04/05/2014
Chúa Nhật III Phục Sinh
Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Cv 2, 14. 22-28
"Không
thể nào để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi
các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng
nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Ðức Giêsu Nadarét
là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những
điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh
em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người
đã bị nộp, và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau
khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ
của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ
trong đó. Vì chưng Ðavít đã nói về Người rằng: 'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước
mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân
hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì
Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy
sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận
hưởng nhan thánh Chúa'".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Chúa sẽ chỉ
cho con biết đường lối trường sinh (c. 11a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa:
"Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính
Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2)
Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ,
cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3)
Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con
cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng
không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.
4)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 1 Pr 1, 17-21
"Anh
em được cứu độ bằng Máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh
em thân mến, nếu anh em gọi Người là Cha, Ðấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi
người theo việc họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em
còn lưu trên đất khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà
anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu
báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước
khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người,
anh em tin vào Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh
quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
x. Lc 24, 32
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh;
xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 24, 13-35
"Hai
ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng
ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách
Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy
ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến
lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi:
"Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một
người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở
Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày
nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên
can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực
trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà
các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh
Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel.
Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm
chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không
thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống.
Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các
phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy
giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ
thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang
sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho
hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới,
Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời
ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền
vào với các ông.
Ðang
khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho
hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau:
"Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường
đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy
trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo
hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông
cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ
bánh như thế nào.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Loan
báo Nước Trời và đổi mới con người
Như
Ðức Kitô đã dùng Thánh Kinh để giải thích cho hai môn đệ tin vào mầu nhiệm Người
sống lại mà hồi sinh, Phụng vụ hôm nay cũng muốn dùng các bài chúng ta vừa nghe
đọc để khai sáng tâm trí ta hiểu hơn về việc Chúa phục sinh hầu được tinh thần
mới và nếp sống mới.
A.
Bài Sách Công Vụ
Trước
hết chúng ta hãy để tai nghe lời thánh Phêrô. Nói đúng hơn chúng ta hãy khảo
sát bài đọc I, vì diễn từ chúng ta vừa nghe là của tác giả sách Công vụ hơn là
của chính thánh Phêrô.
Hôm
ấy là ngày lễ Ngũ Tuần. Các môn đệ vừa được đầy Thánh Thần. Thiên hạ chen nhau
tuốn đến nhà các ngài vì nghe tiếng động từ trời vang xuống nơi đó. Phêrô đứng
lên cùng với 11 Tông đồ và cất tiếng nói với dân. Ông phải giải thích cho mọi
người hiểu: Chính Ðức Kitô phục sinh vừa gửi Thần trí của Người xuống trên các
môn đệ. Ðiều quan trọng là phải làm chứng việc Người đã sống lại vì ơn để Thánh
Thần xuống chỉ là điều tất yếu phải theo sau. Việc làm đó thật tế nhị và cũng
khó; vì Phêrô phải nói với những người mà đa số cũng đã nghe đầu mục Dothái xúi
giục đòi đóng đanh Ðức Yêsu. Nhưng tác giả bản văn đã rất tài tình. Ông vắn tắt
phác lại hình ảnh Ðức Yêsu, một Ðấng đã được Thiên Chúa chứng nhận bằng bao việc
kỳ diệu, tức là như một tiên tri, nói đúng hơn như một Môsê; "Thế mà anh
em đã giết Người", lẽ ra ông chỉ cần nói như thế. Nhưng không! Ông đã khéo
léo chữa lỗi cho họ. Chính theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa
mà Người đã bị nộp, rồi họ mới dùng tay kẻ vô đạo mà giết Người. Nhưng đây mới
là điều quan trọng: Thiên Chúa đã phục sinh Người từ kẻ chết để ứng nghiệm lời
tiên tri Ðavít. Quả thật, Thánh vịnh 16 có câu: Người không để Ðấng Thánh của
Người phải thấy mục nát.
Rõ
ràng Phêrô không nại đến sự kiện mồ trống. Ông cũng không nói đến những lần
Chúa sống lại hiện ra. Có thể những chuyện đó đã được đồn đãi nhiều nhưng không
gây được sự nhất trí. Ðó chỉ là những dấu hiệu cần được giải thích. Cũng như việc
Thánh Thần hiện xuống hôm nay cũng chỉ là một dấu hiệu. Ðối với Phêrô chẳng lời
giải thích nào đáng tin như lời Thánh Kinh. Ông dẫn giải Thánh Kinh để soi sáng
hiện tượng, để kêu gọi lòng tin. Và hôm đó ông đã thu phục được "lối ba ngàn
linh hồn".
Chúng
ta tưởng chính thánh Phêrô đã sáng nghĩ ra đường lối ấy sao? Ðó chỉ là phương
pháp Ðức Yêsu đã làm khi còn tại thế và lúc đã sống lại. Cuộc đàm đạo của Người
với hai môn đệ trên đường Emmau sẽ làm chứng điều đó.
B.
Bài Tin Mừng Luca
Tác
giả sách Công vụ và sách Tin Mừng Luca chỉ là một, nên bài Tin Mừng hôm nay có
nhiều nét giống với bài Công vụ mà chúng ta vừa khảo sát.
Câu
chuyện được kể bắt đầu xảy ra vào buổi sáng ngày Chúa Nhật Phục sinh và kết
thúc vào buổi tối. Hai môn đệ chứ không phải hai Tông đồ đi đường đến Emmau. Họ
trở về nhà sau khi đã chứng kiến những sự việc xảy ra tuần rồi ở Yêrusalem?
Luca kể họ đang nói với nhau những chuyện đó và buồn rầu vì thất vọng. Họ đã tưởng
Ðức Yêsu sẽ cứu chuộc Israel; nhưng này Người đã bị giết được ba ngày rồi. Sáng
nay cũng có mấy bà ra thăm mộ đấy. Họ thấy trống trơn. Các thiên thần nói với họ
rằng Người đã sống lại, nhưng mấy môn đệ ra coi thì chẳng thấy gì cả.
Người
khách lạ vừa đến nói ngay với họ: Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào
mọi điều các tiên tri đã nói. Ông ta là ai mà dám nói thẳng như thế? Lời kia
không giống lời Ðức Yêsu nói hôm nào khi môn đệ ở trên thuyền đánh thức Người dậy
lúc sóng nước làm thuyền sắp chìm sao? Hai môn đệ kia chưa nhận ra Người. Nhưng
Người dẫn giải Thánh Kinh đến đâu, lòng họ nóng lên đến đó và cuối cùng họ đã
nhận ra Người khi bẻ bánh.
Câu
kết của câu chuyện rất quan trọng. Hai môn đệ trở về Yêrusalem tức khắc. Họ
chưa kịp kể chuyện của mình thì các Tông đồ đã cho họ biết: "Thực thế,
Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho Simon". Người ta có thể đoán sau đó câu
chuyện họ kể không còn hào hứng nhiều nữa vì không còn hi hữu và mới mẻ gì.
Chúng
ta tiếc vì Luca đã kết thúc câu chuyện như vậy sao? Nhưng dường như đó là chủ ý
cuối cùng với câu kết lại làm cho người nghe hết hào hứng. Là vì đối với ông,
việc Chúa hiện ra với hai môn đệ, dù có thật và phấn khởi, vẫn chỉ là phụ thuộc.
Ðức tin của chúng ta về việc Chúa sống lại chỉ căn cứ vào nhân chứng của các
Tông đồ mà đứng đầu là Phêrô. Câu "Chúa đã sống lại và hiện ra với
Phêrô", tuy vắn tắt, khô khan, nhưng chính là đá tảng vững vàng xây lên Hội
Thánh. Mọi câu chuyện khác về việc ấy chỉ là trang trí.
Và
quả thật Luca đã có ý trang hoàng câu chuyện của ông hơn là ghi lại trung thực
một sự kiện y như đã xảy ra. Rõ ràng ông đã có ý muốn cho có nhiều chuyện xảy
ra trong ngày thứ nhất trong tuần để tô điểm ngày ấy nên ngày Phục sinh. Ông là
"y sĩ" ưa nói đến lòng thương xót của Chúa, nên câu chuyện ông kể có
vẻ tâm tình và khiến lòng bốc cháy. Ông chỉ là một môn đệ và mất ý thức về vai
trò của các Tông đồ, nên muốn cho các chuyện của môn đồ đứng hàng thứ sánh với
sự nghiệp của các Tông đồ. Nhất là ông muốn viết một tác phẩm sau khi đã sưu
tra và xếp đặt cho có đầu có ngọn; do đấy câu chuyện của ông có nhiều nét chắc
chắn , tức là diễn tả nhiều điểm đức tin vững vàng: nào là hình ảnh Ðức Yêsu được
phác họa như một tiên tri hứa hẹn nhiều hy vọng, nào là sự kiện mồ trống với lời
thuật của các phụ nữ được trình bày một cách khách quan và chưa có lời giải
thích. Nhất là Luca muốn nhấn mạnh: các môn đệ chậm tin lời tiên tri, chẳng hiểu
gì về mầu nhiệm Thập giá và phải đọc lại Lời Thánh Kinh để thấy ánh sáng cứu độ.
Khi nhắc lại lời Chúa nói ở trên biển bão táp. Luca ngầm ví việc Người chịu chết
như khi Người ngủ trên thuyền; môn đồ hốt hoảng, nhưng tỉnh dậy Người đưa họ
vào bến bình an. Cũng vậy, việc Người sống lại kéo họ ra khỏi vực sâu sự chết.
Họ phải nhờ Thánh Kinh để nhận ra mầu nhiệm này và đức tin của họ sẽ đạt tới
cao điểm trong việc bẻ bánh.
Ở
đây ta cũng nên hỏi: có thật Ðức Kitô đã làm lễ nghi bẻ bánh với hai môn đệ
không? Suy nghĩ kỹ, ta nên kết luận: có lẽ không, vì Người đang hiện diện ở đó,
không cần đến bí tích làm gì, bởi lẽ bí tích là để thay thế hiện diện. Ðó có thể
chỉ là bữa ăn thường, nhưng Luca đã hữu ý dùng những từ ngữ của việc bẻ bánh để
mô tả (như khi kể việc Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: 9,16), để đề ra một ẩn
ý thần học: niềm tin vào việc Chúa sống lại đạt tới cao điểm trong việc bẻ
bánh, tức là nơi bí tích Thánh Thể và bữa ăn này thực hiện lời hứa sẽ cho môn đệ
vào dự bàn tiệc Nước Trời khi Người lên nơi vinh hiển.
Như
vậy, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay không những hấp dẫn, nhưng
nhất là sâu sắc. Nó diễn tả quan niệm của Luca về việc Chúa sống lại. Có những
sự kiện dẫn tới niềm tin ấy như sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Nhưng đức
tin thật sự của ta phải căn cứ vào chứng tá của các Tông đồ mà đứng đầu là
Phêrô và vào sự tìm hiểu Kinh Thánh. Ðức tin ấy đạt tới mức độ đầy đủ trong việc
cử hành bàn tiệc Thánh Thể loan báo Nước Trời và đổi mới con người, làm cho họ
mến Chúa nồng nàn và nhiệt thành truyền giáo.
Ðó
cũng là những tư tưởng mà bài sách Công vụ đã thoáng thấy. Nói đúng hơn vì viết
sau bài Tin Mừng, diễn từ của Phêrô là một bản văn súc tích, gồm đủ các yếu tố
mà Luca đã trình bày trong bài Tin Mừng.
Phụng
vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta nghe những lời Kinh Thánh ấy để làm gì?
C.
Bài Thư Phêrô
Tất
nhiên đã có nhiều điều chúng ta có thể đem ra ứng dụng và thi hành sau khi hiểu
biết các bài đọc trên. Chúng ta đã hiểu rõ hơn về niềm tin của chúng ta đối với
việc Chúa sống lại. Và muốn hun đúc niềm tin ấy để đổi mới con người và cuộc đời,
chúng ta cũng phải bắt chước hai môn đệ, để Thần Trí Chúa phục sinh hướng dẫn
mình đọc lại Kinh Thánh và tham dự các buổi phụng vụ Thánh Thể.
Nhưng
để giúp chúng ta có một thái độ cụ thể, Phụng vụ đã trích một đoạn thư Phêrô.
Tác giả không nói gì mới lạ, chỉ xinh chúng ta đánh giá đúng ân sủng đã nhận được.
Nhờ Ðức Kitô chúng ta đã tin vào Thiên Chúa (c.21), xưng tụng Người là Cha
(c.17), nhìn nhận Người là Thẩm phán chí công, thì hãy sống trong lòng kính sợ
Người. Lý do là vì niềm tin của chúng ta thật là đắt giá. Nó đã được trả bằng
Máu châu báu của Ðức Kitô và chỉ có Máu Người mới trả được. Thế nên chúng ta phải
bảo toàn niềm tin ấy, tức là hy vọng của chúng ta luôn phải hướng về Thiên Chúa
(c.21), là sống trong lòng kính sợ (kẻo mất) Người.
Giờ
đây chúng ta sẽ cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhở việc Chúa chịu chết và sống
lại, nhận thức đức tin của chúng ta đã được trả bằng Máu châu báu của Người,
chúng ta hãy mở mắt tinh thần ra như hai môn đệ Emmau và như những người đã
nghe bài diễn từ của Phêrô. Và lòng chúng ta hãy nồng nàn lên khi thấy Chúa hiện
diện nơi Thánh Thể. Chúng ta hãy quyết tâm đổi đời như lối "ba ngàn người"
nghe Phêrô nói ngày trước; và chúng ta hãy ra về trở lại với đồng bào như hai
môn đệ Emmau. Chúng ta sẽ làm như họ, tin tưởng tuyệt đối vào mầu nhiệm Phục
sinh, khai triển lời Kinh Thánh trong đời sống, làm chứng Ðức Kitô đã sống lại
đang kêu gọi mọi người hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà phấn chấn
trong cuộc sống, nhiệt tình xây dựng hạnh phúc, vì này, sức mạnh của Chúa đi
kèm công việc của những người đã tin Ðức Yêsu Kitô sống lại từ kẻ chết.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật III Phục Sinh,
Năm A
Bài đọc: Acts 2:14, 22-28; 1
Pet 1:17-21; Lk 24:13-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa đã được phác họa ngay từ đầu, khi trái đất và con người chưa được tạo
dựng.
Có
những sự khác biệt to lớn giữa Thiên Chúa và con người: Ngài không bị lệ thuộc
vào thời gian như con người; tư tưởng và ý định của Ngài bao trùm từ khởi sự
cho đến hoàn thành, trong khi kiến thức con người quá giới hạn đến độ không thể
lãnh nhận những mặc khải của Thiên Chúa một lúc. Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu
độ con người ngay từ đầu, khi trời đất và con người chưa được tạo thành, và dĩ
nhiên, chưa phạm tội trong vườn Địa Đàng. Trọng tâm của kế hoạch cứu độ là Đức
Kitô, Ngài là Đấng sẽ mang lại ơn cứu độ cho con người qua cái chết và sự phục sinh
vinh hiển của Ngài. Kế hoạch cứu độ có hai phần chính: phần đầu Thiên Chúa chọn
dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho việc nhập thể của Đức Kitô; phần hai khi Đức
Kitô đến, Ngài mở rộng ơn cứu độ của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Vì thế, Đức
Kitô là giao điểm của Cựu Ước và Tân Ước. Tất cả những gì Đức Kitô sẽ làm đã được
tiên báo cách ẩn tàng trong Cựu Ước. Khi Đức Kitô đến, Ngài thực thi tất cả những
gì đã được tiên báo trong Cựu Ước. Thánh Augustinô nhận định rất chính xác: Cựu
Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước làm trọn những gì Cựu Ước chuẩn bị. Thánh
Phaolô diễn tả cách tương tự: nếu chỉ đọc Cựu Ước thôi, một người sẽ chỉ hiểu lờ
mờ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như đang bị một bức màn che mắt; nhưng nếu đọc
Cựu Ước với ánh sáng của Tân Ước, một người sẽ hiểu rõ tất cả chi tiết của kế
hoạch cứu độ (2 Cor 3:13-17).
Các
bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy lợi ích của việc giải thích những biến cố xảy
ra cho Đức Kitô trong ánh sáng của Cựu Ước. Trong bài đọc I, thánh Phêrô chứng
minh cho người Do-thái biết Đức Giêsu thành Nazareth chính là Đấng Thiên Chúa
sai đến, để thực thi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mang lại cuộc sống trường
sinh cho con người, như đã được loan báo trong Kinh Thánh. Trong bài đọc II,
tác giả Thư Phêrô thứ nhất cũng lặp lại tư tưởng của bài đọc I, Đức Kitô là Đấng
mà Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ được dựng nên. Ngài xuất hiện trong thời
cuối cùng để làm trọn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, chính Đức
Kitô thân hành hiện đến và cùng đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, để
giải thích cho họ về những lời Kinh Thánh được làm trọn qua cái chết và sự phục
sinh của Ngài. Hai ông đã nhận ra chính là Ngài khi Ngài cùng bẻ bánh với hai
ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Đức Giêsu đã bị nộp và giết chết theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước.
Bài
giảng của Phêrô sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống gồm hai phần chính:
1.1/
Phêrô làm chứng cho những gì Đức Kitô đã thực hiện: Phêrô đứng chung với
Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: "Thưa anh em miền Judah và tất cả
những người đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những
lời tôi nói đây... Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu
Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ
mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu
lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.” Phêrô không cần phải dẫn chứng nhiều,
vì tất cả những gì Đức Kitô đã làm và những gì xảy ra cho Ngài vẫn còn sống động
trong tâm hồn khán giả của ông.
1.2/
Phêrô nối kết những biến cố này với những gì đã được đề cập tới trong Kinh
Thánh: Vì
người Do-thái tin vào Kinh Thánh, Phêrô làm chứng cho Đức Kitô bằng cách liên kết
những biến cố mới xảy ra với những gì đã được đề cập trong Kinh Thánh. Mục đích
của Phêrô là để khơi niềm tin nơi khán giả vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Kinh
Thánh đã nói trước về mục đích của cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Ngài
phải chết và phục sinh theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mục đích là để tha
thứ tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh vĩnh cửu cho con người: “Theo kế
hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã
dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã
làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ
cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
Phêrô
trưng dẫn những lời của Thánh Vịnh 16:8-11, để minh chứng điều này. Câu 27 của
trình thuật mang một ý nghĩa quan trọng về cuộc sống trường sinh: “Vì Chúa chẳng
đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải
hư nát.” Ai là “Vị Thánh của Ngài” mà Thánh Vịnh 16 nói tới? Chắc chắn không phải
là vua David, vì David đã chết, và mộ của vua vẫn còn ở Hebron cho tới ngày
nay. Truyền thống Do-thái thời đó vẫn tin người nào đã vào trong cõi âm ty
(Sheol, Hades), sẽ không bao giờ có ngày trở về trên cõi dương gian. Quan niệm
về cuộc sống đời sau, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa, là một quan
niệm rất xa lạ với người Do-thái thời đó. Vì thế, câu “Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” phải là
một lời tiên tri nói về Đấng Cứu Thế, và được áp dụng cho sự chết và phục sinh
của Đức Kitô.
2/
Bài đọc II:
Người là Đấng Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ chưa được dựng nên.
(1)
Chúng ta được cứu độ là do bởi máu vô giá của Đức Kitô: Tác giả Thư Phêrô
I nhắc nhở cho các tín hữu biết: “không phải nhờ những của chóng hư nát như
vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh
em truyền lại; nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn
toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.” Theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có từ muôn
thuở, “Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng
nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh
em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người
được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” Ai tin vào
Ngài, người ấy sẽ nhận được ơn cứu độ là được sống muôn đời.
(2)
Hãy biết sống làm sao ở đời này cho xứng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không thể
nhận lãnh ơn cứu độ bằng sức riêng của mình hay bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật;
vì mọi người đều phạm tội. Họ chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin tưởng vào Đức
Kitô và cố gắng giữ những gì Ngài truyền. Để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và
của Đức Kitô đã hy sinh mạng sống cho con người, tác giả răn dạy các tín hữu:
“Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc
đời lữ khách này.”
3/
Phúc Âm:
Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách
Thánh.
3.1/
Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ: Khi phải đương đầu
với những biến cố đau buồn trong cuộc sống, nhiều người đã không còn nhận ra
Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài. Thái độ này dễ đưa con người đến chỗ thất
vọng và không nhận ra Thiên Chúa, dù Ngài có hiện ra và đồng hành với họ. Hai
môn đệ của Chúa Giêsu rời Jerusalem để về Emmaus là một ví dụ sống động của
thái độ này. Họ buồn và rời Jerusalem vì bao nhiêu hy vọng của họ đặt nơi Chúa
Giêsu giờ đã tan thành mây khói. Họ tưởng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai uy quyền,
Ngài sẽ dùng quyền năng để đánh đuổi đế quốc Rôma và giải phóng dân tộc Do-thái
khỏi ngoại bang; nhưng nay Ngài đã chết rồi. Vài tia hy vọng mong manh của việc
Chúa sống lại không đủ để trợ giúp niềm tin bị thử thách của họ.
Điều
này chứng minh cho chúng ta thấy chúng ta cần có những giây phút cầu nguyện và
thinh lặng để suy niệm và để nối kết những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Chỉ
có sự soi sáng của Thiên Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra những lý do của
sự việc xảy ra, và giúp chúng ta vững tin nơi quyền năng của Ngài.
3.2/
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Hai môn đệ nhận ra
sự tăm tối của tâm hồn và mời Ngài ở lại. Chính lời mời gọi này đã giúp cho hai
ông nhận ra Đức Kitô và thêm tin tưởng nơi Ngài. Ba điều quan trọng chúng ta cần
học là:
(1)
Đức tin được kiên cố qua việc học hỏi Lời Chúa để nhìn ra kế hoạch cứu độ
trong các biến cố xảy ra hàng ngày và các biến cố đặc biệt. Bấy giờ Đức Giêsu
nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là
chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,
rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả
các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất
cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa
hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế
chiều, và ngày sắp tàn."
Bấy
giờ Người mới vào và ở lại với họ.
(2)
Tham dự Lễ Bẻ Bánh giúp tăng tình yêu của con người vào Thiên Chúa: “Khi đồng bàn với
họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở
ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường,
khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng
bừng cháy lên sao?"
(3)
Đức tin cần được sự nâng đỡ của cộng đoàn: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp
Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông:
"Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." Còn hai ông
thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào
khi Người bẻ bánh.” Người nào có khuynh hướng xé lẻ để tự giải quyết lấy thường
dễ rơi vào cạm bẫy của ma quỉ, Judah Iscariot là một trường hợp điển hình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải học Cựu Ước để hiểu rõ Tân Ước, và phải học Tân Ước để hiểu rõ Cựu
Ước. Cả hai chỉ là hai phần khác nhau của một kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
-
Tham dự Thánh Lễ cách trọn vẹn, vừa lắng nghe Lời Chúa vừa lãnh nhận Mình Thánh
Chúa, thắp lên trong chúng ta ngọn lửa tình yêu cho Thiên Chúa, giữ vững niềm
hy vọng, và nhiệt thành làm chứng cho Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
04/05/14 CHÚA NHẬT TUẦN 3 PS – A
Lc 24,13-35
Lc 24,13-35
QUYỀN NĂNG LỜI CHÚA
Mắt họ liền mở ra và họ nhận
ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau :”Dọc đường khi Người nói
chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy
lên sao ?” (Lc 24,31-32)
Suy niệm: Đoạn đường từ Giê-ru-sa-lem về Em-mau đâu chỉ
là một cung đường địa lý, nó còn là hành trình tiệm tiến từ thất vọng đến hy
vọng, từ tối tăm đến ánh sáng. Tâm trạng của hai môn đệ Em-mau khi rời thánh đô
là chán chường, tuyệt vọng. Đối với họ, Đức Giê-su đã chết có nghĩa đức tin của
họ nơi Ngài cũng bị đứt đoạn. Càng đi xa Giê-ru-sa-lem, họ càng bủn rủn, rã
rời. Trong hoàn cảnh ấy, Chúa Ki-tô phục sinh đến bên họ, giải thích Thánh Kinh
cho họ và lòng họ cháy bừng lên. Cảm nghiệm lòng cháy bừng khi nghe Lời Chúa
như một khám phá lớn lao trong đời của họ. Trước đây từng được nghe Lời Chúa,
nhưng họ không cảm nghiệm được quyền lực của Lời Chúa trong cuộc đời. Nay họ
nhận ra quyền lực của Lời đang thổi bừng lòng họ, từ những con người ủ dột,
buông xuôi; nay thành những Ki-tô hữu hăng hái ra đi.
Mời Bạn: Thế
giới hôm nay đang cần những Ki-tô hữu “bừng cháy” như thế. Thế nhưng, yếu kém
lớn nhất của chúng ta là không tin vào quyền lực của Lời Chúa trong Thánh Kinh.
Người ta tin vào khả năng thay đổi của một phương pháp hay một chương trình hơn
là tin vào quyền năng biến đổi của Lời Chúa. Đó là lý do làm cho thế giới ngày
càng ủ dột, tối tăm.
Sống Lời Chúa: Đọc
Tin Mừng và suy niệm 5 phút mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con hằng ngày luôn mời Chúa ở lại với con, để
Lời Chúa vang lên làm cháy bừng hồn tông đồ nơi con.
MỜI ÔNG Ở LẠI VỚI CHÚNG TÔI
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng... Hôm nay vẫn có nhiều
người bạn đang lê gót về Emmau.
Suy niệm:
Dưới dáng dấp một người
khách lạ,
Chúa Giêsu phục sinh đến với
hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc
họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì
chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần
bên họ,
khiêm tốn trở thành một
người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng
hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu
chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng
trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới không
biết chuyện vừa xảy ra...”
Ngài không cắt đứt cuộc đối
thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để họ
nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng
nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy
vọng rằng...”
Như thế niềm hy vọng này chỉ
còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên
chai lì,
họ đâu có tin vào lời của
các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu
nhận ra cái gút của vấn đề,
những câu hỏi mà họ không
tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của Chúa,
người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một kẻ
bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa
của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức
Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là vinh
quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là chuyện
xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng trong
chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin
Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu đi,
lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng
bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm bánh
bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách lạ
chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ
Emmau cũng là của chúng ta.
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt,
thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần
bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến
mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự
hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại
được.
Ngài ở lại với ta cả khi ta
không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với
ta hôm nay
qua một người bạn hay một
người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng
ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng
thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng
và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là
tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý,
tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều người
bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu nguyện:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con
khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng
say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày
sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu
gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm
tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện
diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn.
(Cha Piô)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4
THÁNG NĂM
Một
Nơi Chốn An Toàn Và Thảnh Thơi
Đức
Kitô tuyên bố Người không chỉ là “mục tử” mà còn là “cửa” cho chiên ra vào nữa
(cf. Ga 10, 7). Như vậy, Người sử dụng hai ẩn dụ khác nhau có sức diễn tả đặc
biệt. Hình ảnh “người mục tử” tương phản với hình ảnh “kẻ làm thuê”. Hình ảnh
“mục tử” khắc họa rõ rệt mối quan tâm sâu sắc của Đức Kitô đối với đàn chiên của
Người, quan tâm đến độ Người đã thí mạng mình để cứu độ chúng ta: “Mục tử tốt
lành hy sinh mạng sống mình cho chiên” (Ga 10, 11). Thư Ê-phê-sô cũng trình bày
tương tự: “Đức Kitô đã yêu mến Giáo Hội. Người đã hiến mình cho Giáo Hội” (Ep
5, 25). Việc của chúng ta là phải nhận hiểu ra rằng Người là Chúa duy nhất của
mình và đi theo “tiếng của Người” (Ga 10, 4), chứ không ngây ngô trao thân gửi
phận cho kẻ làm thuê – vì kẻ làm thuê rốt cục chỉ quan tâm đến tiền lương của
mình, “không lo lắng đến đàn chiên” (Ga 10, 13).
Suy
tư này soi sáng cho chúng ta hiểu ẩn dụ kia – ẩn dụ “cửa” hay “cổng cho chiên
ra vào”. Đức Giêsu nói: “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu; người ấy sẽ ra vào
và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9). Người mục tử dẫn chúng ta đến chỗ an toàn và
nghỉ ngơi. Chúng ta có thể vào qua cửa ra vào và gặp được sự an toàn và thư
thái ấy.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 04-5
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
Cv 2, 14.22-33; 1Pr 1,
17-21; Lc 24, 13-35.
LỜI SUY NIỆM: “Các anh vừa đi vừa trao đổi
với nhau về chuyện gì vậy.”
Hai người môn đệ của Chúa
Giêsu, trên đường trở về Em-mau với nhiều tâm sự như nhau, những điều họ hy vọng,
giờ đây đầy thất vọng, những gì cho là công chính, đáng ra phải được tôn vinh,
nay lại bị những kẻ gian ác cấu kết với nhau giết hại. Trước những hoài nghi của
người môn đệ của Chúa.Chúa yêu thương họ, Chúa đã đến đồng hành với họ, Chúa
dùng Thánh Kinh soi dẫn, làm cho tâm hồn họ bừng cháy lên. Chúa đã bẻ bánh và họ
nhận ra: Chúa đã Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu. Trong mọi
gian nan thử thách của cuộc sống gia đình chúng con. Xin Chúa đến đồng hành với
chúng con, khai mở cho chúng con biết đối chiếu với những đòi hỏi trong Kinh
Thánh, để chúng con nhận có Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng con.
Mạnh
Phương
04
Tháng Năm
Xin Chúa Tha Thứ
Cho Tôi
Sau
thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một
người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng
có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.
Người
khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục
thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không
quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.
Ngày
nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa.
Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét
run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể
lại cuộc đời của mình như sau: "Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản
gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu
lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ.
Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người
con trai duy nhất là thoát khỏi".
Nghe
đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để
nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: "Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu
đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái
vật khát máu... Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu
đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh
của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường
là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của
người vợ... Xin Chúa tha thứ cho tôi".
Vừa
nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh
mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một
công thức giải tội, ông đã nói như sau: "Tôi chính là người con trai còn sống
sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi
tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...".
Câu
chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi
thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho
mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao
sang nhất của lòng người...
Sự
hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta
một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý
của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại
công trường thánh Phêrô để chờ đón Ðức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát
chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Ðức Thánh Cha đã gục
ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch
sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.
Ali
Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh
niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu
trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người... Nhưng thế giới
không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người
để yêu mến và tha thứ...
Năm
1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Ðức Gioan Phaolô II
đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho
anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh
tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt
của tha thứ, của hòa giải...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét