Trang

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2019

13-10-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN năm C


13/10/2019
 Chúa Nhật 28 Thường Niên năm C.
(phần II)

Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 28 Thường niên năm C
2 V 5,14-17; 2 Tm 2,8-13; Lc 17,11-19
LÒNG BIẾT ƠN
‘Còn chín người kia đâu?’ (Lc 17,17)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (2 V 5,14-17)
Bệnh phong hủi của Naaman cũng như của mười người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay có thể là một căn bệnh ngoài da, làm cho da nứt nẻ chảy máu và nhìn rất dễ sợ. Nếu như theo luật Do thái, căn bệnh này làm cho bệnh nhân trở nên ô uế, không thể tiếp xúc gặp gỡ người khác vì có thể làm cho họ bị ô uế (Lv 13,45.46; Ds 5,2), thì đối với người Aram các bệnh nhân vẫn may mắn hơn vì họ không bị loại khỏi cộng đồng xã hội. Naaman vẫn có thể gặp Vua của ông để xin giúp đỡ. Theo lời giới thiệu của cô hầu gái người Israel, ông đã tìm đến Êlisa, vị ngôn sứ của Israel để được chữa lành.
Đến với Êlisa, Naaman không nghĩ là đến với một thầy thuốc, nhất là khi ông được yêu cầu tắm bảy lần trong sông Giođan, dòng sông mà ông nghĩ không thể sạch hơn các con sông ở quê hương ông. Nhưng ông đến với hi vọng là Êlisa sẽ nhân danh Thiên Chúa Israel để chữa ông lành sạch. Dù hơi thất vọng về lời yêu cầu tắm bảy lần trong sông Giođan, nhưng lại theo lời người hầu, ông đã xuống tắm ở sông và được sạch.
Sau khhi được sạch, Naaman đã thể hiện lòng biết ơn với Êlisa bằng cách trở lại đền ơn, nhưng Êlisa không nhận. Cung cách của ngôn sứ thể hiện rằng mình chỉ là khí cụ trong tay Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã chữa lành Naaman, còn mình chỉ là công cụ để đưa người khác đến với Thiên Chúa. Quả vậy, Naaman đã tỏ lòng biết ơn cách sâu sắc hơn là tặng quà. Ông đã nhận ra Thiên Chúa của Israel và chỉ thờ kính Người.
2. Bài đọc II (2 Tm 2,8-13)
Trong lao tù, bị xiềng xích, nhưng Thánh Phaolô hiểu là mình đang chia sẻ sự chết và phục sinh của Người. Điều này chứng tỏ lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích. Dù thân xác bị giam cầm nhưng tinh thần ngài vẫn tự do. Thánh nhân tự do chọn lựa đau khổ cũng như Chúa Giêsu,vì ơn cứu độ của mọi người. Thánh Phaolô không thi vị hóa đau khổ, nhưng luôn xác tín về ý nghĩa của đau khổ. Thánh nhân đã nhiều lần xác định: nếu chúng ta cùng chết với Người ta sẽ cùng sống với Người; tôi đã chịu đóng đinh với Đức Kitô, tôi không còn sống cho mình nhưng cho Đức Kitô Đấng đang sống trong tôi. Đau khổ không còn là bất hạnh khi chính Chúa Giêsu đã mang lấy đau khổ để cứu độ nhân loại. Sự chết không còn là hủy diệt khi Đức Kitô đã phục sinh vinh hiển. Đau khổ chính là liên kết chặt chẽ hơn với Người để mang lại ơn ích cho phần rỗi của nhân loại.
3. Bài Tin Mừng (Lc 17,11-19)
Giữa người Israel và người Samaria vẫn tồn tại sự xa cách; do đó họ không giao tiếp với nhau. Tuy nhiên câu chuyện thánh Luca kể lại trong đoạn Tin Mừng hôm nay lại có một ngoại trừ: đó là trong nhóm mười người phong hủi Chúa Giêsu gặp trên đường Người đi lên Giêrusalem, có một người Samaria. Những người phong hủi trong Israel không chỉ là bệnh nhân đau đớn về thể lý nhưng còn đau hơn thế nữa khi họ là những người bị tách rời khỏi cộng đoàn xã hội. Đó là lý do sao nhóm mười người phong hủi phải đón gặp Chúa Giêsu ở ngoài làng, và còn phải đứng đàng xa mà kêu lớn tiếng. Tuy tổn thương về thể xác nhưng tâm hồn họ tràn đầy niềm tin, vì họ tin Chúa Giêsu có thể giúp họ nên đã kêu lớn tiếng cầu xin Người dủ lòng thương. Chúa Giêsu dạy họ đi trình diện các thầy tư tế để chứng thực đã được lành bệnh. Người không những chữa lành họ nhưng còn muốn đưa họ hội nhập trở lại với cộng đoàn.
Mười người được chữa lành nhưng chỉ có người Samaria trở lại tôn vinh Chúa Giêsu. Một lần nữa Chúa Giêsu đề cao thái độ của những người dân ngoại và cũng là chê trách thái độ của những con cái Israel. Trong Cựu Ước, Israel là dân của Thiên Chúa nhưng thường không sống theo thánh ý Thiên Chúa. Còn trong Tân Ước, Israel đã không đón nhận ơn cứu độ đến với họ khi họ khước từ chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa.
Câu truyện này trình bày sự trái ngược giữa lòng biết ơn và sự vô ơn, giữa thái độ của người Do thái và dân ngoại, giữa phép lạ chữa lành và đôi mắt đức tin. Các câu hỏi của Chúa Giêsu cho thấy rõ sự tương phản này. Chỉ có người Samaria, với đức tin, đã hiểu điều mình nhận được, đã trở lại tôn vinh và tạ ơn Chúa Giêsu. Dù là mười người được chữa lành nhưng chỉ người Samaria được cứu độ, bởi vì không phải việc được chữa lành có ý nghĩa quyết định nhưng chính là niềm tin. Người Samaria được chữa lành đồng thời cũng kinh nghiệm gặp được Thiên Chúa qua con người của Chúa Giêsu.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Ngày nay chúng ta ít gặp thấy những người bệnh phong hủi, nhưng chúng ta vẫn gặp nhiều người mắc đủ chứng bệnh nan y cả về thể xác lẫn tinh thần, nhất là những người bị xã hội ruồng bỏ xem như tệ nạn cặn bã. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, không loại trừ họ nhưng hãy an ủi và giúp đỡ họ. Hãy làm một điều tốt cho người bệnh, người nghèo, người đau khổ mà chúng ta gặp.
2. Các bài đọc hôm nay nhấn mạnh về lòng biết ơn. Càng những người gần gũi chúng ta càng quên ơn. Chúng ta hãy tập sống thái độ biết ơn cách thành thật đối với cha mẹ, anh chị em, những người xung quanh, nhất là biết ơn Chúa vì muôn ơn lành Chúa vẫn ban cho chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Lòng biết ơn chân thành gọi mời chúng ta hãy hành động: thêm yêu thương tin tưởng và làm điều tốt để vui lòng Thiên Chúa và mọi người.
3. Chúng ta là dụng cụ của Thiên Chúa để làm điều tốt, chia sẻ với tha nhân những phúc lành. Không tìm lợi lộc khi giúp đỡ ai điều gì đó, nhưng giúp họ nhận ra Thiên Chúa là suối nguồn của ân phúc để cùng ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành luôn sẵn sàng thi ân cho những ai tin tưởng cầu xin Người. Với tâm tình tri ân vì những hồng ân Chúa đã thương ban và cả những điều mình sắp lãnh nhận, cộng đoàn chúng ta cùng chung lời cảm tạ Thiên Chúa và hiệp ý cầu xin:
1. Hội thánh có sứ mạng loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người trên thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn và mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức và nỗ lực trở nên dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa giữa trần gian.
2. “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho tất cả những ai đang phải chiến đấu với đau khổ thử thách vì già yếu, bệnh tật, hay đói nghèo; biết nhìn lên Chúa Giêsu chịu khổ nạn và luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Người.
3. “Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang sống trong bình an cùng với điều kiện sống ổn định, biết nhận ra ân huệ của Chúa trao ban trong cuộc đời, để luôn cảm tạ và phụng thờ Người cho xứng đáng.
4. Chúa Giêsu nói với người được chữa lành: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn kiên vững trong đức tin giữa những khó khăn thử thách, và biết phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót! Chúa luôn ban muôn ơn lành trên cuộc đời chúng con. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, và giúp chúng con biết tôn vinh cảm tạ Chúa bằng cả cuộc đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 28 TN C
Chủ đề :
Tâm tình biết ơn

Người cùi xứ Samaria trở lại
và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa
(Lc 17,15)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Lòng biết ơn của tướng Naaman người xứ Aram sau khi được khỏi bệnh cùi.
– Đáp ca : Ca tụng những ơn lành Thiên Chúa đã ban.
– Tin Mừng : Lòng biết ơn của một người cùi đối với Chúa Giêsu.

I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
“Thánh lễ” còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là “Lễ Tạ Ơn”. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.
Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
– Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.
– Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.
– Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.
III. Lời Chúa
1.     Bài đọc I (2 V 5,14-17)
Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram :
– Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.
– Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.
– Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.
2.                 Đáp ca (Tv 97)
Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa : “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công”
3.                 Tin Mừng (Lc 17,11-19)
Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này : biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài :
   – Thử thách đức tin : vì Ngài không chữa bệnh ngay
   – Mời gọi đức tin : nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
   4. Bài đọc II (2 Tm 2,8-13)
Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Suy nghĩ về lòng biết ơn
1.     Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế ?
Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ “ở trong nhà” là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những “kẻ ở ngoài” thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó : Tướng Naaman không phải là người do thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta : chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.
Chúa Giêsu thì ngược lại : Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?” Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi : Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.
Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta : do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa ; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình ; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình : chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỳ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng “Tất cả đều là hồng ân”.
* 2. Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn
Chín người cùi do thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu : Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.
Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào : đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.
* 3. Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman
1.     Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.
– Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.
– Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông à Ông trở thành khiêm tốn hơn.
– Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận à Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.
– Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. à Ông có đức tin.
Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.
– Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.
– Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích : nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.

* 4. Dòng suối ân tình
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi :
– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp :
– Vì đôi mắt của con rất đẹp !
– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?
– Con ạ ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
*
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13,1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách : “Không phải cả mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” (Lc 17,17-18). “Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân ! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa : “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1,4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ : “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4,10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý : “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
*
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (TP)
5.                 Chuyện minh họa
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi :
– Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao ?
– Con thấy rất vui.
– Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao ?
– Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải.
– Thế sao con đã không cám ơn Chúa ?
– Tại sao phải cám ơn Chúa ?
– Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, luôn tạ ơn Chúa vì những hồng ân Người ban tặng cho ta là một trong những bổn phận quan trọng của người Kitô hữu. Với tâm tình con thảo, chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin :
1.     Hội thánh không ngừng quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho Hội thánh / trong công việc cao quý này.
2.     Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc / nhưng trong thực tế / bệnh tật vẫn đem đến cho con người đau khổ và bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật hành hạ / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
3.     Bệnh phong cùi đem lại mặc cảm lớn lao / và nỗi bất hạnh tột cùng cho các bệnh nhân / vì họ cảm thấy bị loại trừ ra khỏi xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / nâng đỡ những anh chị em kém may mắn này.
4.     Có một thứ bệnh phong cùi đáng sợ hơn là tội lỗi / vì nó làm hoen ố tâm hồn con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này bằng bí tích Giải tội.
Chủ tế : Lạy Chúa, biết bao giờ chúng con mới tạ ơn Chúa cho cân xứng với tình thương hải hà của Chúa. Xin cho chúng con biết cố gắng đền đáp phần nào tình thương ấy bằng chính đời sống bác ái yêu thương và tận tụy phục vụ tha nhân. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.
– Trước khi rước lễ : Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
VII. Giải tán
“Tất cả đều là hồng ân”. Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (C)
Sunday 13 October, 2019
Lectio Divina | Lection Divina Năm C
Mùa Thường Niên
Mười người phong cùi:
Lòng biết ơn về món quà cho không của ơn cứu rỗi
Lc 17:11 –19

Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, trong khi Chúa vẫn còn đi ngang qua miền đất của chúng con, hôm nay Chúa đã dừng lại nơi đây và đã vào làng của con, bước vào nhà con, vào trong đời sống của con.  Chúa đã không ngần ngại, Chúa đã không khinh khi về tội lỗi tày trời của con; thế mà thậm chí Chúa còn yêu thương con hơn nữa.  Ôi lạy Thầy Chí Thánh, con chỉ dám đứng ở đàng xa, cùng với anh chị em con là những người cùng đồng hành với con trên thế gian này.  Con cất cao tiếng và kêu xin Chúa; con cho Chúa xem những vết thương của tâm hồn con.  Con khẩn cầu Chúa, xin Chúa hãy chữa lành con với thần dược của Chúa Thánh Thần, xin ban cho con thuốc chữa thật sự từ Lời Chúa; chẳng có gì có thể chữa khỏi con, mà chỉ có Chúa mới có thể chữa khỏi con, vì Chúa là Tình Yêu…
1.  Tôi đọc Lời Chúa
a)  Phúc Âm: 
11 Khi Chúa Giêsu trên đường đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa.  12 Khi Người vào một làng kia, thì gặp người phong cùi đang đứng ở đàng xa, 13 họ cất tiếng thưa rằng:  “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”  14Thấy họ, Người bảo họ rằng:  “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế.”  Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.  15 Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, 16 rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người.  Mà người ấy lại là người xứ Samaria.  17 Nhưng Chúa Giêsu phán rằng:  “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao?  Còn chín người kia đâu?  18 Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này.”  19 Rồi Người bảo kẻ ấy rằng:  “Ngươi hãy đứng dậy mà đi: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”
b) Bối cảnh
Đoạn Tin Mừng này đưa chúng ta vào trong giai đoạn thứ ba của con đường Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem; bấy giờ mục tiêu đến đã gần kề và Thầy giục giã các môn đệ mạnh mẽ hơn, đó là, chúng ta cùng theo Người tiến về Thành Thánh, trong mầu nhiệm của ơn cứu độ, mầu nhiệm của tình yêu.  Đoạn Tin Mừng chỉ được thi hành qua đức tin, được nuôi dưỡng bởi lời cầu nguyện phó thác, khẩn cầu, không ngơi nghỉ và mãnh liệt; chúng ta thấy được điều này khi chúng ta đọc qua các chương trước và chương sau đoạn này (17:6; 17:19; 18:7-8; 42).  Những lời này mời gọi chúng ta tự nhận mình là những người phong cùi, trở nên trẻ nhỏ (Lc 18:15-17) và người thủ lãnh giàu có đã hoán cải và nhận lãnh ơn cứu rỗi trong nhà của mình (Lc 18:18 và các câu kế tiếp); nếu chúng ta thật sự chấp nhận những điều này và giữ gìn chúng như trong cách đem chúng vào đời sống thực hành, cuối cùng chúng ta cũng sẽ có thể đi đến Giêricô (19:1) và từ đó bắt đầu đi lên núi Ôliu với Chúa Giêsu (19:28), tiến đến vòng tay vui mừng của Đức Chúa Cha.
c)  Cấu trúc:
Câu 11:  Chúa Giêsu đang trên đường đi và đi ngang qua biên giới Samaria và Galilê; chút từng chút, Người tiến gần đến Giêrusalem, không có nơi nào mà Người không thăm viếng, không có điều gì mà Người không để mắt đến với lòng thương xót và tình yêu mến.
Các câu 12–14a:  Chúa Giêsu vào một làng kia, nó không có tên, bởi vì đó là một nơi, nó là đời sống của tất cả mọi người và ở đó Chúa đã gặp mười người phong cùi, những người mắc bệnh nan y, đang chết dần mòn, bị xa lánh và sống cách ly, bị hất hủi và xem thường.  Ngay lập tức, Đức Giêsu chấp nhận lời cầu nguyện của họ, tiếng kêu van từ trái tim, mời gọi họ đi vào Giêrusalem và họ không còn phải ở đằng xa nữa, mà hội nhập vào Trái Tim của Thành Thánh, đền thờ và các thày tư tế.  Người mời họ trở lại nhà Chúa Cha.
Câu 14b:  Những người phong cùi mới bắt đầu cuộc hành hương về Giêrusalem, và họ đã được chữa lành, họ trở nên những con người mới.
Các câu 15-16:  Nhưng chỉ có một người trong bọn họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu:  dường như chúng ta có thể thấy anh ta chạy nhảy với niềm vui sướng.  Anh ta lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, và sấp mình phủ phục thờ lạy dưới chân Thánh Thể.
Các câu 17-19:  Chúa Giêsu chữa lành cho mười người, chỉ có một người quay lại, mà người ấy lại người xứ Samaria, một người không thuộc về Dân Riêng của Chúa:  trên thực tế, ơn cứu độ là cho tất cả mọi người, cũng cho cả những người ở xa, khách ngoại kiều.  Không ai bị loại trừ khỏi lòng yêu thương của Chúa Cha, Đấng đáng được tạ ơn nhờ đức tin.
2.  Suy gẫm Lời Chúa
a)  Tôi đi vào trong thinh lặng:
Lời mời gọi này đã rõ ràng trong lòng tôi:  Tình yêu của Chúa Cha đang chờ đợi tôi, giống như người Samaria duy nhất quay trở lại, tràn đầy hân hoan và lòng biết ơn.  Phép Thánh Thể của ơn chữa lành cho tôi đã sẵn sàng; phòng tiệc đã được trang hoàng, bàn ăn đã được bày biện, con bê đã được làm thịt, rượu đã được đổ vào ly… nhà của tôi đã được chuẩn bị sẵn sàng.  Tôi chăm chú đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi, dừng lại trên những chữ, trên các động từ; tôi dõi theo cử động của các người phong cùi, tôi lặp lại những lời ấy, nhận các lời ấy như là của tôi, tôi cũng di động, tiến tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.  Và tôi đã để cho bản thân mình được hướng dẫn bởi Chúa, tôi lắng nghe tiếng nói của Người, mệnh lệnh của Người.  Tôi cũng đi về Giêrusalem, về đền thánh, đó là trái tim tôi, và trong cuộc hành hương này tôi suy nghĩ về tất cả tình yêu mà Đức Chúa Cha đã dành cho tôi.  Tôi để chomình được bảo bọc trong vòng tay yêu thương của Người, tôi cảm nhận được sự chữa lành của linh hồn tôi…  Và bởi vì điều này, trong niềm hân hoan, tôi đứng lên, quay lại, chạy về hướng nguồn hạnh phúc thật sự đó là Chúa.  Tôi chuẩn bị bản thân mình để cảm tạ Người, ca tụng Người một bài ca mới về tình yêu tôi dành cho Người.  Tôi sẽ dâng lên Chúa những gì để đáp trả lại tất cả mọi điều Người đã ban cho tôi đây? …
b)  Tôi xem xét sâu xa hơn một số thuật ngữ:
 Trong cuộc hành trình:  Bằng vào ngôn ngữ Hy Lạp xinh đẹp của mình, thánhLuca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đang tiếp tục con đường của Người hướng về Giêrusalem và ông xử dụng một động từ rất mạnh mẽ và đẹp, ngay cả khi rất phổ biến và được dùng tới nhiều.  Chỉ riêng trong phạm trù của đoạn Tin Mừng này, nó xuất hiện ba lần:
Câu 11:  trên đường đi
Câu 14:  đi
Câu 19:  đang đi
Nó là một động từ về việc chuyển dịch rất mạnh mẽ, thể hiện đầy đủ tất cả các năng động thích hợp của sự di chuyển; nó có thể được phiên dịch với tất cả những sắc thái hoặc âm điệu sau đây:  tôi đi, tôi đi đến, tôi rời, tôi đi từ một nơi này đến một nơi khác, tôi đi qua, tôi đi theo.  Và thậm chí hơn nữa, nó còn có ý nghĩa của vượt qua, lội, vượt khỏi, khắc phục những trở ngại.  Và Chúa Giêsu, người ngược xuôi đây đó, người khách hành hương không mệt mỏi:  Chúa là Người đầu tiên rời khỏi nhà của Người ở trong lòng Chúa Cha, và xuống thế làm người cùng chúng ta, để hoàn thành cuộc xuất hành vĩnh cửu của công cuộc cứu rỗi và giải phóng chúng ta.  Người biết mọi nẻo đường đi, mỗi con đường của nhân loại; không có một đoạn đường nào chưa khám phá hoặc không thể vượt qua đối với Người.  Đây là lý do tại sao Người mời gọi chúng ta cũng bước đi, di chuyển, vượt qua, tự đặt mình trong tình trạng của một cuộc ra đi liên tục.  Để cuối cùng, chúng ta cũng có thể quay về, cùng với Người, và cùng tiến bước về nhà Chúa Cha.
Vào một làng kia:  Chúa Giêsu đi qua, ngang qua, bước qua, di chuyển và đến với chúng ta; có lần, rồi sau đó, Người quyết định đi vào, dừng lại một thời gian lâu hơn.  Như câu chuyện xảy ra, Luca dừng lại trên một số chi tiết và viết rằng Chúa Giêsu đi vào một ngôi làng.  Để đi vào, trong ý nghĩa của Kinh Thánh, có nghĩa là thâm nhập, đây là lối vào trong nội tâm, có hàm ý chia sẻ và tham gia.  Một lần nữa, chúng ta thấy mình đối diện với một động từ rất phổ biến và rất phổ dụng;  chỉ nội trong sách Phúc Âm Luca nó xuất hiện rất nhiều lần và cho thấy rõ ràng ý định của Chúa Giêsu muốn đến gần với chúng ta, để trở thành một người bạn và để biểu lộ tình yêu của Người.  Người không coi thường hay hắt hủi bất cứ lối vào nào, bất cứ một sự hiệp thông nào.  Người vào nhà của người phong cùi Simon (4:38), đi vào nhà người Biệt Phái (7:36 và 11:37), rồi vào nhà ông trưởng hội đường (8:51) và của người thu thế Da-kêu (19:7).  Người tiếp tục đi vào lịch sử loài người và tham dự, cùng ăn uống, cùng chịu đau khổ, than khóc và vui mừng, chia sẻ mọi thứ.  Như chính Người đã nói, chỉ cần mở cửa thì Người sẽ vào trong nhà (Kh 3:20), và Người sẽ ở lại (Lc 24:29).
Mười Người Phong Cùi:  Tôi tự hỏi tình trạng con người này thực sự có ý nghĩa gì, căn bệnh được gọi là phong cùi này.  Tôi bắt đầu với văn bản của Kinh Thánh mô tả luật lệ dành cho người bị phong cùi ở Israel.  Đó là:  “Bất cứ ai bị một căn bệnh truyền nhiễm về da sẽ phải mặc áo rách và xõa tóc; và sẽ phải che miệng và kêu lớn tiếng:  “Ô uế, ô uế!”  Ngày nào còn bệnh, người ấy sẽ bị xem như là ô uế, và là ô uế, người ấy phải sống riêng, sẽ phải ở một nơi bên ngoài trại”.  (Lv 13:45-46).  Vì vậy, tôi hiểu rằng người bị bệnh phong cùi là một người bị đánh đập, thương tổn, hành hạ: điều gì đó đã xảy ra với người ấy bằng bạo lực, sức mạnh và đã để lại trong người ấy dấu hiệu của đau đớn, một vết thương.  Anh ta là một người buồn rầu, trong nỗi thống khổ triền miên, vì nó được cho thấy qua hình ảnh quần áo tả tơi và đầu bù tóc rối; anh ta phải che miệng vì không có quyền nói, hay gần như không được phép hít thở ở giữa những người khác:  anh ta có khác chi một người đã chết.  Người ấy không được phép thờ phượng Chúa, không được bước vào Đền Thờ, hoặc đụng chạm đến những vật thánh.  Người ấy là một kẻ bị tổn thương hoàn toàn, một người bị thiệt thòi, bị loại trừ, bị gạt sang một bên, sống trong cô độc.  Bởi vì tất cả mọi điều này, mười người phong cùi đi gặp Chúa Giêsu, đã dừng lại ở khoảng cách xa xa và thưa chuyện với Người từ đàng xa, hét lên nỗi đau đớn, nỗi tuyệt vọng của họ.
Lạy Thầy Giêsu:  Lời kêu này, lời cầu nguyện này của những người phong cùi thật là đẹp.  Hơn hết cả, họ gọi Chúa bằng tên, như giữa những bằng hữu gọi nhau.  Có vẻ như họ đã quen biết nhau một thời gian, họ biết về nhau, họ đã gặp nhau trước kia trong tâm hồn.  Những người phong cùi này đã được mời vào bàn tiệc thân mật của Chúa Giêsu, vào tiệc cưới của ơn cứu rỗi.  Sau họ, chỉ có người mù ở thành Giêricô (Lc 18:38) và tên trộm lành trên Thập Giá (Lc 23:42) sẽ lặp lại lời cầu khẩn này với cùng một sự thân thiết, cùng một tình yêu:  Đức Giêsu!  Chỉ có những người nhận ra mình đang bị bệnh tật, nghèo khó, bị làm hại, trở nên những kẻ được Thiên Chúa mến chuộng.  Rồi họ gọi Người là “Thầy”, bằng cách dùng một chữ mang ý nghĩa đúng hơn là “Đấng ở trên cao”  và ông Phêrô cũng đã dùng, khi trên thuyền, ông đã được gọi bởi Chúa Giêsu để đi theo Người (Lc 5:8) và ông nhận biết được mình là kẻ tội lỗi.  Và ở đây chúng ta tìm thấy chính chúng ta trong tâm điểm của sự thật, ở đây mầu nhiệm của bệnh phong cùi được mặc khải như là một căn bệnh của tâm hồn:  đó là tội lỗi, nó khiến chúng ta sống xa Chúa, thiếu tình bạn, thiếu sự hiệp thông với Người.  Điều này làm héo úa linh hồn chúng ta và khiến cho nó chết đi từ từ.
Người ấy quay trở lại:  Đây không phải là một cử động thể chất đơn giản, hay một thay đổi trong hướng đi và chân bước, nhưng nó là một sự thay đổi thực sự trong nội tâm, một thay đổi nhanh chóng hay cách mạng sâu xa.  “Quay trở lại” là một động từ của chuyển đổi, quay trở lại với Thiên Chúa.  Đó là thay đổi một cái gì đó thành một cái khác (Kh 11:6); đó là quay trở về nhà (Lc 1:56; 2:43), sau khi đã trẩy đi xa, như người con hoang đàng đã làm, đã mất trong tội lỗi.  Đây là những gì người phong cùi này đã làm:  anh ta biến đổi bệnh tật của mình trở nên một ân sủng, việc bị xem là người lạ, kẻ ngoại cư, bị sống cách xa Chúa trở thành tình bạn, trở thành một mối quan hệ thân mật, như giữa cha và con.  Anh ta thay đổi, bởi vì anh đã để cho mình được thay đổi bởi chính Chúa Giêsu, anh ta đã để cho mình được chạm tới bởi tình yêu của Người.
Tạ ơn Người:  Động từ này đẹp, trong tất cả mọi ngôn ngữ, nhưng một cách đặc biệt trong tiếng Hy-Lạp, bởi vì nó mang theo ý nghĩa của Phép Thánh Thể.  Vâng, chính xác là như thế:  người phong cùi “nhận lãnh Thánh Thể!”  Anh ta ngồi tại bàn tiệc của lòng thương xót, nơi Chúa Giêsu đã để cho mình bị đau đớn, bị thương tổn ngay cả trước anh ta; nơi Người trở thành kẻ bị nguyền rủa, bị loại trừ, kẻ bị ném ra khỏi trại để tập hợp tất cả chúng ta lại trong Trái Tim của Người.  Anh ta nhận lãnh bánh và rượu của tình yêu một cách cho không, của ơn cứu rỗi, của sự tha thứ, của đời sống mới; cuối cùng anh ta lại một lần nữa có thể đi vào đền thờ và tham gia vào việc Phụng Vụ, trong sự thờ phượng.  Sau hết, anh ta có thể cầu nguyện, được đến gần Thiên Chúa với tất cả lòng tín thác.  Người ấy không còn phải mặc quần áo tả tơi, nhưng được mặc những bộ quần áo của lễ hội, của tiệc cưới; bây giờ anh ta được mang dép nơi chân, được đi giày và đeo nhẫn nơi tay.  Anh ta không còn phải che miệng khi nói, nhưng từ bây giờ anh ta có thể ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa, anh ta có thể mỉm cười và nói chuyện một cách cởi mở; anh ta có thể đến gần Chúa Giêsu và ôm hôn Người, như một người bạn với một người bạn.  Bữa tiệc được chấm dứt, niềm vui tràn đầy.
Hãy đứng dậy và về!:  Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu, lời mời gọi của Chúa.  Đứng dậy, đó là ‘Phục Sinh’ trở về với cuộc sống!  Đây là cuộc sống mới sau cái chết, một ngày mới sau đêm tối.  Vì thánh Phaolô cũng vậy, trên đường đến Đa-mát, cùng một lời mời này đã được nghe, một mệnh lệnh của tình yêu: “Hãy đứng dậy!” (Cv 22:10-16), và ông đã được sinh ra lần nữa, từ trong lòng của Chúa Thánh Thần; ông đã được phục hồi thị lực và có thể nhìn thấy một lần nữa, ông đã bắt đầu ăn, đã nhận phép Thánh Tẩy và một tên mới.  Bệnh phong cùi của ông đã biến mất
Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi:  Tôi đọc lại câu nói này của Chúa Giêsu, tôi lắng nghe nó trong các cuộc đối thoại của Người với những người mà Chúa gặp gỡ, với người phụ nữ tội lỗi, với người phụ nữ bị bệnh băng huyết, với người đàn ông mù…
–  Chúa Giêsu, quay lại, thấy người phụ nữ và nói:  “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”.  Và ngay từ giờ ấy bà đã được khỏi bệnh tức khắc (Mt 9:22; Lc 8:48).
–  Và Chúa Giêsu phán:  “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh” và tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10:52).
–  Đức Giêsu nói với người phụ nữ:  “Lòng tin của chị đã cứu chữa chị, chị hãy đi bình an” (Lc 7:50).
–  Và Đức Giêsu nói với anh ta:  “Anh nhìn thấy đi.  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 18:42).
Giờ đây tôi cùng cầu nguyện với các thánh tông đồ và tôi cũng nói:  “Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con!” (Lc 17:6); “Xin hãy giúp vì lòng tin yếu kém của con” (Mc 9:24).
3.  Tôi cầu nguyện cùng Chúa Lời
a)  Đương đầu với cuộc sống:
Lạy Chúa, con đã gom góp được những mật ong tốt lành Lời Chúa từ Kinh Thánh của Thiên Chúa; Chúa đã ban cho con ánh sáng, Chúa đã nuôi dưỡng trái tim con, Chúa đã cho chỉ con thấy chân lý.  Con biết rằng trong số những người bị phong cùi đó, trong số những người bị bệnh nan y, con cũng ở đó và con biết rằng Chúa đang đợi chờ con, để con quay trở lại, đầy niềm vui, để dự tiệc Thánh Thể với Chúa, trong tình thương xót của Người.  Con cũng khấn cầu Chúa ban cho con ánh sáng của Thần Khí Chúa để con có thể thấy rõ, nhận biết và để cho Chúa thay đổi con.  Chúa hỡi, con đang mở rộng trái tim con, cuộc sống con, trước thiên nhan Chúa đây … xin hãy đoái nhìn con, xin hãy hỏi han đến con, xin hãy chữa lành con.
b)  Một vài câu hỏi:
  Nếu vào ngay giờ khắc này, Chúa Giêsu đi ngang qua đời tôi, Chúa sẽ dừng chân để bước vào làng của tôi, tôi có sẽ sẵn sàng chào đón, chấp nhận Ngườikhông?  Liệu tôi có sẽ vui mừng để đón Người vào nhà không?  Tôi có sẽ mời Người, sẽ cố nài nỉ, giống như các môn đệ ở Emmau chăng?  Hãy nghe đây, Người đang đứng ngoài cửa và đang gõ cửa…  Tôi có sẽ đứng lên và ra mở cửa cho Người Yêu của tôi không? (Dc 5:5)
  Mối quan hệ của tôi với Người như thế nào?  Tôi có thể gọi Người bằng tên, như những người phong cùi đã làm, ngay cả nếu phải gọi từ đàng xa, với tất cả mọi sức lực của đức tin của họ không?  Liệu rằng lời cầu khẩn đến danh thánh Chúa Giêsu có luôn được thốt ra từ con tim tôi, từ miệng lưỡi tôi không?  Khi tôi đang gặp nguy hiểm, trong lúc đau khổ, khóc lóc, tên của ai sẽ được thốt lên một cách tự phát từ miệng lưỡi tôi?  Tôi có thể không cố gắng và không chú ý nhiều tới khía cạnh này, nó có vẻ như phụ thuộc, không có giá trị lắm, thay vì cho thấy một thực tại sâu sắc và mạnh mẽ không?  Tại sao tôi không bắt đầu nhủ thầm danh thánh Chúa Giêsu trong tim tôi, thậm chí chỉ với đôi môi của tôi, như một lời kinh nguyện, như một bài thánh ca?  Điều này có thể được đồng hành với tôi trên đường đến sở làm, trong khi tôi đi bách bộ, trong khi tôi làm việc này việc nọ…
  Liệu tôi có đủ can đảm để trình bày chân thành những ác ý, tội lỗi của tôi như những căn bệnh thực sự không?  Chúa Giêsu bảo mười người phong cùi đi gặp các thày tư tế, như theo luật Do-Thái, nhưng hôm nay, cũng đối với tôi, điều này thật là quan trọng, không thể thiếu được để sống với đoạn Tin Mừng này:  tôi tự nhủ, nên phơi bày ra ánh sáng những gì đã làm tôi đau khổ trong lòng và ngăn chặn tôi khỏi sự thanh thản, hạnh phúc, bình an.  Nếu không thể làm việc này trước một linh mục thì ít nhất thật là cần thiết tôi phải đặt mình trước mặt Chúa, mặt đối mặt với Người, không mặt nạ, không dấu diếm bất cứ một điều gì và nói với Người tất cả sự thật về tôi.  Chỉ bằng cách này mới có thể thực sự chữa lành.
  Ơn cứu rỗi của Chúa dành cho tất cả mọi người; Người yêu thương tất cả với một tình yêu bao la.  Nhưng rất ít người đã mở lòng mình để nhận lãnh sự hiện diện của Người trong đời sống của họ.  Một trong mười người.  Tôi đang đặt mình về phía bên nào?  Tôi có thể nhận ra được tất cả những điều tốt đẹp mà Chúa đã làm cho tôi trong đời tôi không?  Hay tôi chỉ biết tiếp tục phàn nàn, luôn luôn mong muốn điều gì đó hơn nữa, quở trách và buộc tội, phản đối, đe dọa?  Tôi có thực sự biết làm thế nào để nói lời cảm ơn, một cách chân thành, với lòng biết ơn, tin rằng tôi đã nhận được tất cả mọi thứ, rằng Chúa luôn luôn ban cho tôi dư thừa?  Thật là rất tốt đẹp nếu tôi chịu bỏ ra một ít thời giờ để cảm tạ Chúa về tất cả những lợi ích Người đã ban cho tôi trong suốt cuộc đời, vì tôi có thể nhớ hết cho đến bây giờ. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ có thể làm xong, bởi vì sẽ luôn có những việc gì khác hiện đến trong tâm trí tôi.  Sau đó, điều duy nhất tôi có thể làm được là giống như người bị phong cùi kia, người duy nhất trong số mười người:  quay trở lại, chạy đến bên Chúa và phủ phục dưới chân Người, lớn tiếng ngợi khen Người.  Tôi có thể làm việc này bằng cách hát một bài thánh ca, hoặc chỉ lặp đi lặp lại lời tạ ơn của tôi, hay có lẽ khóc vì vui sướng.
  Và giờ đây tôi lắng nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu:  “Con hãy đứng dậy mà đi”.  Sau kinh nghiệm này, tôi không thể không bước tới, không thể sống khép mình trong thế giới riêng của tôi, trong mối phúc thật bình an của tôi và quên đi hết mọi chuyện.  Tôi phải đứng dậy, đi ra, và tiến bước trên đường.  Nếu Chúa đã chúc phúc cho tôi, đó là mệnh lệnh tôi phải đem tình yêu của Người đến cho anh em tôi.  Niềm vui của cuộc gặp gỡ với Người và việc đã được chữa lành trong tâm hồn sẽ không bao giờ là sự thật nếu nó không được chia sẻ và phục vụ cho những người khác.  Một lần xảy ra là quá đủ, mang đến cho tâm trí tôi rất nhiều bạn bè, rất nhiều người, hoặc gần hoặc xa tôi, những người đang cần niềm vui và hy vọng.  Nếu thế, tại sao tôi không bắt tay vào việc ngay lập tức?  Tôi có thể gọi điện thoại, gửi lời nhắn, viết thư hoặc thậm chí một vài dòng chữ ngắn, hoặc có lẽ tôi có thể đi ghé thăm một ai đó, bầu bạn với người ấy và mạnh dạn nói về cái hay và niềm vui khi có Chúa Giêsu như một người bạn hữu, người thày thuốc, Đấng Cứu Độ của tôi.  Bây giờ là thời điểm để làm điều đó.
c)  Tôi cầu nguyện với một bài Thánh Vịnh
 Lạy Chúa, con kêu lên tới Chúa, và Người đã chữa lành con.
Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được CHÚA tha thứ,
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
nhưng gân cốt con rã rời, cả ngày con gào thét.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Người,
chẳng giấu Người lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa,”
và chính Người đã tha thứ tội vạ cho con.
Vì thế, ai là người hiếu trung với Chúa
sẽ kêu cầu Người lúc gặp cảnh gian truân;
cho dầu nước lũ có ngập tràn
cũng không dâng tới họ.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Chúa rằng: “Này đây Ta răn dạy,
chỉ cho con biết đường lối phải theo,
để mắt nhìn con, Ta ban lời khuyên nhủ.
Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
4.  Tôi chiêm niệm và tôi ngợi khen
 Lạy Chúa, con đã chạy đến cùng Chúa từ sự cô độc và cô lập, với tất cả những nặng nềvà xấu hổ về tội lỗi củacon, sự bệnh hoạn của con.  Con đã kêu van, con đã thú nhận, con khẩn cầu lòng thương xót Chúa, vì Chúa là Tình Yêu.  Chúa đã nghe con ngay cả trước khi con có thể kết thúc lời cầu nguyện thô thiển của con, thậm chí từ đàng xa Chúa đã biết đến con và lắng nghe con.  Chúa biết tất cả mọi sự về con, nhưng Chúa không bị kinh hoảng, Người không coi thường, không xa lánh con.  Và chỉ điều này đã đủ để cho con tín thác vào Chúa, rộng mở trái tim con và ơn cứu độ của Chúa đã tuôn đổ xuống con.  Con đã cảm thấy niềm an ủi từ sự hiện diện của Chúa.  Con hiểu rằng Chúa đã chữa lành con.  Rồi sau đó, lạy Chúa, con đã không thể làm được điều gì khác hơn là quay trở lại cùng Chúa, để ít nhất nói nên lời cảm tạ Chúa, để khóc với niềm vui sướng dưới chân Người.  Con đã nghĩ con không có một ai ở cạnh, không thể chịu đựng nổi, không thể vượt khỏi bất cứ thử thách nào; nhưng thay vào đó, Chúa đã cứu con, Chúa đã cho con thêm một cơ hội để bắt đầu trở lại.
Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa vì con không còn là một người bị phong cùi nữa!  Con đã vất đi quần áo tơi tả của con và mặc vào lễ phục.  Con đã phá vỡ sự cô lập của tủi hổ, của khắc nghiệt và con đã bắt đầu thoát xác, để lại phía sau là ngục tù của con.  Con đã chỗi dậy, con đã hồi sinh.  Hôm nay, với Chúa, con bắt đầu sống lại.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét