọi người cảm thấy như mặt trời sắp rơi xuống, ai ai cũng
nằm rạp xuống trên bãi cỏ và đấm ngực ăn năn như để chờ đợi giây phút cuối cùng
của vũ trụ... Hiện tượng mặt trời nhảy múa và sa xuống mặt đất kéo dài trong
vòng hai phút. Khi mặt trời đã trở lại trạng thái bình thường, mọi người đều nhận
thấy rằng, bãi cỏ ướt đẫm trong cơn mưa bỗng trở nên khô ráo.
Việc Ðức Mẹ hiện ra và hiện tượng
mặt trời nhảy múa đi kèm như được mô tả trên đây, mang nhiều ý nghĩa.
Chính phủ cách mạng tại Bồ Ðào
Nha vào năm 1917 muốn đánh đổ những thứ mà họ gọi là huyền thoại tôn giáo, cũng
như dẹp bỏ mọi thứ cuồng tín. Buổi sáng ngày 13/10 hôm đó, cả một lực lượng vũ
trang hùng hậu đã được gửi đến đồi Cova da Iria để ngăn cản mọi cuộc tập họp của
dân chúng. Báo chí thì tung ra lời tuyên đoán rằng phép lạ sẽ không bao giờ xảy
ra và huyền thoại tôn giáo sẽ cáo chung từ hôm đó.
Thế nhưng tất cả những sức ép
trên đây đã không đánh đổ được lòng tin của người tín hữu.
Phép lạ mặt trời múa vừa là một
thể hiện của quyền năng của Thiên Chúa vừa là một lời mời gọi sám hối. Ðệ nhất
chiến tranh đã phát sinh nhiều làn sóng vô thần chủ trương tiêu diệt tôn giáo bằng
bạo lực. Bên cạnh những chế độ độc tài chối bỏ quyền sống của con người, nhiều
người cũng buông thả trong đời sống luân lý.
Thế giới chỉ có thể cứu vãn được
nếu con người biết hoán cải: đó là sứ điệp mà Ðức Maria đã không ngừng lặp đi lặp
lại tai Fatima. Và phương tiện để giúp con người hoán cải trước tiên đó là cầu
nguyện. Cầu nguyện không những là quay trở lại với Chúa, nhưng còn là một cải đổi
tương quan đối với người anh em.
Lịch sử đang lập lại không ngừng.
Quyền sống của con người đang bị chối bỏ nhiều nơi trên thế giới. Con người
cũng chối bỏ và chà đạp chính Thiên Chúa trong những sa đọa về luân lý. Ðức
Maria đang tha thiết kêu mời chúng ta hãy sám hối, siêng năng cầu nguyện với
kinh Mân Côi... Ðó là phương thế duy nhất để cứu vãn thế giới của chúng ta.
Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét