Trang

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

28-08-2020 : THỨ SÁU - TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN - THÁNH ÂUTINH, GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH

 

28/08/2020

 Thứ Sáu tuần 21 thường niên.

 Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.

 Lễ nhớ.



Thánh nhân sinh năm 354 tại Ta-gát, châu Phi. Người đã trải qua giai đoạn thanh xuân đầy náo động cả về đạo lý lẫn cách sống cho tới khi được thánh Am-rô-xi-ô thanh tẩy cho năm 387. Người trở về quê hương và sống một cuộc đời khắc khổ. Rồi người được chọn làm giám mục giáo phận Híp-pôn. Trong suốt ba mươi bốn năm làm giám mục, người đã tận tụy chăm sóc đoàn chiên. Nhưng đáng kể nhất là tư tưởng và chứng tá đời sống của người đã lan tỏa. Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn lo tìm kiếm Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Đối với người, Hội Thánh là cộng đoàn tín hữu Híp-pôn và đồng thời cũng là Thân Thể Chúa Kitô trải rộng khắp thế giới. Người qua đời năm 430.

 

Thánh Augustino, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

BÀI ĐỌC I: 1 Ga 4, 7-16

“Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Điều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.

Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo.

Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta: là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con Mình làm Đấng Cứu Thế.

Ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin vào tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là lời Chúa.

 

ALLELUIA: Mt 23, 9a. 10b

Alleluia, alleluia! – Các con chỉ có một Cha, Người ngự trên trời; và các con có một Đấng chỉ đạo, đó là Đức Kitô. – Alleluia. 

 

PHÚC ÂM: Mt 23, 8-12

“Các con cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các con có một Đấng chỉ đạo, đó là Đức Kitô”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Phần các con, đừng bắt người ta gọi là Thầy: vì các con chỉ có một Thầy, còn tất cả các con đều là anh em với nhau. Và các con cũng đừng để người ta gọi là Cha: vì các con chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các con cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các con có một Đấng chỉ đạo, đó là Đức Kitô.

“Người trọng đại nhất trong các con sẽ là người phục vụ các con. Phàm ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”. Đó là lời Chúa.

—————————————————–

Lễ Thường Niên

BÀI ĐỌC I:  1 Cr 1, 17-25

“Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm đối với người đời, nhưng là sự khôn ngoan đối với những người Thiên Chúa kêu gọi”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không.

Vì chưng lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: “Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của những người thông sáng”. Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được kêu gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người. Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 10ab và 11

Đáp: Địa cầu đầy ân sủng của Chúa (c. 5b).

Xướng:

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. – Đáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. – Đáp.

3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. – Đáp. 

 

ALLELUIA: 1 Tx 2, 13

Alleluia, alleluia! – Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa, và đích thực là thế. – Alleluia. 

 

PHÚC ÂM: Mt 25, 1-13

“Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

“Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: ‘Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: ‘E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn’. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi’. Nhưng người đáp lại: ‘Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi’. Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào”. Đó là lời Chúa.

 


SUY NIỆM : Tích cực sống đức tin

Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.

Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.

Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.

Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.

Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

 


Lời Chúa Mỗi Ngày

Thánh Augustinô, Tiến Sĩ Hội Thánh

Bài đọc1 Jn 4:7-16; Mt 23:8-12

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa là sự thật và tình yêu hoàn hảo nhất.

            Để hiểu Lời Chúa hôm nay, tôi thiết nghĩ, tìm hiểu đôi nét về cuộc đời của Thánh Augustinô sẽ giúp làm sáng tỏ các điều còn ẩn giấu trong đó. Augustinô là một người rất thông minh và giỏi lý luận. Tuy là người có đạo từ nhỏ, nhưng không dùng Kinh Thánh để đi tìm Thiên Chúa. Ông bị lung lay niềm tin vào chạy theo bè rối Manicheanism. Ông rất thích học triết học La-Hy, đặc biệt Neoplatonism của Plotinus, và thuật hùng biện của họ; vì ông nghĩ ông có thể dùng sự khôn ngoan và lý luận của mình để tìm ra sự thật.

            Nhưng Augustinô đã lầm to, ông không thể tự mình tìm ra sự thật; ông phải nhờ đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa mới có thể hiểu biết về Ngài, như ông đã tự thú, “Bị thúc đẩy để suy tư về chính con, con được dẫn vào chiều sâu thẳm nhất của linh hồn con dưới sự hướng dẫn của Ngài. Con đã có thể làm được điều đó chỉ vì Ngài là người giúp đỡ con.” Giống như Thánh Thomas Aquinas, Augustinô gọi sự giúp đỡ từ Thiên Chúa là “ánh sáng bất biến;” một thứ ánh sáng khác hẳn với mọi thứ ánh sáng khác được cảm nhận bởi giác quan. Nó là ánh sáng soi sáng và hướng dẫn linh hồn để hiểu những sự thật của Thiên Chúa. Không có ánh sáng này, con người không thể hiểu những sự thật của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể soi sáng trực tiếp trên trí tuệ con người vì Ngài dựng nên họ.

            Augustinô thú nhận ông đã tìm cách để có sức mạnh cần thiết để chiêm ngắm Thiên Chúa, nhưng ông không thể tìm được cho đến khi ông tìm đến Đức Kitô, người trung gian giữa Thiên Chúa và con người, vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa muôn đời. Chính Đức Kitô đã mặc khải, “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Jn 14:6). Ngài là Lời đã hoá thành xác thịt, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa qua đó Thiên Chúa tạo dựng mọi sự. Ngài có thể cung cấp cho chúng ta, con cái của Ngài, sữa khôn ngoan.

            Khi đã cảm nghiệm được sự dịu ngọt và bình an của Thiên Chúa, Augustinô đã đau đớn thú nhận những lời này, “Con biết Ngài muộn màng quá, Ôi sắc đẹp cổ kính nhưng luôn mới! Ngài đã ở trong con, nhưng con đã ở ngoài và con đi tìm Ngài ở bên ngoài. Trong những xấu xa của con, con đã gieo mình vào những tạo vật do Ngài sáng tạo. Những tạo vật này, nếu Ngài không tạo dựng chúng sẽ không bao giờ hiện hữu, ngăn ngừa con đến với Ngài. Ngài đã gọi, đã thét lên, và đã phá vỡ bệnh điếc của con. Ngài đã chớp, đã chiếu sáng, và đã làm tiêu tan sự mù loà của con. Ngài đã thở hương thơm của Ngài trên con; con đã hít lấy và khao khát Ngài. Con đã nếm thử Ngài, và giờ đây con đói khát Ngài hơn nữa. Ngài đã đụng chạm con và con đã tiêu tan trong bình an của Ngài.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC 

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa là tình yêu.

1.1/ Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước: Tác giả Thư Gioan thứ nhất dạy chúng ta nhiều điều quan trọng về tình yêu:

            (1) Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vì yêu thương con người, và nếu Ngài ghét bỏ điều gì, điều đó sẽ không có mặt trong cuộc đời. Mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Thiên Chúa: tình yêu vợ chồng, tình yêu cha mẹ, anh em, bạn hữu…

            (2) Ai yêu thương, người ấy được Thiên Chúa sinh ra: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh (selem) và đức tính (demut) của Ngài (Gen 1:26; 5:1-3). Con người giống Thiên Chúa nhất ở đức tính con người biết yêu thương. Thánh Gioan xác tín: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.”

            (3) Cách biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa: Ngài đã biểu lộ bằng nhiều cách trong vũ trụ và trong lịch sử; nhưng theo thánh Gioan, cách biểu lộ tuyệt vời nhất là Ngài đã hy sinh cho chúng ta Người Con Một: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.”

            (4) Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Thiên Chúa là Người đi bước trước. Ngài yêu thương con người khi họ chẳng có gì đáng yêu cả, khi họ vẫn còn là các tội nhân: “Chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”

1.2/ Chúng ta cũng phải yêu thương nhau: Như đã nói trên, điều làm cho con người giống Thiên Chúa nhất là họ biết yêu thương: họ biết yêu thương đáp trả tình yêu Thiên Chúa và biết yêu thương nhau. Thánh Gioan truyền cho các tín hữu của Ngài: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” Tính hỗ tương của tình yêu còn được nhấn mạnh hơn nữa trong Tin Mừng Gioan: “Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Jn 15:9). “Như Thầy yêu mến anh em thế nào, anh em cũng phải yêu mến nhau như vậy” (Jn 13:34).

            Có nhiều loại tình yêu khác nhau trong cuộc đời như tình yêu lãng mạn giữa trai gái, tình yêu chung thủy giữa vợ chồng, tình yêu huynh đệ giữa anh em hay những người chung chí hướng, tình yêu thương xót khi gặp người đau khổ… Đức Giáo Hoàng Benedict trong Thông Điệp Deus Caritas Est, # 10-11, cho rằng tất cả tình yêu đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, nhưng tất cả tình yêu này đều bất toàn so với tình yêu của chính Thiên Chúa, vì cách nào đó chúng vẫn còn tính vị kỷ. Tình yêu hoàn hảo nhất mà con người cần đạt đến là tình yêu của Thiên Chúa, vì với tình yêu này, con người có thể yêu thương tha nhân như chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Với tình yêu này, con người có thể đáp ứng những đòi hỏi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthew, chương 5, là yêu thương ngay cả kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho những người bách hại chúng ta…

2/ Phúc Âm: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy.”

2.1/ Giá trị giới hạn của kiến thức và tình yêu của con người: Tục ngữ Việt-Nam dạy, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo.” Lời nói có thể chỉ cho con người biết điều đúng sai, nhưng gương sáng có sức hấp dẫn để người khác làm theo như vậy. Người lãnh đạo hoàn hảo là người biết dùng cả lời nói lẫn hành động để hướng dẫn những người dưới quyền mình làm theo những gì họ muốn. Tuy nhiên, nếu không tìm thấy một người lãnh đạo hoàn toàn như thế, người lãnh đạo chỉ bằng lời nói cũng có thế giá giới hạn của họ như Chúa Giêsu đã công nhận giá trị dạy dỗ của các Kinh-sư và Biệt-phái.

2.2/ Giá trị vĩnh cửu của sự thật và tình yêu của Thiên Chúa: Chúa Giêsu đã tố cáo những tật xấu của các luật-sĩ và Pharisees:

            (1) Họ là những người làm luật và kiểm soát những người lỗi phạm luật; vì thế họ đặt ra rất nhiều luật đến độ quá chi li không cần thiết, chẳng hạn cách thức rửa tay trước khi ăn hay đóng thuế thập phân những lá cây như bạc hà. Chúa buộc tội: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.”

            (2) Họ làm việc cốt để cho thiên hạ thấy: Tất cả những việc đạo đức họ làm không vì Thiên Chúa, nhưng để cho người đời trông thấy để khen ngợi họ. Tuy việc đeo hộp kinh và mang tua áo trong khi cầu nguyện là việc luật buộc phải làm để nhắc nhở họ phải không ngừng nhớ tới Thiên Chúa là Chúa của họ (hộp kinh: Exo 13:16, x/c Deut 6:8, 11:18; tua áo: Num 15:37-41, Deut 22:12); nhưng để kéo sự chú ý của người khác, họ thi nhau làm những hộp kinh lớn hơn và đeo những tua áo dài hơn.

            (3) Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Trong các đám tiệc, chỗ nào quan trọng nhất là chỗ của họ, chẳng hạn ngồi bên trái hay phải của chủ nhà hay cùng bàn với những nhân vật quan trọng. Trong hội đường Do-thái, những ghế trên đầu là những ghế dành cho những người già cả và vị vọng. Họ muốn những ghế này để tỏ cho thiên hạ biết mình quan trọng và chú ý tới cách ăn mặc của họ cũng như các việc họ làm.

            (4) Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rabbi.” Người luật sĩ và Pharisees quan niệm dân chúng phải đối xử với họ như những công dân bậc nhất, hơn cả cha mẹ, vì cha mẹ chỉ có công về phần xác; trong khi họ có công về phần tinh thần và tinh thần quan trọng hơn thân xác.

            Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm không cho các môn đệ gọi ai là “rabbi,” “cha,” hay “người lãnh đạo”? Ở đây Chúa muốn nhắc nhở cho các môn đệ đừng tôn thờ ai như thần tượng của mình để bắt chước họ ngòai một mình Thiên Chúa. Sau cùng, Chúa nhắc nhở con người về tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG

            – Cuộc đời của thánh Augustinô phải là bài học kinh nghiệm cho chúng ta, nhất là những người trẻ, biết rằng: Đừng mong tìm được sự thật của Thiên Chúa ngoài Kinh Thánh. Nói cách khác, nếu muốn biết các sự thật vĩnh cửu, chúng ta phải học Kinh Thánh.

            – Muốn đến với Thiên Chúa, chúng ta phải ngang qua Đức Kitô. Một cuộc sống cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Đức Kitô sẽ giúp chúng ta am tường về Thiên Chúa, như thánh Thomas Aquinas nhận định, “Tôi học được nhiều hơn hết từ Thập Giá của Đức Kitô.”

            – Đừng dại nhận ai là thần tượng của đời mình, ngoài Thiên Chúa. Ngài là Người có quyền tối thượng trên hết mọi sự và yêu thương chúng ta nhất. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

 

 

28/08/2020 – THỨ SÁU TUẦN 21 TN

Th. Au-gút-ti-nô, giám mục, tiến sĩ HT

Mt 25,1-13



CHUẨN BỊ CHO CUỘC GẶP GỠ

“Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” (Mt 25,8)

 

Suy niệm: Theo phong tục Do Thái, để tránh cái nóng ban ngày, việc rước dâu thường diễn ra ban đêm, có khi là nửa đêm. Các trinh nữ phụ dâu phải chuẩn bị đèn và dầu dự trữ, để trong trường hợp chàng rể bất ngờ đến chậm, các cô sẵn sàng bước vào phòng tiệc với đèn cháy sáng trong tay. Chàng rể Giê-su cũng sẽ đến bất ngờ để đưa ta vào Tiệc cưới vĩnh cửu của Nước Trời. Mỗi ki-tô hữu cũng được mời gọi chuẩn bị sẵn sàng đèn-dầu là niềm vui, việc lành phúc đức, là sống thánh giây phút hiện tại, cho cuộc gặp gỡ tuy không được báo trước, nhưng chắc chắn sẽ đến, với Đấng Lang quân của đời mình.

Mời Bạn: Thánh Au-gút-ti-nô đã từng là “trinh nữ khờ dại” trong cuộc sống sa đoạ, chạy theo tư tưởng lạc giáo, nhưng đã hoán cải trở thành “trinh nữ khôn ngoan” say mê Thiên Chúa. Có thể bạn đang là “trinh nữ khờ dại” nhưng hãy hoán cải để trở thành “khôn ngoan” “thưởng thức và sống trọn vẹn cái hiện tại, dùng các năng lực của mình vào những điều tốt lành, vun xới tình huynh đệ, học theo Đức Giê-su và tận dụng những niềm vui bé nhỏ của đời sống… là những quà tặng của tình yêu Thiên Chúa” (Christus Vivit 147).

Chia sẻ: Bạn đang chuẩn bị đèn-dầu của mình như thế nào để sống đời Ki-tô hữu tốt lành, chờ đợi ngày Chúa đến?

Sống Lời Chúa: Tôi tận dụng các cơ hội trong ngày sống, tạo ra những khoảnh khắc đầy tràn yêu thương, để giữ sáng ngọn đèn đức tin của mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, các đam mê, sự đơn điệu của ngày sống kéo ghì con xuống, con quên mất tích trữ dầu tin-cậy-mến. Xin Chúa biến đổi con. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

 

 

SUY NIỆM : Vừa mang đèn, vừa mang dầu

Suy niệm :


Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.

Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.

Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua

nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.

Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau

trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi.

16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.

Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996),

nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.

Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,

lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.

Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.

Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,

như chú rể đến lúc nửa đêm.

Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,

hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.

Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.

Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.

Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.

Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.

Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.

Nhưng muộn quá!

“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”

Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,

khiến đèn của mình hết dầu.

Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,

vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.

Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,

không mang dầu dự trữ.

Có đèn. Không đủ!

Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.

Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.

Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!

Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!

Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.

Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.

Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,

có những người đèn đã hết dầu từ lâu...

Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.

Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,

của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.

Cần châm thêm dầu mỗi ngày...

Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Tỉnh thức không phải là không ngủ...

Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.

Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,

nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.

Chẳng ai biết lúc nào tận thế.

Chẳng ai biết giờ chết của mình.

Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,

trong biến cố nào, nơi con người nào.

Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.

Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,

khi nhận ra mình đã mê muội.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào...

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

28 THÁNG TÁM

Bên Thềm Thiên Niên Kỷ Thứ Ba

Một vấn đề quan trọng khác mà các nghị phụ Thượng Hội Đồng đặc biệt ưu tư, đó là nhu cầu huấn luyện và đào tạo các linh mục tương lai. Giáo Hội của thiên niên kỷ thứ ba sẽ được ủy thác trong tay và trong sự săn sóc mục vụ của những thế hệ linh mục mới. Đời sống và sứ vụ của họ phải là một sự diễn dịch sống động các giáo huấn của Công Đồng. Họ phải đảm nhận trách nhiệm lớn lao – đó là triển khai các giáo huấn của Công Đồng trong đời sống của dân Thiên Chúa.

Tiếng gọi đại kết cũng là một tiếng gọi hết sức thúc bách. Thực vậy, các nghị phụ nhấn mạnh vai trò của Công Đồng Vatican II trong việc thúc đẩy phong trào đại kết. Chúng ta chứng kiến những bước tiến chắc chắn và đều đặn hướng về hiệp nhất, một số kết quả đầy triển vọng đã bắt đầu hiện lộ ra. Tôi đã tham dự buổi cầu nguyện cùng với mười quan sát viên đến từ các nhóm và các Giáo Hội khác nhau để tham gia vào cuộc đối thoại thần học với Giáo Hội Công Giáo.

Tất cả những vấn đề ấy nằm ở trung tâm ưu tư của Thượng Hội Đồng, và đã dấy lên một sự hưởng ứng sôi nổi. Một lần nữa, Thánh Thần đã nói với Giáo Hội với “tiếng nói như nước lũ” (Kh 1,15; 2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Chúng ta hãy chú ý lắng nghe Ngài.

Bản Báo Cáo Chung Kết của Thượng Hội Đồng là một tổng hợp quan trọng các suy tư và các điểm nhắm cho tương lai mà mọi người được kỳ vọng hướng tới. Đây không phải là những từ ngữ suông. Đây là một nỗ lực mời gọi cầu nguyện, lắng nghe và áp dụng. Đây là những hướng dẫn cho hoạt động mục vụ của Giáo Hội trong những năm cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai. Chúng ta hãy lắng nghe Thánh Thần.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

 

 

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 28/8

Thánh Augustinô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

1Cr 1, 17-25; Mt 25, 1-13.







LỜI SUY NIỆM: “Xin các chị cho chúng em ít dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!”

          Trong câu chuyện dụ ngôn “Mười cô trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể” cho chúng ta thấy được trong đó có năm cô khôn ngoan cầm đèn trên tay có đem theo dầu dự trữ, còn năm cô khờ dại cầm đèn trong tay nhưng không mang theo dầu dự trữ. Bởi vì thời gian chờ đợi chú rể quá lâu, dầu trong đèn vơi cạn và hết, không còn sáng; đến khi chú rể đến thì đèn không còn sáng để đón chú rể; nên không được vào dự cùng bàn tiệc với chú rể. Đây là số phận của những kẻ không biết sửa soạn và chuẩn bị chu đáo.

          Lạy Chúa Giêsu. Ngày giờ Chúa đến với chúng con, khi đó chúng con không thể vay mượn nhân đức bất cứ một ai, vì mọi người chỉ vừa đủ cho mình trong giờ ấy: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu!”. Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn biết chuẩn bị dầu đủ để đèn luôn cháy sáng khi Chúa đến.

Mạnh Phương

 

 

Gương Thánh Nhân

Ngày 28-08: Thánh AUGUSTINÔ

Giám mục Tiến Sĩ Hội Thánh (354 – 430)



Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay là Souk-Akras nước Algeria. Ông Patricô, cha ngài là một tiểu nông và là nghị viên thành phố. Ong là lương dân và chỉ theo đạo vào lúc cuối đời. Mẹ Ngài là thánh Monica đã nhờ kinh nguyện, lòng nhẫn nại và tình yêu không biết mệt mỏi đã cải hoá con. Theo thói quen thời đó, Augustinô thuộc vào số những ứng viên lãnh phép rửa tội, nhưng lại trì hoãn để tránh nguy cơ phạm tội, Ngài chỉ được thánh Ambrosiô rửa tội cho sau khi trở lại vào tuổi 32.

Augustinô đã theo học những lớp về văn chương tại Thagaste và Madaura, cuối cùng Ngài theo học khoa tu từ tại Carthage. Đời sống luân lý của Ngài vào thời kỳ này không đến nỗi tồi tệ mà có lẽ khá hơn nhiều những thanh niên cùng thời và chúng ta không nên gắt gao kết án lối cư xử của Ngài theo sát chữ viết trong cuốn “tự thuật”, chắc chắn Ngài có một tình nhân và trung tín với nàng cho tới năm 385. Ngài đã có với nàng một người con tên là Adcodatus cũng vào thời này Ngài trở thành người theo phái Manichêô.

Năm 383, Augustinô đến Roma dạy tu từ và năm 384 có được một địa sở tại Milan. Lúc này Ngài đã thấu suốt được thuyết Manichêô và rơi vào tình trạng nghi nan bất định. Tại Milan Ngài có dịp tiếp xúc với vị giám mục thời danh của giáo phận nầy là thánh Ambrosiô. Các bài giảng của thánh nhân cho Ngài thấy lần đầu tiên rằng Ngài có thể tin vào Thánh Kinh như sự giải thích của Giáo hội mà không phải hy sinh sự hiểu biết của mình. Ngài còn đọc sách của những nhà tân học phái Platôn như Plotinê và Per phyry, Những sách đã chữa cho Ngài khỏi thuyết duy vật của Manichêô và đưa Ngài vào triết học linh thiêng hơn, phù hợp với mạc khải Kitô giáo.

Augustinô đã xác tín về sự chân thật của Kitô giáo vẫn chưa đi đến bước quyết định, cho tới tháng 9 năm 386 khi Ngài trải qua một kinh nghiệm bất ngờ nhưng được chuẩn bị từ trước. Ngài đã trình bày kinh nghiệm ấy trong cuốn VIII bộ “tự thuật”. Đây là cuộc trở lại Kitô giáo lẫn cuộc sống khổ hạnh đã theo đuổi bậc trọn lành. Bỏ nghề, Ngài lui về Cassiciacum, gần Milan, cùng thánh nữ Monica mẹ Ngài và Adeodatus con Ngài, với một số bạn bè. Tại đây, Ngài bắt đầu viết và xuất bản một số tác phẩm và trau dồi về triết học, những tác phẩm đầu tiên của Ngài.

Ngài được thánh Ambrosiô rửa tội vào lễ phục sinh năm 387 rồi cùng mẹ và các bạn trở về Phi Châu. Thánh nữ Monica qua đời trên đường về tại Ostia. Tại Phi Châu theo lời khuyên của Đức Cha Valêriô địa phận Kippô, Ngài xin làm linh mục và được thụ phong năm 391. Năm 395, Ngài được tấn phong làm giám mục phụ tá và chẳng bao lâu sau lên kế vị đức cha Valêriô làm giám mục Hippô. 35 năm còn lại, Ngài bận rộn với công việc mệt nhọc của một giám mục địa phận, đồng thời vẫn dành giờ để trước tác. Ngoài tác phẩm được biết nhiều là bộ “tự thuật” còn nhiều tác phẩm thần học của Ngài (gồm 96 cuốn không kể các bài giảng và thư tín) đã mang lại sức sống mãnh liệt cho Giáo hội thời đó lẫn ngày nay.

Thánh Augustinô sống đời tu viện với hàng giáo sĩ và làm mọi sự để khích lệ việc canh tân các cộng đoàn tu sĩ. Hai bài giảng về đời sống khổ hạnh trong cộng đoàn và một bức thư dài về các nguyên tắc mà Ngài viết cho các cộng đoàn nữ tu do Ngài thành lập và em Ngài là bề trên tiên khởi, làm thành “luật thánh Augustinô”.

Thánh Possidiô bạn Ngài đã viết một bản tường thuật rất hay về đời giám mục của thánh Augustinô. Bản tường thuật này cho thấy Ngài là một người rất nhân bản, dễ thương và giàu lòng bác ái, tận tụy phục vụ cộng đoàn, thích sống nghèo khó nhưng lại hiếu khách. Chỉ có một điều Ngài không thể tha thứ được là gương mù tại bàn ăn. Ngài luôn dấn thân vào việc bệnh vực Giáo hội chống lại các người theo lạc giáo như những người theo phái Manichêô, Phômatô, Pêlagiô. Cuộc tranh luận với Pêlagiô đã để lại những bút tích của thánh Augustinô về ơn thánh. Với ảnh hưởng lớn lao trong Giáo hội sau này. Dầu nhiệt tâm chống lại lạc thuyết, thánh Augustinô vẫn luôn lịch sự và thân ái khi đối thoại với các người theo lạc giáo.

Thánh Augustinô đã sống để chứng kiến cuộc xâm lược man rợ của người Vandal vào Phi Châu bắt đầu từ năm429. Ngày 28 tháng 8 năm 430 Ngài từ trần, hưởng thọ 76 tuổi, Ngài không để lại chúc thư vì không có tài sản gì. Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ngài được ghi nhận là phong phú nhất sau thánh Phaolô.

(daminhvn.net)

 

 

28 Tháng Tám

Con Yêu Chúa Quá Muộn Màng



“Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung.

Con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.

Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa. Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa.

Chúa đã gọi tên con, Chúa đã lớn tiếng kêu gọi con, Chúa đã đâm thủng đôi tai giả điếc làm ngơ của con.

Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.

Chúa thở ra hơi thơm ngào ngạt, con hít vào và con khao khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con luôn cảm thấy nung nấu được hưởng sự bình an của Chúa”.

Trên đây là một đoạn trong quyển “Tự Thú” của thánh Augustinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Sau khi ăn năn trở lại, ngài đã nhận lãnh Phép Rửa vào năm 33 tuổi, chỉ sau đó 3 năm ngài được phong chức linh mục, 5 năm sau đó được đề cử làm giám mục thành Hippone.

Duyệt qua cuộc sống của thánh Augustinô, chúng ta có thể nói: Ngài là một tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ được Thiên Chúa đến gõ cửa lòng bằng câu nói mạnh mẽ của thánh Phaolô: “Ðừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô”.

Và kể từ đó, có thể nói được là Tình Yêu Thiên Chúa không bao giờ buông tha ngài, trái lại tạo trong tâm hồn ngài một sự khắc khoải và khao khát để đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.

Ngoài lời mời gọi và thôi thúc của Tình Yêu Thiên Chúa, quãng đầu cuộc đời của Augustinô, một tội nhân trở thành thánh nhân, có lẽ được vẽ lại bằng những nét chấm phá và những bàn tay cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải như sau:

Trước tiên, cường độ của sức sống nơi ngài trên con đường thụt lùi xa lìa Thiên Chúa cũng như cường độ mãnh liệt hơn của sức sống ấy trên con đường tiến về Thiên Chúa.

Tiếp đến, những dòng nước mắt sầu đau và những kinh nguyện thành tâm của mẹ ngài, bà thánh Mônica dâng lên Thiên Chúa trong kiên tâm, bền chí ròng rã bao năm trời.

Và sau cùng là sự hướng dẫn tận tình của thánh Giám Mục Ambrôsiô.

Tất cả những yếu tố trên cộng lại đã giúp chuyển tình yêu cuộc sống thành một cuộc sống cho và vì Tình Yêu, như thánh nhân đã tự thú trong đoạn sách được trích dẫn ở trên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ, ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung”.

(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét