Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

02-02-2014 : CHÚA NHẬT IV MÙA THƯỜNG NIÊN Năm A - DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH (phần II)

02/02/2014
CHÚA NHẬT IV MÙA THƯỜNG NIÊN Năm A
LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
(phần II)

GLP LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH & CN 4 TN A 


         

Sách Ngôn Sứ Malakia 3.1-4;
Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái 2.10-11, 13b-18
và Phúc Âm Thánh Luca 2.22-40
I. Giáo Huấn P.Â.:
Chúa Giêsu thật sự nhập thể: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa nhưng “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện” Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh bởi người phụ nữ và sống dưới chế độ lề luật. Ngài được dâng vào đền thánh như bao trẻ em trai đầu lòng của người Do Thái.

Dâng Chúa trong đền thánh mang ý nghĩa thánh: Đấng Thánh vào đền Thánh. Đấng Thánh thành hiến tế tạ ơn và cứu độ.

Đấng Thánh thỏa đáp sự chờ mong ơn cứu độ của muôn người. Chúa Giêsu được dâng trong đền thánh là một tiên báo Ngài sẽ dâng chính mình và nhân loại trên đồi Calvariô.

Sư hiện diện của Chúa Giêsu, Con thiên Chúa thành một chọn lựa cho con người: Muốn cứu độ hay muốn bị khai trừ là do thái độ chấp nhận hay từ chối Con Thiên Chúa.

II.Vấn nạn P.Â.:
Lịch sử Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh

Luật dâng con trái đầu lòng cho Thiên Chúa được ghi trong:

Sách Xuất Hành 13.11-16 như sau: Các con đầu lòng

"Vậy khi Ðức Chúa đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi thì ngươi phải nhượng lại cho Ðức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Ðức Chúa. Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: "Ðiều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: "Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên Ðức Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng Ðức Chúa mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại. Ðó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập."

 Luật dâng con đầu long cũng có ghi trong sách Lêvi 12.1-8; sách Tiên Tri Isaia 88.14...
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi.

Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, cũng gọi là Lễ Nến, Lễ Thanh Tẩy.

Thanh tẩy là Thanh tẩy Đức Mẹ Maria. Trước mắt mọi người Đức Mẹ như một phụ nữ bình thường: chung sống với chồng, mang thai, sinh con và bị ô uế, nên cần thanh tẩy như mọi người theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu.  Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.

Trong Lịch sử Giáo Hội: Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh được cử hành 40 ngày sau Lễ Giáng sinh đã thấy xuất hiện từ thế kỷ thứ V tại Giêrusalem. Và mãi đến năm 650 mới thấy được cử hành tại Rôma. Ý của Thánh lễ lấy ra từ Tin mừng Luca 2. 22-40.

Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Đức Giáo Hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.

Ý nghĩa Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh liên quan ngày lễ thắp nến: Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là "ánh sáng soi đường cho dân ngoại" (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem. Ngày nay, trong nghi thức rửa tội, sau khi đã xối nước thì xức dầu thánh trên trán thụ nhân, mặc áo trằng và trao đèn cháy sáng. Đèn sáng trong tay ngày rửa tội cũng nói lên sứ mạng người Kitô hữu: nhận lấy ánh sáng chúa Kitô và soi chiếu đời sống tốt cho muôn dân đang đi trong bóng tối tội lỗi. 

Ý nghĩa Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh liên quan ngày thế giời cầu nguyện cho đời sống thánh hiến. Trong ngày nầy, Giáo Hội toàn cầu cũng cầu nguyện cho đời sống thánh hiến của tu sĩ nam nữ. Lịch sử cho biết: Năm 1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thành lập một ngày cầu nguyện cho tu sĩ nam nữ biết thánh hiến cuộc sống. Lễ này được tháp nhập vào ngày Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, cử hành ngày 2 tháng 2. Lễ này còn được gọi là ngày lễ thắp nến; ngày mà cây nến được thắp lên tượng trưng cho Chúa Kitô là ánh sáng trần gian. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện cho mọi tu sĩ Nam Nữ biết thánh hiến cuộc sống mình để mang Chúa Kitô là ánh sáng đến cho trần gian.

Đức Mẹ Ma-ri-a dâng con Thiên chúa cho Thiên Chúa, có cần phải làm vậy không?  Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, để  Đức Mẹ cũng được thanh tẩy theo luật, Có cần phải làm vậy không?

Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa, là Con Thiên chúa, là người của Thiên Chúa. Hơn nữa luật dâng con trai đầu lòng là để tạ ơn Thiên chúa đã bênh vực dân Israel và cứu sống con trai đầu lòng của họ. Nên không cần dâng Ngài cho Thiên chúa. Tuy nhiên ai biết Ngài là Con Thiên Chúa hay là Thiên chúa để miễn trừ việc giữ luật nầy? Hơn nữa, Ngài được sinh ra bởi một người phụ nữ, sống dưới chế độ luật và tuân hành lề luật một cách trọn vẹn.

Chúng ta hay con cái chúng ta, tất cả đều là Con Thiên Chúa. Chúng là con cái của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cần dâng chính mình hay dâng con cái mình cho Thiên Chúa.  Dâng là hành động xác quyết của thuộc về. Dâng mình cho chúa hay dâng con mình cho Chúa qua bí tích rửa tội là một lời nguyện tiến lễ: Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những gì thuộc về Ngài để chứng tỏ rằng chúng con là của Chúa. Chính chúa cho chúng con sinh ra và làm người và được ơn cứu độ.

Nên việc dâng Chúa vào đền thánh thành một cần thiết, không vì lề luật nhưng là một xác quyết của dâng hiến và tình yêu: Này con xin đến, để làm theo ý Cha… như Chúa đã cầu nguyện sau nầy.

Đức Mẹ là một trinh nữ mang thai Chúa Giêsu, Con Thiên chúa bởi quyền phép của Chúa Thánh Thần. Đức Mẹ sinh con mà vẫn còn đồng trinh. Đức Mẹ không cần thanh tẩy theo luật buộc. Tuy nhiên, ai biết Đức Mẹ mang thai, sinh con mà vẫn còn đồng trinh. Ai sẽ hiễu và tin nếu Đức Mẹ đi đến từng nhà để tâm sự và giải bày về việc đồng trinh của mình để khỏi đi lên đền thờ dâng con và thanh tẩy?

Cách tốt hơn và cần thiết là Đức Mẹ chu toàn lề luật, coi như mình cần thanh tẩy như muôn ngàn phụ nữ khác. Nên việc Đức Mẹ lên đền thánh dâng con và thanh tẩy khộng mang hiệu quả thanh sạch hơn, vì Mẹ đã thanh sạch. Tuy nhiên, Mẹ dâng sự thanh sạch của Mẹ cho chúa, Đấng đã giữ gìn Mẹ thanh sạch cho chương trình cứu độ của Ngài. Đó là một hồng ân cần dâng lời chúc tụng Thiên chúa đến muôn ngàn đời.

Có nhiều người tự hào về sự thánh thiện và trong sạch của mình. Nên xưng tội hay sám hối là chuyện thừa. Có gì đâu mà xưng! Tuy nhiên xưng tội hay sám hối ngoài việc được tha tội, còn là lời chúc tụng Chúa là Đấng ba lần thánh và chúng ta không dám so bì với sự cực thánh của Ngài. Sám hối hay xưng tội còn là việc xin Chúa giữ gìn và chia sẻ sự thánh thiện của Ngài cho chúng ta.

III.Thực hành P.Â.

Làm phép nhà.
Người Việt Nam Công Giáo có thói quen rất hay và rất đáng duy trì là mời linh mục đến làm phép nhà mới sở hữu hay nơi ở mới dọn vào. Thường người ta nghĩ đây chỉ là việc xua trừ tà thần, ma quỉ và cầu xin cho toàn sự hên vào nhà và sự xui xẻo tránh xa. Đây chỉ là phần nhỏ trong ý hướng thánh thiện trong việc làm phép nhà.

Truyền thống làm phép nhà có từ thời Trung Cỗ ở Nước Đức, bắt nguồn từ ý nghĩa lễ Ba Vua hay Hiển Linh hay Lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Ba Vua đến từ Phương Đông xa xôi thăm viếng gia đình Thánh Gia ở Bê Lem.  Gia đình Thánh Gia dù nghèo hèn cũng đã hết lòng đón tiếp Ba Vua. Lễ Hiển Linh theo lịch Phụng Vụ thường rơi vào khoảng từ ngày 2 tháng Giêng cho đến ngày 8 tháng Giêng hàng năm. Tinh thần của Giáng Sinh, tinh thần nhập thế, nhập thể của Thiên Chúa Ngôi Con vẫn còn nóng hổi. Trẻ em ăn mặc như Ba Vua đến các nhà hàng xóm để chào hỏi, làm quen. Rồi người ta mời linh mục đến thăm viếng và chúc lành cho gia đình. Linh mục thường lấy phấn ghi những số và chữ như sau “20 + C+M+B+13” có nghĩa trong tiếng Latin Christus Mansionem Benedicat (Thiên Chúa chúc lành cho nhà nầy). Hai số đầu và hai số cuối là số năm, thí dụ 20………..13. Kẹp ở giữa là tên của Ba đạo Sĩ: Gaspar, cũng gọi là Caspar, Melchior and Balthasar.

Khi làm phép nhà chúng ta tỏ lòng tri ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có căn nhà hay nơi chốn ởn định. Thiên Chúa là chủ của của cải vật chất. Nhờ Chúa ban, chúng ta mới có. Đồng thời khi làm phép nhà, chúng ta cũng xin Chúa ngự trị trong căn nhà chúng ta, để mọi người biết tỏ tình thương yêu nhau, sống hòa thuận, và đùm bọc nhau như thánh gia xưa. Cũng như xin Chúa cho chúng ta biết rộng mở đón tiếp người khác, nhất là kẻ nghèo hèn và vô gia cư.

Làm phép nhà và ăn mừng tân gia khác nhau. Làm phép nhà rất cần thiết và tạo bình an tâm hồn. Tân gia chỉ là bữa cơm mời bạn bè đến chung vui. Tiệc tân gia nếu có cũng tốt mà nếu không có cũng không sao. Nhiều người có một quan tâm sai lạc, chỉ lo tổ chức tiệc tân gia mà không quan trọng chuyện làm phép nhà. Nói thế cũng giống như người chỉ lo tổ chức tiệc cưới cho linh đình, đang khi đó thì coi thường chuyện hôn phối hay lễ cưới. Chắc gì tiệc cưới linh đình mà đôi nam nữ kia là vợ chồng? Cũng như chắc gì tổ chức tân gia long trọng mà gia đình được Chúa chúc lành và bình an hòa thuẫn?


Sách Ngôn Sứ Sophonia 2:3; 3:12-13;
 Thư Thứ I của Thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô 1.26-31
và Phúc Âm Thánh Matthêô 5:1-12

I. Giáo Huấn P.Â.:  
Bài giảng đầu tiên, cũng gọi bài giảng trên núi hay tám mối phúc thật hay hiến chương Nước Trời.

Chúa Giêsu đến để thành lập Nước Trời, nước có Ông Trời, nước của Thiên Chúa.
Công dân Nước Trời sống theo hiến chương hoàn toàn trái ngược với quan niệm đời thường: chấp nhận cái bất hạnh của đời là hạnh phúc cho công dân Nước Trời.

I. Vấn nạn P.Â.   

Đếm được có chín mối phúc thật trong Phúc Âm Thánh Matthêô hôm nay thay vì tám như chúng ta quen gọi là bát phúc.

Trong phúc Âm Thánh Matthêô 5.2-12: Bài giảng ban bố từ trên núi và có 9 lời chúc phúc.
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Phúc cho những ai than khóc, vì sẽ được an ủi.
Phúc cho người khiêm nhường, vì sẽ hưởng đất hứa làm gia nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát sự công chính, vì sẽ được no đủ.
Phúc cho người hay thương xót, vì sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì sẽ được gặp Thiên Chúa.
Phúc cho người hoà giải, vì sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì sự công chính, vì nước thiên đàng thuộc về họ.
Phúc cho anh em khi bị sỉ nhục, bách hại, vu khống vì cớ tôi.
Hãy vui thoả và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng của anh em trên thiên đàng là lớn lắm.

Trong Phúc Âm Luca 6.20-26: Bài giảng ban bố ở đồng bằng, có bốn lời chúc phúc và bốn lời chúc dữ:
Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì nước thiên đàng thuộc về anh em.
Phúc cho anh em là người đang đói khát, vì anh em sẽ được no đủ.
Phúc cho anh em đang than khóc, vì anh em sẽ cười vui.
Phúc cho anh em khi vì cớ Con Người mà bị người ta ghét bỏ, trục xuất, sỉ nhục và làm ô danh. Khi ấy hãy vui thoả, nhảy nhót vì mừng rỡ, vì phần thưởng trên trời dành cho anh em là lớn lắm. Vì tổ phụ của họ cũng đã đối xử với các nhà tiên tri theo cách ấy.
Nhưng khốn cho các ngươi là người giàu có, vì các ngươi đã nhận đủ sự an ủi rồi.
Khốn cho các ngươi hiện đang no đủ, vì các ngươi sẽ đói khát.
Khốn cho các ngươi hiện đang cười vui, vì các ngươi sẽ thương tiếc và than khóc.
Khốn cho các ngươi khi được mọi người xưng tụng, vì tổ phụ của họ cũng đã đối xử với các tiên tri giả theo cách ấy.

Chỉ có hai Phúc Âm nói về bát phúc, nhưng cũng rất khác nhau: Phúc Âm Thánh Matthêô tường thuật 9 mối phúc và được giảng từ trên núi. Còn Luca, chỉ có bốn phúc và được giảng ở đồng bằng (Luca 6:17)

            Phúc Âm Matthêô ra đời khoảng năm 70 và được gọi là Phúc Âm viết cho Kitô hữu gốc Do Thái ở thế kỷ đầu (Jewish Christian Gospel). Kinh Thánh Cựu Ước là quyển sách duy nhất làm thành văn hoá Do Thái. Người Do Thái phải học Thánh Kinh Cựu Ước. Người Do Thái phải đến Hội Đường vào mỗi ngày Thứ Bảy để lắng nghe Lời Chúa và nghe các Rabbi dẫn giải Lời Chúa từ trong Thánh Kinh. Họ đã mong đợi Đấng Cứu Thế nhiều ngàn năm. Họ đã học biết về Đấng Messiah như thế nào từ trong Sách Cựu Ước, nhất là sách các tiên tri. Nên Matthêô đã trình bày Chúa Giêsu như một Môsê trong Cựu Ước, người đã đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập, lên núi Sinai để nhận mười diều răn. Môsê từ trên núi xuống với hai bia đá khắc mười điều răn như hiến chương thành lập Dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng từ trên núi, ban bố hiến chương nước Trời, hay những đòi hỏi để làm công dân trong nước Thiên chúa cho dân mới trong Tân Ước.

            Luca, nguyên gốc dân thành Antiôkia bên Hy Lạp và sinh sống bằng nghề thầy thuốc. Ông thành môn đệ của Phaolô và theo Phaolô cho tới khi Phaolô bị giết chết ở Roma. Luca không có gia đình hay con cái gì cả. Ông chết già lúc 84 tuổi. Như vậy, nhiều phần trăm cho thấy rằng, Luca tự mình không biết bát phúc, nhưng nghe tường thuật hay sao chép lại từ Phúc Âm Matthêô theo quan điểm thần học thích hợp với thành phần dân ngoại mới tòng giáo:  Sống trên đời có thiện có ác, có chúc lành thì cũng có chúc dữ. Ai làm điều thiện sẽ được chúc lành, làm điều ác bị chúc dữ

Dù đếm được chín mối phúc trong Phúc Âm Thánh Matthêô, nhưng các nhà chú giải Kinh Thánh đều cho rằng phúc thứ tám và chín cũng chỉ là một nội dung: Phúc cho những ai bị bách hại vì đạo Chúa, tức vì lẽ công chính…thì được hưởng gia nghiệp thiên quốc.

Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Thế nào là tinh thần nghèo khó?

            Trong tiếng Latinh, beatus thường được dịch là “phúc cho ai….” Mối phúc thứ nhất là Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó… Thế nào là người có tinh thần nghèo khó?

            Trong ngôn ngữ Aram mà Chúa dùng, nghèo có nghĩa:            

Phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Luôn chạy đến cầu khẩn với Thiên Chúa.  Đấng là chủ của tất cả vũ trụ vạn vật. Người có tinh thần nghèo khó là người luôn cần Chúa, chạy đến với Chúa và coi Chúa là trên hết, là người duy nhất lấp đầy mọi khát vọng nơi con người. Tinh thần nghèo khó không là chuyện nghèo khó trong tinh thần, nhưng phải thể hiện ra bên ngoài bắng nếp sống đơn sơ thanh đạm, không ham mê tiền bạc, vật chất hay địa vị, danh tiếng ở đời, nhưng phó thác nơi Thiên chúa và tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa mà thôi.

            Không có tinh thần nghèo khó chút nào, nếu ăn uống tốn kém, có cả bia rượu thường xuyên.

            Không có tinh thần nghèo khó chút nào, nếu ăn mặc hàng vải đắc tiền hay đi xe siêu sang trị giá hàng trăm ngàn đô. Không có tinh thần nghèo khó chút nào, nếu quá quan tâm đến tiếng khen, hay ảnh hưởng cá nhân, chỗ ngồi, giành ăn nói hay đòi phát biểu nơi công cộng.

            Tất cả những tu sĩ của các dòng tu đều khấn giữ đức khó nghèo, cụ thể là: Khước từ sự chiếm hữu của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, đất đai tài sản, cụ thể là vô sản. Không có lợi tức cá nhân, nhưng tất cả phải giao nộp cho nhà dòng và được ban phát theo nhu cầu cần thiết. Cụ thể: tu sĩ dòng đi làm việc, lương được trả cho nhà dòng. Tu sĩ dòng tự mình không phải khai thuế và cũng không bảo lãnh thân nhân được.

Tám mối phúc thật là gì?
            Đó là những giá trị mà người đời coi thường, coi như những điều bất hạnh, không muốn có trong đời sống mình thì lại là những phúc lành, những điều mang hạnh phúc và những điều đáng tìm kiếm của những công dân nước trời. Đó là những nguyên tắc sống nghịch thường, tức trái ngược với đời thường. Thí dụ trước mắt mọi người, người giàu có, lắm tiền nhiều của là người có phúc, có tiếng nói cũng như được người đời tôn trọng thì lại là cái hoạ cho những ai muốn làm công dân nước trời.

            Vài câu chuyện giải thích về nguyên lý sống nghịch thường nầy.

            Phanxicô thành Assisi vào nhà thờ nghe Phúc Âm “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước Trời là của họ…” Phanxicô ra về, cương quyết sống cuộc đời nghèo khó. Phanxicô đem bố thí tất cả gia sản do thân phụ chia phần, và ăn mặc, sinh sống như người ăn xin. Cha Ông đòi lại gia sản, Phanxicô mang trả những gì còn lại, ra đi với thân trần trụi, tuyên bố “Tôi không có Cha dưới đất mà chỉ có Cha trên trời!” Phanxicô lập nên dòng Phanxicô khó nghèo.

            Martinô thành Tours là một sĩ quan tân tòng. Trong một đêm đi tuần tra, gặp một người hành khất, không dủ áo mặc, đang lạnh run. Martinô dừng lại, lấy gươm cắt đôi chiếc áo choàng sĩ quan của mình phủ trên tấm thân gầy còm lạnh run của người hành khất. Đêm hôm đó, Martinô thấy Chúa Giêsu hiện ra cho mình với nửa chiếc áo choàng sĩ quan mà Ông đã cắt chia cho người hành khất.  Thật rất đúng với mối phúc thật thứ năm “Phúc cho những ai thương xót người vì họ sẽ được xót thương!”

I.                   Thực hành P.Â.

            Dòng Bênêdictô ở Mission BC.

            Ngày 27.6.2010 tôi và nhiều người khác có dịp tham dự thánh lễ phong chức linh mục cho tu sĩ Antôn Nguyễn minh Chánh OSB. được tổ chức trong đan viện Bênêdictô ở Mission, BC.  Đan viện rộng lớn toạ lạc trên một khoảng đất rộng, cao hơn so với vùng chung quanh.

            Thánh lễ phong chức linh mục diễn ra trong trang nghiêm, sốt sắng, linh thiêng và nhất là dơn giản. Cái dơn giản nhất là sự im lặng của toàn tu viện: Những tu sĩ di chuyển trong từ tốn và chậm rãi. Những tu sĩ ít nói và nói thật nhỏ tiếng. Những tu sĩ ẩn mình nơi gian cung thánh, chỉ qui tụ đứng xoay vòng khi hát. Tiếng hát thánh thoát và hướng thượng.

            Tôi thật sự cảm động và cảm phục quí tu sĩ dòng Bênêdictô nầy. Sao các Ngài có thể sống hiền hoà, khiêm tốn và thật sự bộc lộ tinh thần nghèo khó đến thế? Cha Benedict Lefebvre mà tôi được tiếp xúc, chỉ chừng hơn 30 tuổi, dáng gầy, cao và thanh thoát từ tốn. Cha đã làm linh mục mới vừa được năm năm và đang dạy cho tu sĩ và chủng sinh ở tu viện. Xuất thân trong một gia đình tương đối khá giả, có cơ hội tiến thân và sống thoải mái. Nhưng Cha đã khướt từ và đã chọn đường bát phúc.

            Lòng cảm phục những tu sĩ dơn sơ, nghèo khổ và thánh thiện nầy làm tôi suy nghĩ về lối sống nhiều khi quá ồn ào, thích nói lớn tiếng, hay nhiều khi thích ăn ngon hay thích tiện nghi của bản thân mình. Thân thể phương phi béo tốt mà người ta gọi là có tướng không là tội, nhưng xem chừng là dấu chuộng thức ăn ngon và có những giấc ngủ ngon. Tôi thật sự không có tội trong lối sống của mình, nhưng xem chừng tôi chưa có phúc hay còn xa với bát phúc. Khốn cho thân tôi!

          Lm.Phê-rô TRẦN THẾ TUYÊN

Lectio Divina: Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh
Chúa Nhật, 2 Tháng 2, 2014
Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh
Lc 2:22-40


1.  Lời nguyện mở đầu

Ôi lạy Thiên Chúa, Người là Đấng Tạo Hóa và là Cha của chúng con, Chúa muốn Con Một Chúa, đã sinh ra trước khi thế gian được tạo dựng, phải trở thành một thành viên của gia đình nhân loại.  Xin Người hãy nhen nhúm lại trong chúng con lòng biết ơn về ân sủng của sự sống, để các bậc cha mẹ có thể tham dự vào sự sinh sản của tình yêu Chúa, để người già có thể truyền lại cho thế hệ con cháu sự khôn ngoan trưởng thành của họ, và thế hệ con cháu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, đạo đức và ân sủng, tất cả mọi người ca tụng tôn vinh thánh danh Chúa.  Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

2.  Bài Đọc:  Lc 2:22-40

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong lề luật Chúa rằng:  “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”.  Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong luật Chúa, là “một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con”.
Và đây, ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel.  Thánh thần cũng ở trong ông.  Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng:  Ông sẽ không chết, trước khi ông thấy Đấng Kitô của Chúa.  Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của lề luật.  Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:  “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa.  Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân.  Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân.  Vinh quang cho Israel dân Chúa.”
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người.  Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng:  “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối.  Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ.”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên.  Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm.  Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi.  Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa.  Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel. 
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét.  Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

-  Để Lời của Chúa có thể ngự thấm trong chúng ta và để soi sáng đời sống chúng ta.
-  Để trước khi chúng ta đưa ra bất kỳ một ý kiến nào, xin cho ánh sáng Lời Chúa được tỏa sáng và chiếu soi lên mầu nhiệm về sự hiện diện sống động của Chúa.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Tại sao Đức Giêsu, Con Một của Đấng Tối Cao, và Đức Maria mẹ Người, đã được thụ thai không vướng tội lỗi, mà lại tuân theo các lề luật của Môisen?  Có phải bởi vì Đức Maria chưa nhận thức được sự vô nhiễm và thánh thiện của bà không?   
b)  Lời nói và thái độ của ông Simêon và bà tiên tri Anna có ý nghĩa đặc biệt nào không?  Hành động và sự vui mừng của họ có làm gợi nhớ lại phong thái của các tiên tri ngày xưa không?
c)  Làm thế nào chúng ta có thể giải thích được câu “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn”:  đó có phải là việc xé nát lương tâm trước những thách thức và sự phong phú của Chúa Giêsu không?  Hay đó chỉ là nỗi đau lòng của Đức Mẹ?
d)  Cảnh này có thể nào có một ý nghĩa nào đó cho các bậc phụ huynh ngày nay không:  về ý thức tôn giáo của con cái họ; về kế hoạch của Thiên Chúa dành cho mỗi con cái của Người; về những nỗi sợ hãi và đau khổ mà cha mẹ mang trong tâm tư họ những khi họ nghĩ về thời điểm khi con cái họ lớn khôn?      

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào văn bản.

a)  Như đã chép trong lề luật Môisen hay lề luật của Chúa.   Đây là một loại điệp khúc được lặp lại nhiều lần.  Thánh sử Luca hòa lẫn hai hệ thống lề luật mà không có sự phân biệt.  Luật thanh tẩy của người mẹ đã được dự kiến trong sách Lêvi (12:2-8) và đã xảy ra bốn mươi ngày sau khi khai sinh con. Cho đến lúc đó, người phụ nữ không được phép đến gần những nơi thiêng liêng, và buổi lễ được kèm theo với của lễ dâng là một con vật nhỏ.  Việc thánh hiến con đầu lòng đã được quy định trong sách Xuất Hành 13:11-16, và được coi như là một loại “tiền chuộc” để tưởng nhớ đến hành động của Thiên Chúa đã giải thoát dân tộc Israel khỏi ách nô lệ ở Ai-Cập.  Vì điều này cũng có lễ vật là một con vật nhỏ.  Trong mọi trường hợp, các bậc cha mẹ có vẻ như trong thủ tục hiến dâng con trai của họ như đã được làm với vật hiến tế và tư tế Lêvi, trong khi ấy theo các nhân vật như ông Simêon và cụ bà Anna, dường như Thiên Chúa là Đấng dâng hiến Con của Người để cứu độ nhân loại
   

b)  Ông Simêon và bà Anna:  Đây là những nhân vật với đầy đủ giá trị biểu tượng.  Vai trò của họ là một sự công nhận, xuất phát từ việc soi sáng lẫn hành động của Chúa Thánh Thần và một đời sống trong sự mong chờ và đức tin.  Đặc biệt ông Simêon được mô tả như là một người hoàn toàn đắm chìm trong sự chờ đợi (prodekòmenos), và là kẻ bước tới để chào đón.  Ông cũng xuất hiện để tuân giữ lề luật, lề luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn ông về phía con trẻ trong đền thờ.  Bài ca vịnh ông công bố biểu lộ khuynh hướng sống cho người khác của ông, ông đã sống để chờ đến thời điểm này và giờ đây ông rút lui để cho những người khác có thể nhìn thấy ánh sáng và ơn cứu độ đến cho dân tộc Israel cũng như dân ngoại.  Bà Anna hoàn thành bức tranh, bằng vào số tuổi của bà (con số tượng trưng:  84 = 7 x 12; mười hai chi tộc Israel; hoặc 84 – 7 = 77, con số toàn thiện kép), nhưng hơn hết cả là bằng lối sống của bà (ăn chay và cầu nguyện) và bằng lời công bố của bà cho tất cả những ai “nhìn về tương lai”.  Bà được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần về việc nói tiên tri, phụng thờ Chúa và sự trinh khiết trong lòng của bà.  Ngoài ra, bà thuộc về một chi tộc nhỏ bé nhất, chi họ Asê, một dấu chỉ cho thấy rằng những người nhỏ bé và mong manh là những người có khuynh hướng nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, hơn.  Cả hai ông bà lão này – trông có vẻ như là một cặp đôi nguyên thủy – là những biểu tượng đẹp nhất của Do Thái giáo, của thành Giêrusalem trung thành và hiền lành, đang chờ đợi và vui mừng và từ bây giờ sẽ để cho nguồn ánh sáng mới lan tỏa.

c)  Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu:  thông thường những chữ này được hiểu như có nghĩa là Đức Maria sẽ chịu đau khổ, một cảnh được thấy rõ ràng là hình ảnh Đức Mẹ Sầu Bi.  Thay vào đó, chúng ta cần xem Đức Mẹ như là một biểu tượng của dân tộc Israel.  Ông Simêon linh cảm được cảnh tượng dân tộc của ông sẽ bị chia rẽ sâu xa bởi lời sắc bén và hằng sống của Đấng Cứu Thế (xem Lc 12:51-53).  Đức Maria đại diện cho đường đi:  bà phải tín thác, nhưng sẽ phải trải qua những thời gian đau thương và đen tối, sự im lặng đớn đau và cố gắng.  Câu chuyện của Đấng Mêssia đau khổ sẽ làm cho mọi người đau đớn, ngay cả đối với Đức Mẹ.  Người ta không thể đi theo ánh sáng mới của toàn thế giới mà không phải trả giá, mà không phải bị khích động để chọn các quyết định đầy rủi ro, mà không phải được tái sinh từ trời và trong sự mới mẻ.  Nhưng hình ảnh của “lưỡi gươm đâm thấu” này, về một hài nhi sẽ “làm vấp ngã” và giao động những trái tim khỏi sự thờ ơ của họ, thì không thể bị tách rời khỏi hành động đầy ý nghĩa của hai người già lão:  một người là ông Simêon, kẻ đã bế Chúa Hài Đồng trên tay mình để cho thấy rằng đức tin là một sự gặp gỡ và vòng tay ôm, chứ không phải là một lý thuyết suông; còn người kia, cụ bà Anna, đảm nhận vai trò công bố và nhen nhóm lại ánh sáng rực rỡ trong lòng tất cả những ai “đã nhìn về phía” Người.

d)  Đời sống hằng ngày, sự hiển linh của Thiên Chúa:  Cuối cùng, thật là thú vị khi nhận thấy rằng toàn bộ câu chuyện nhấn mạnh đến hoàn cảnh giản dị và chất phác nhất:  một cặp vợ chồng trẻ với một đứa con trong tay, một ông già vui mừng và ôm ấp đứa bé, một bà lão cầu nguyện và nói tiên tri, những kẻ lắng nghe dường như là những người đang gián tiếp tham gia.  Ở phần cuối của đoạn Tin Mừng, chúng ta cũng có một cái nhìn thoáng qua về làng Nagiarét, về sự phát triển của đứa trẻ có năng khiếu khác thường với sự khôn ngoan và tốt lành.  Chủ đề của sự khôn ngoan được đan dệt vào trong tấm vải của đời sống bình thường và lớn lên trong một bối cảnh của ngôi làng, để cho câu chuyện dường như treo lơ lửng, và nó sẽ được nhắc lại lần nữa đúng với chủ đề sự khôn ngoan của cậu bé ở giữa các luật sĩ trong đền thờ.  Thật vậy, đây là cảnh kế tiếp ngay sau đây (Lc 2:41-52).

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 122: 
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
"Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! "
Và giờ đây, Giêrusalem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.

Giêrusalem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Israel.

Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đavít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: "Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong lũy ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh."

Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng: "Chúc thành đô an lạc."
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Cha, chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha bởi vì nhờ Con Cha, được sinh ra bởi một người phụ nữ do việc làm của Chúa Thánh Thần, được sinh ra theo lề luật, đã cứu chuộc chúng con khỏi lề luật và Cha đã làm đầy cuộc sống chúng con với ánh sáng và niềm hy vọng mới mẻ.  Nguyện xin cho gia đình chúng con hân hoan chào đón và trung thành với chương trình của Cha, nguyện xin cho những người trong gia đình chúng con giúp đỡ và duy trì trong con cái họ những giấc mơ và sự nhiệt tình mới, xin Chúa ấp ủ chúng trong sự dịu dàng khi chúng yếu ớt mong manh, xin Chúa dạy dỗ chúng trong tình yêu cho Chúa và cho tất cả tha nhân.  Lạy Cha, tất cả mọi danh dự và vinh quang đều quy về Cha.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét