04/05/2014
Chúa Nhật III Phục Sinh
Năm A
(phần
II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM NHẬT III PHỤC SINH, NĂM A
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM A
Công Vụ Tông Đồ 2:14, 22-33; Thư I của Thánh Phêrô
1:17-21
và P. Luca 24:13-35
I. Giáo Huấn P.Â.:
Đức Kitô phải đau khổ, chịu chết rồi mới sống lại
vinh quang đúng như Kinh Thánh Cựu Ước đã mô tả từ trước.
Chúa cho hai môn đệ thất vọng nhận ra Chúa khi
Ngài bẻ bánh.
Chúng ta chỉ nhận ra Chúa khi biến mình thành
những hy sinh chia sẻ với người khác. Hay nói khác đi khi Chúa cho chúng ta
nhận ra Ngài.
II. Vấn nạn P.Â.
Kitô nghĩa là gì?
Tiếng Anh: Christ; Tiếng Pháp: Christ; Tiếng La-tinh: Christus. Tất cả được
dịch từ tiếng Hy Lạp: Christos. Christos dịch từ tiếng Do Thái Mashiah, có
nghĩa “Đấng được xức dầu” Trong Kinh Thánh Cựu Ước “Đấng được xức dầu” dùng để
chỉ các vua, các tư tế, các tổ phụ. Đặc biệt để tiên báo về một Vị Cứu Tinh đến
từ dòng dõi David. Mashiah là hy vọng và sự đợi trông của Dân Do Thái (Sách Samuel
quyển II 7:5-16; Sách Niên Sử 17:4-14; Thánh Vịnh 89:20-38).
Sách Công Vụ Tông Đồ là gì?
Công vụ Tông Đồ (Acts of the Apostles): công việc
truyền đạo của các Tông Đồ. Trong tiếng La-tinh Công Vụ gọi là Acta, có nghĩa
công việc đang tiến hành hay một ghi nhận những biến cố đang xảy ra
(proceedings or record of happenings)
Công Vụ Tông Đồ là quyển sách ghi lại công việc
truyền đạo của các Tông Đồ sau khi Chúa lên trời, khởi đầu từ Giêrusalem. Đây
cũng là quyển sách mô tả đời sống Giáo Hội sơ khai: bị bách hại, nhưng người
tin Chúa mỗi ngày thêm đông. Truyền thống cho rằng Luca, môn đệ của Thánh
Phaolô là tác giả của Sách Công Vụ Tông Đồ được viết khảng năm 63 khi Thánh
Phaolô bị cầm tù ở Rôma.
Tại sao hai môn đệ chỉ nhận ra Chúa khi “Chúa đồng
bàn và bẻ bánh trao cho họ?’
Hai môn đệ về làng Ê-mau không là tông đồ, không
ở trong nhóm mười hai tham dự Bữa Tiệc Ly và đã nhìn thấy Chúa bẻ bánh. Nhưng
họ lại “nhận ra Chúa khi bẻ bánh!” Họ nhận ra Chúa, vì Chúa cho họ nhận ra Ngài
lúc đó, hay nói theo từ ngữ Phúc Âm là “mắt họ liển mở ra”. Cũng giống như Bà
Maria Mađalêna, khi thấy Chúa sống lại mà cứ ngỡ là người làm vườn, cho đến khi
Chúa gọi “Maria” thì Bà mới nhận ra Chúa và gọi “Ráp-bu-ni” nghĩa là ‘lạy
Thầy!’ (Gioan 20:15-16).
Điếu đó cho thấy, chúng ta chỉ nhận ra Chúa khi
Chúa bẻ bánh hay khi chúng ta được Chúa cho nhận ra Ngài và chia sẻ thân thể
Ngài trong bí tích Thánh Thể. Có nhiều người học cao hiểu rộng và nghiên cứu cả
về thần học, về Kitô giáo, nhưng vẫn không có đức tin, không nhận ra Chúa. Chúa
chưa cho họ nhận ra Ngài hay tâm hồn họ chưa đến lúc đón nhận Chúa.
Chúng ta thường hiểu: Vô thần là không tin có thần thánh, như người cộng sản vô
thần không tin có Chúa hay Đấng tôi cao siêu việt. Thật sự, vô thần là người
tin có Chúa, có Đấng Tạo Hoá, nhưng vì kiêu ngạo, tự phụ vào khoa học mà họ
chối bỏ sự hiện hữu thần thiên và quyền tối cao của Đấng hoá công. Giáo Hội
Công Giáo ở các nước cộng sản không bao giờ nản lòng hay bỏ cuộc ngưng truyển
giáo cho người Cộng sản. Thường chúng ta hiểu truyền đạo hay truyền giáo là
mình mang Chúa đến cho người khác, hay nhờ mình mà njgười ta biết Chúa. Thật sự
chúng ta chỉ là công cụ, là phương tiện Chúa dùng để giới thiệu Chúa cho người
khác. Chính Chúa mới là người truyền đạo hay chính Chúa mới là người làm cho
người khác nhận ra mình. Áp dụng quan niệm truyền giáo nầy, Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam luôn chủ trương đồng hành với dân tộc hay với nhà cầm quyền vô thần.
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không hề chủ trương khai trừ như ngày xưa. Giáo Hội
Việt Nam cũng không chủ trương hoà đồng hay trở nên vô thần như người cộng sản,
nhưng là đồng hành. Cùng đi với nhau, người ta mới có thể nói chuyện và hướng
dẫn người khác tìm chân lý. Khi thời điểm đã chín mùi, chính Chúa sẽ cho người
không tin Chúa hay chối bỏ Chúa nhận ra Chúa.
III. Thực hành P.Â.:
Theo đạo là theo Chúa Kitô, Đấng chịu đau khổ, Đấng đã chết, nhưng cũng đã sống
lại vinh quang.
Bà Trần thị Kịm Vân năm nay đã 72 tuổi. Lễ Phục Sinh năm nay, lần đầu tiên bà
quay lại nhà thờ sau gần 40 năm “thề không tin Chúa và theo đạo!”. Bà nguyên là
một nữ sinh có tài, có sắc và lớn lên trong một gia đình Phật giáo nề nếp. Bà
đã theo đạo để lấy người chồng Công Giáo mà bà rất mực yêu thương. Bà bất chấp
khó khăn và cả cả sự ruồng bỏ của gia đình để sống chung thủy với chồng..
Nhưng không ai ngờ, chính người chồng Công Giáo nầy đã bỏ rơi bà với 4 đứa con
thơ để đeo đuổi và chung sống với một người đàn bà khác. Cái lạ ngoài sức tưởng
tượng của bà là bên nhà chồng bà, gia đình Công Giáo gốc lại tán đồng và bênh
vực chuyện chồng bà bỏ bà. Bà căm thù và thề không tin Chúa và không theo đạo.
Qua hai lần tiếp xúc với một linh mục bà nhận ra: Người theo đạo Công Giáo
không luôn là người theo Chúa. Bà được linh mục hướng dẫn đọc Phúc Âm về Chúa
Phục Sinh. Chúa sống lại mang sự sống mới. Sự sống không có hận thù, chết chóc
và đau khổ. Bà chôn mọi thứ vào mồ quá khứ và đi dự lễ Mừng Chúa Phục Sinh thật
sốt sắng. Bà sống lại với sự sống mới! Alleluia
Lúc đầu thực sự bà chỉ theo chồng chứ không theo Chúa Kitô Phục Sinh. Hay nói
khác đi bà chỉ muốn thấy màu hồng hay màu xanh chứ không có màu đen hay màu sám
cuộc đời. Chúa Kitô thực sự sống thân phận con người như chúng ta: sinh ra, lớn
lên, đau khổ, chết và sau cùng Phục Sinh. Là Kitô hữu tức người theo Chúa Kitô
Phục Sinh chúng ta phải chấp nhận thánh giá cuộc đời, phải gặp nhiều đau khổ,
nhiều khi bị bỏ rơi, và cả những ngày tăm tối trong mồ sâu thất vọng… rồi mới
có ngày Phục Sinh vinh quang. Hãy luôn tin rằng “ngày mai trời lại sáng!” Hãy
luôn tin rằng: Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian có đổi thay, dù lòng
người có đành tâm hững hờ… Cho đến muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Amen
Chồng tôi bỏ đạo là phải vì Ông Cha bạn thân mà anh ấy tin tưởng đi tằng tịu
lén lút với một cô, có con mà vẫn còn làm lễ.
Tôi trả lời: Như vậy là Chồng chị đâu còn tôn thờ Chúa mà tôn thờ vị linh mục
đó. Thật vậy: Chúng ta theo đạo Chúa. Chúa lập đạo Công Giáo để ban ơn cứu độ
cho chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa thành lập Bí Tích
truyền chức thánh để có những người được dành riêng tế lễ Chúa và giúp chúng ta
thờ phượng Chúa và được Chúa cứu độ. Như vậy: Chúa là đối tượng của thờ phượng.
Chúng ta đi nhà thờ hay giữ đạo là để nhận ơn cứu độ Chúa ban. Nhiều khi chúng
biến linh mục thành đối tượng của đức tin hay của việc thờ phượng Chúa. Tôi đi
nhà thờ vì Cha giảng hay, vì Cha thánh thiện, vì Cha vui tánh và friendly….vì
Cha và vì Cha….Nên có ngày tôi sẽ bỏ đạo vì Cha nói dối, vì Cha cọc cằn thô lỗ,
vì Cha bậy bạ… lại vì Cha và vì Cha…
Sai quá rồi! Cha đâu phải là Chúa. Cha chỉ là công cụ Chúa dùng để mang ơn Chúa
cho chúng ta. Có nhiều công cụ tốt, có nhiều công cụ tồi…. Những công cụ tồi
gây thách đố đức tin, nhưng tất cả chỉ là công cụ và tạm bợ…. Một ngày nào đó
vị linh mục trên phải sám hối hay sẽ phải hoàn tục. Chúa vẫn còn đó như cứu
cách cho đời chúng ta. Vì Ngài là Chúa, Ngài không sai lầm và không phản bội
đức tin của chúng ta.
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
Trên đường Emmau
Tin Mừng hôm nay ghi lại
cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành
Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang
trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất
hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái
lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về Đấng Phục
Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Đấng Phục Sinh luôn là
người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài
luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng
ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống
mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc
sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và
nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và
thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể
thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt
đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình
bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến
tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực
trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi:
"Đâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Đâu là ý nghĩa của thân phận con
người?"
Chính lúc ấy, Chúa Kitô
Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước
hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu
hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con
người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và
đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau
thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy,
vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn
vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Đây chính là kinh nghiệm mà
người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên
đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài,
và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và
trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các
biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay, trong từng biến
cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với
chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng
niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng
hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở
ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa
của cuộc sống.
Ước gì sự hiện diện của
Đấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm
hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi
bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ngày 4-5-2014: ĐỨC GIÊSU
HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ EMMAU (Luca 24,13-35 – Phục Sinh; CN III PS - A)
Đức Giêsu hành động như người loan báo Tin
Mừng và như vị tôn sư; Người sử dụng khả năng nhà chú giải và huấn giáo viên để
cung cấp lời giải thích các môn đệ đang chờ.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Sau khi các phụ nữ đã
mang sứ điệp Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giảLuca mô
tả hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai
môn đệ Emmau (24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn (24,36-53).
Riêng cho truyện Emmau, chúng ta không có đoạn văn Nhất Lãm song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi các phụ nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và đang sống, nên không thể gặp Người giữa kẻ chết. Nhưng ta không biết là có thể gặp Người ở đâu và gặp Người cách nào. Chính Đức Giêsu đã lấy sáng kiến và hiện ra trong những hoàn cảnh khác nhau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Hai môn đệ đi về
Emmau (24,13-14);
2) Đồng hành và đối
thoại với Đức Giêsu (24,15-27);
3) Nhận ra Đức Giêsu khi
Người bẻ bánh (24,28-32);
4) Trở lại Giêrusalem
(24,33-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Emmau (13): Bản văn cho biết Emmau cách
Giêrusalem 60 dặm (stadious), tức 11,5 cây số (một dặm =
192m). Đến nay người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn đây là làng nào: là
làng Amwas = Nicôpôli (176 dặm = 32,5cs; 1 Mcb 3,40.57: Ammaous),
hay là làng Kulonje (30 dặm = 5,5 cs; Phơlaviô Gioxép, Chiến tranh Do
Thái VII 6,6 § 217: Ammaous), hoặc là làng Kubêbe (64 dặm
= 12cs; vào thời các thập tự quân: Castellum Emmaus)?
- (Và) xảy ra là đang lúc (15): Trong chương 24, có bốn lần tác giả Luca dùng cụm từ “kai egeneto en tô…”, mà Bản dịch CGKPV không dịch, còn cha Thuấn thì dịch là “đang khi…”, “xảy ra là đang lúc…”, “và xảy ra là khi…”, “và xảy ra là đang khi…”. Tác giả dùng công thức này để dẫn vào những sự cố đặc biệt: hai chứng nhân xuất hiện (c. 4), Đức Giêsu đến cùng đi với hai môn đệ (c. 15), Đức Giêsu tỏ ra như là người chủ tọa bữa ăn (c. 30), và Đức Giêsu được đưa lên trời (c. 51).
- trò chuyện và bàn tán (15): Homilein, “trò chuyện”; syzêtein, “tìm với nhau, tranh luận, tranh cãi; bàn tán”; động từ syzêtein lại được dùng trong Cv 15,7.10, là nơi nhắc đến những tranh cãi kịch liệt trong Hội Thánh tiên khởi về vấn đề cắt bì. Như thế, câu chuyện tỏ ra sôi nổi và dường như các ông không hoàn toàn đồng ý với nhau.
- vẻ mặt buồn rầu (c. 17): Skythrôpos do skythros, “buồn rầu” và ôps, “gương mặt”.
- chẳng hiểu gì (25): Anoêtos có nghĩa là “thiếu khả năng suy nghĩ; không có đầu óc; kém thông minh; ngu xuẩn” (x. Gl 3,1: ô anoêtoi Galatai, “hỡi những người Galát ngu xuẩn”). Sau này, ở 24,45, tác giả cho biết Đức Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.
- lòng trí thật là chậm tin (25): dịch sát là “chậm (bradeis) về trái tim để tin”. “Trái tim” (kardia), trung tâm của ý chí, trí tuệ và tình cảm của con người (x. 24,25.32.38). Động từpisteuein, “tin” (Mt 11x, Mc 14x, Lc 9x, Ga 98x) chỉ được Lc dùng ở đây (danh từ pistis, “đức tin”: Mt 8x, Mc 5x, Lc 11x, Ga 0x). Trong Lc, động từ này luôn quy về lời nói, ở đây là lời các ngôn sứ. “Tin” có nghĩa là cương quyết chấp nhận giá trị của lời nói.
- Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình (26): “Phải” đây là động từ dei ở thì vị hoàn (edei): động từ nay diễn tả một điều cần thiết thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa. Xem 9,22; 17,25; 22,37; 24,7.44.
- trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ (27): “Ông Môsê” làBộ Ngũ Thư; “các ngôn sứ” là các sách sử và các sách ngôn sứ; “tất cả Sách Thánh” là những sách còn lại của Cựu Ước. Xem cách chia Kinh Thánh Do Thái thành ba phần ở 24,44.
- giải thích (27): Diermêneuein có nghĩa là “giải nghĩa, giải thích, chú giải”. Động từ này chỉ được Lc dùng ở đây; ở Cv 9,36, động từ này có nghĩa là “dịch”, và ở 1 Cr 14,5.13.27, có nghĩa là “giải thích điều được nói bằng các tiếng lạ; giúp hiểu điều người ta không tự mình hiểu được; đưa đến chỗ hiểu biết”. Những công thức có nghĩa tương tự là: “giải thích (dianoigô tas graphas, “mở trọn vẹn, mở toang Kinh Thánh”) Kinh Thánh cho chúng ta” (24,32) và “Người mở trí (dianoigô ton noun, “mở rộng trí”) cho các ông hiểu Kinh Thánh” (24,45).
- Mắt họ liền mở ra (31): Dịch sát là “mắt họ đã được mở ra” (diênoichthêsan, aor. pass. của động từ dianoigô, “mở trọn vẹn”). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đi về Emmau
(13-14)
Bản văn mở ra với “hai người trong nhóm môn đệ” đang bước đi và trò chuyện. Sau đó, ta được biết một người tên là Cơlêôpát (c. 18). Họ không thuộc về Nhóm Mười Một, nhưng thuộc về nhóm những người khác đang cùng ở với Nhóm Mười Một (x. 24,11). Qua lời họ kể (24,22-24), họ chứng tỏ họ biết tất cả những gì đã được kể ở 24,1-12; họ biết những gì cộng đoàn biết và sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết này gia tăng thêm.
Về thời gian, đây “cũng ngày hôm ấy”, tức ngày thứ nhất trong tuần (24,1). Họ cho biết là họ chỉ ra đi khi đã kiểm chứng tất cả các sự cố của 24,1-12. Bây giờ họ đang tiến về mộtlàng tên là Emmau, cách Giêrusalem khoảng mười một cây số.
Trong khi đi đường, họ trò chuyện sôi nổi với nhau. Đối tượng của cuộc bàn tán được mô tả tổng quát: “tất cả những sự việc mới xảy ra” (c. 14; x. c. 18) và ta hiểu nhờ những phần tường thuật trước đó của tác giả Tin Mừng.
* Đồng hành và đối thoại
với Đức Giêsu (15-27)
Hai môn đệ cùng đi với nhau, họ chia sẻ các tâm tình với nhau, nhưng dường họ cũng không đồng quan điểm với nhau; có chuyện gì đó đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và họ vẫn chưa có thể đồng ý với nhau về chuyện ấy hoặc tìm lại được bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với họ, rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu theo quan điểm của họ (cc. 19b-24). Sau đó, Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh Thánh (cc. 25-27).
Sau khi Đức Giêsu đã trở thành bạn đồng hành của họ, dù họ vẫn không biết Người là ai (cc. 15-16), hai bên đã trao đổi ba câu hỏi (cc. 17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện rõ ràng hơn. Tác giả nhắc lại rằng con người đến gần hai môn đệ và bắt đầu bước đi với họ đúng là Đức Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi kêu lên với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các hành động mới của Người là: đến gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người thật sự đang sống (x. 24,5) và quan tâm trước tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng Đức Giêsu đến như một người lữ khách bình thường, nhưng hai người môn đệ không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa vào ba câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của Đức Giêsu, Người tham gia vào cuộc thảo luận của họ (c. 17).
Phản ứng đầu tiên của họ là dừng lại. Cho tới nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c. 13), cùng đi (c. 15), đi (c. 17). Việc dừng lại dường như là do sự ngạc nhiên được diễn tả trong câu hỏi tiếp sau (c. 18). Tác giả cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản ứng thứ hai là câu hỏi của một ông tên là Cơlêôpát (Kleopas là dạng tắt của Kleopatros). Ông này cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có thể nói về một chuyện duy nhất, nên một người lạ cũng phải biết; thế mà người bạn đồng hành này lại không biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi thứ hai, rất ngắn: “Poia? (Những chuyện gì vậy?)”. Là nhân vật chính trong các biến cố ấy, Người lại tỏ ra như không biết. Người chứng tỏ sẵn sàng lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn tả các tư tưởng và các mối bận tâm.
Họ bắt đầu kể. Có thể nói phần tường thuật của họ là một bản tổng hợp hành trình của Đức Giêsu và của TM Lc. Phần tường thuật có chủ đề “Chuyện ông Giêsu Nadarét”, với mở đầu cô đọng nhưng càng lúc càng rõ hơn. Hoạt động công khai của Người (x. Lc 4–21) được tổng hợp trong câu nhận định: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (c. 19; x. Lc 7,16). Dân chúng đã nhận biết Người là một ngôn sứ vĩ đại. Về cuộc Thương Khó của Người, hai ông nhắc đến các vị có trách nhiệm: “các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta” và diễn tả biến cố này bằng hai từ, “nộp” và “đóng đinh” (x. 24,7). Đến đây, họ ngưng phần kể truyện mà đưa vào một lời bình diễn tả nỗi thất vọng của họ: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (c. 21). Họ đã nghĩ đến một cuộc giải phóng dân tộc Do Thái mang tính chính trị. Ở c. 47, Đức Giêsu sẽ cho hiểu đây là cuộc giải phóng muôn dân khỏi tội lỗi.
Và cứ thế, họ đi đến giờ phút hiện tại: các sự việc xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi (c. 21). Phải chăng họ đang gợi tới các lời tiên báo về Phục Sinh vào ngày thứ ba (9,22; 18,33; 24,7.46) và muốn ám chỉ rằng các lời ấy đã không thành sự? Phải chăng họ đang quy chiếu về niềm tin dân gian Do Thái cho rằng linh hồn vẫn ở gần thân xác cho đến ngày thứ ba, rồi mới vĩnh viễn tách ra? Dù thế nào, nhận xét ấy vẫn cho thấy nỗi thất vọng của họ.
Họ lại kể lại câu truyện và lần này kể rộng rãi hơn: đoạn 24,22-23 tương ứng với 24,2-11, còn đoạn 24,12 tương ứng với 24,24. Họ kể chi tiết kinh nghiệm của các phụ nữ: các bà này đến mộ từ sáng sớm, không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả, nhưng lại nói là đã thấy các thiên sứ hiện ra bảo rằng Người vẫn sống (x. 24,5t). Quả thật, các phụ nữ trở về, kể truyện, đã làm cho cộng đoàn sửng sốt. Họ kể lại sứ điệp của các phụ nữ (c. 24); rồi cũng cho biết có “mấy người trong nhóm chúng tôi” đã đến và thấy mộ trống, nghĩa là “thấy sự việc y như các bà ấy nói”. Để kết luận, họ nêu một nhận định cho đến nay chưa nói ra: “còn chính Người thì họ không thấy”. Trong khi họ nói ra điều này, họ nhìn Đức Giêsu mà không nhận ra Người (x. c. 16). Rồi họ sẽ là những người đầu tiên thấy Người (c. 31). Trong cuộc hiện ra với các môn đệ, chính Đức Giêsu cũng nhấn mạnh trên việc thấy: ở 24,39, hai lần động từ idete, “hãy nhìn xem”, được dùng (Có thể dịch lại 24,39 như sau: “Hãy nhìn xem (idete) tay chân Thầy đi, vì chính Thầy đây mà! Hãy rờ Thầy và nhìn xem (idete) đi, vì ma đâu có thịt có xương như anh em thấy (theôreite) Thầy có đây ?”).
Kế đó, tác giả ghi lại giọng văn trực tiếp của Đức Giêsu, trước hết là một tiếng than và mộtcâu hỏi mang tính hùng biện (cc. 25-26), rồi cách thức Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh cho hai ông (c. 27). Trong khi các ông đã tóm các biến cố, Đức Giêsu lại cho thấy liên hệ của các biến cố ấy với Kinh Thánh, là nơi tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa.
Trong tiếng than, Đức Giêsu đã đánh giá hai ông là “chẳng hiểu gì và lòng trí thật là chậm tin”; đây là một lời trách: trí tuệ và trái tim của các ông không sao tin được tất cả những gì các ngôn sứ đã nói. Trong câu hỏi mang tính hùng biện, Đức Giêsu nhấn mạnh trên sự kiện là, thể theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất thiết Đức Kitô phải (dei) đi qua cuộc Thương Khó để vào vinh quang. Họ nói về Đức Giêsu như là vị ngôn sứ lớn (c. 19), Đức Giêsu lại nói về Đấng Kitô (cả 24,46): quả thật, trong cuộc xử cũng như khi chế giễu Đức Giêsu, người ta tập trung vào “Đấng Kitô” (22,67; 23,2; 23,35.39). Trong câu “chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người”, cụm từ thứ hai đã thay thế động từ “trỗi dậy” trong những đoạn tương tự (x. 9,22;24,7.46): như thế, “trỗi dậy”, hay “sống lại”, có nghĩa là “đi vào trong vinh quang”, tức là đi vào sự hiện diện trực tiếp của Thiên Chúa và thông phần vào vinh quang của Người.
Sau đó, Đức Giêsu rảo qua toàn bộ Cựu Ước để giải thích cho hai môn đệ những điều liên quan đến Người: trong tư cách là “nhà chú giải” (diermêneuein, “giải thích, chú giải”), Đức Giêsu cho hai ông thấy Kinh Thánh đã nói về Người ở đâu và nói như thế nào. Câu 24,27 và 24,44 có cùng nội dung là “những gì liên quan đến Đức Giêsu”, nhưng câu đầu thì Đức Giêsu nói mà chưa được nhận ra, còn câu sau thì Người nói sau khi đã được nhận biết.
* Nhận ra Đức Giêsu khi
Người bẻ bánh (28-32)
Trong phần đầu, hai môn đệ tha thiết thuyết phục Đức Giêsu ở lại với họ (24,28-29). Trong phần giữa, Đức Giêsu bẻ bánh, được nhận biết và biến mất (24,30-31). Cuối cùng là lời bình luận của hai môn đệ (24,32).
Ba người đã đến gần mục tiêu hai môn đệ nhắm tới (x. 24,13). Đức Giêsu làm bộ (“làm ra vẻ, giả bộ”) muốn đi tiếp, nghĩa là Người tiếp tục tỏ ra như là người bạn đồng hành ngẫu nhiên. Họ tha thiết xin (“ra sức, ép buộc”) Người ở lại với họ và Người đã thuận theo lời họ xin. Họ viện lý do là trời đã xế chiều, nhưng sự khẩn khoản của họ chứng tỏ họ hết sức quý trọng người bạn đồng hành này. Những chi tiết được lặp đi lặp lại trong cc. 29 và 30 cho thấy có nguyện vọng được ở lại với nhau (“Mời ông ở lại với chúng tôi”: 24,29; “Người vào và ở lại với họ”: 24,29; “Khi đồng bàn với họ”: 24,30). Sự hiệp thông giữa ba người trở thành một sự hiệp thông trong bàn ăn (c. 30).
Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã xử sự như người chủ tọa; Người đã làm bốn hành động: Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ta không thể không thấy Người xử sự y như trong Bữa Tối cuối cùng (Lc 22,19-20. So sánh 22,19 // 24,30), tuy ở đấy Đức Giêsu có nói một số lời và cho phân phát một chén rượu. Ta cũng thấy Người xử sự như thế khi nhân bánh và cá ra nhiều (9,12-17), chỉ có điều là ở đấy, sau khi cầm lấy, Người lại ngườc mắt lên trời (9,16). Các môn đệ đã nhận ra Người. Khó có thể cho rằng các ông đã nhận ra Người vì nhớ lại Bữa Tiệc cuối cùng, bởi vì các ông không có mặt ở đấy. Hợp lý hơn, có thể nói là vì các ông đã có mặt khi Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều hoặc đã thường thấy Đức Giêsu làm cử chỉ này. Còn một câu hỏi khác: Phải chăng Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai môn đệ Emmau? Người ta thường trả lời là “không”, với các lý do: cử chỉ Đức Giêsu làm là mở đầu thông thường cho một bữa ăn Do Thái; Lc không ghi lại một lời giải thích nào của Đức Giêsu; thiếu việc trao một chén rượu; hai môn đệ này không có mặt trong Bữa Tiệc cuối cùng, vì chỉ dành cho các tông đồ (22,14). Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận là có tương quan chặt chẽ giữa 24,30 và 22,19. Thế rồi, hai môn đệ ấy đã nói đến “việc bẻ bánh” của Đức Giêsu (24,35). Cụm từ ấy chỉ xuất hiện ở đây và ở Cv 2,42. Vậy không thể chứng minh được là Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai ông, nhưng 22,30.35 là những câu nhắc các độc giả Lc nhớ tới Bữa Tối cuối cùng và những buổi cử hành Thánh Thể của họ. Và hẳn là khi nghe hai ông kể lại kinh nghiệm vừa trải qua, Nhóm Mười Một cũng nhớ lại Bữa Tối cuối cùng, trong đó quả thật Đức Giêsu đã ban Mình Người cho các ông (22,14.19). Như thế, Bữa Tối cuối cùng, với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên sống động trong tâm khảm của cộng đoàn.
Kết quả mà hành vi của Đức Giêsu tạo ra là tương quan của hai môn đệ với Người được đảo ngược: Trước kia, ở 24,16, mắt của các ông còn bị ngăn cản, nay ở 24,31, mắt các ông đã mở ra để nhận biết Người, nhưng thật ra là Thiên Chúa mở mắt cho các ông (thái bị động thay tên Thiên Chúa). Người ta không thể nhìn thấy và nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân loại; nhận ra Đức Giêsu hiện diện và chân tính của Người là mộtơn Thiên Chúa ban. Hai ông đã hưởng nhờ ân huệ lớn lao từ cách xử sự của Đức Giêsu. Các ông đã kết thúc truyện kể ngược lại quá khứ với một nhận định buồn rầu: “còn chính Người thì họ không thấy” (24,24). Bây giờ họ là những người đầu tiên của cộng đoàn (nhưng x. 24,34) được ban cho ơn thấy Đức Giêsu Phục Sinh và đang sống. Và khi đã nhận biết Đức Giêsu đang sống, họ mới có thể nhận ra là Đức Giêsu đã làm gì cho họ, khi đi bên họ, giải thích Kinh Thánh và trao bánh cho họ. Nhưng cũng ngay khi đó, Đức Giêsu biến mất. Họ phải học biết rằng nay đã chấm dứt hình thái hiện diện của Người theo kiểu loài người và trần thế, mà họ đã quen.
Trong lời bình luận (24,32), hai ông đã nêu bật kinh nghiệm vừa trải qua với Đức Giêsu, khi Người giải thích Sách Thánh cho họ (24,25-27). Họ ghi nhận một sự thay đổi trong tim, vì bây giờ con tim họ bắt đầu nóng cháy lên.
* Trở lại Giêrusalem
(33-35)
Trong phần kết luận này, tác giả kể lại chuyến quay trở lại Giêrusalem của hai môn đệ (24,33), tại đó họ được loan tin là Chúa đã sống lại và đã hiện ra với Simôn (24,34). Rồi các ông cũng nói đến kinh nghiệm trải qua với Đức Giêsu Phục Sinh (24,35).
Vì giờ đã muộn, hai môn đệ đã xin người bạn đồng hành ở lại. Nay chính họ lại lên đường quay trở lại Giêrusalem. Chuyến đi được kể chi tiết (24,13-27), còn chuyến về chỉ được nêu lên bằng sự kiện. Hai môn đệ hết sức ao ước được thông tin cho cộng đoàn, cho Nhóm Mười Một và những người khác đang cùng ở với các ông (x. 24,9), nhưng trước khi có thể nói ra, các ông đã nhận được một lời loan báo với hai thông tin: (1) “Chúa trỗi dậy thật rồi” (x. 24,6) (2) “và đã hiện ra với ông Simôn” (x. 1 Cr 15,5). Hành vi cuối cùng của Chúa (kyrios) mà Lc ghi lại là ở 22,51: “Chúa quay lại nhìn ông Phêrô; ông Phêrô sực nhớ lời Chúa đã nói với mình”. Sự thông cảm đầy yêu thương của Chúa đối với người tông đồ đầu tiên đã chịu thua sự yếu đuối, đã bắt đầu lại ngay sau khi ông chối Người (22,54-62) và được hoàn tất với cuộc hiện ra của Đức Chúa Phục Sinh (x. cả 5,8-l1; 22,31-32). Phêrô là chứng nhân đầu tiên thông tin cho cộng đoàn biết Đức Chúa đã sống lại và đang sống. Hai môn đệ Emmau có thể xác nhận. Hai ông có thể làm chứng về kinh nghiệm hai điểm của mình: (a) về những gì đã xảy ra cho họ trên đường (24,15-27); (b) về những gì họ đã trải nghiệm tại bàn ăn (24,28-32).
Sau khi hai môn đệ đã tường thuật, cộng đoàn có ba chứng từ về cuộc sống lại và về cuộc sống của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu không sao đưa các môn đệ đến chỗ hiểu Kinh Thánh được (18,31-34). Chỉ trong tư cách là Đấng Phục Sinh, Người mới mở được ý nghĩa của Kinh Thánh ra cho họ (x. 24,32.45). Như thế, người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Chìa khóa giúp giải thích những gì Kinh Thánh nói về hành trình của Đức Giêsu chính là cuộc Phục Sinh của Người; Đấng giải thích là Đức Giêsu Phục Sinh.
Trong khi Đức Giêsu Phục Sinh giải thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ đã nóng cháy (24,32), nhưng chỉ sau khi Người bẻ bánh, mắt họ mới mở ra (24,31). Hai hành vi này không đưa vào những yếu tố mới, nhưng nhắc lại những gì đã được ban cho các môn đệ, và bây giờ lại được ký thác cho họ theo cách mới. Từ nay, Đức Giêsu không ở trong những hoàn cảnh sống trần thế nữa. Do đó, họ phải đọc Kinh Thánh từ quan điểm của Đức Giêsu Phục Sinh. Khi đón nhận Mình và Máu Người, họ phải nhận ra tình yêu vô biên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua những chia sẻ cho
Đức Giêsu, hai môn đệ nói về “chúng tôi” bằng nhiều cách (“mấy phụ nữ trong
nhóm chúng tôi”, “mấy người trong nhóm chúng tôi”): họ chứng tỏ là họ rất gắn
bó với cộng đoàn. Cộng đoàn xuất hiện ra trong bài Tin Mừng này như là một điểm
quy chiếu vững chắc và như là nơi quy tụ tất cả các chứng từ và kinh nghiệm.
Các thành viên của cộng đoàn chưa được tiếp xúc trực tiếp với Đức Chúa Phục
Sinh, nhưng cộng đoàn là nơi chuẩn bị cho họ nhận biết chính Đấng Phục Sinh khi
Người hiện ra giữa họ
(24,36-53).
2. Lộ trình của hai môn đệ là “đi từ Giêrusalem về Giêrusalem”, hay “Giêrusalem-Emmau: chuyến đi khứ hồi”. Khi họ đi về Giêrusalem, họ đã rời bỏ cộng đoàn, Đức Giêsu đi bên họ mà họ không nhận ra Người. Khi họ quay trở lại Giêrusalem, họ muốn được liên kết trở lại với cộng đoàn, Đức Giêsu không còn đi với họ nữa, nhưng trái tim của họ chan hòa kinh nghiệm đã trải qua. Đã có một tiến trình đào sâu trong đó Đức Giêsu nổi bật hoặc như là đối tượng hoặc như là chủ thể. Kết quả là từng cá nhân và cộng đoàn đạt được một sự hiểu biết ngày càng sâu hơn về hành trình của Đức Giêsu và một sự nhận biết ngày càng chắc chắn hơn về sự Phục Sinh của Người.
3. Đọc truyện này, tôi cũng nhận ra được bố cục của một cuộc cử hành Thánh Thể: phần thứ nhất là Phụng vụ Lời Chúa: lắng nghe Lời Chúa và tìm hiểu ý nghĩa (Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh), phần thứ hai là Phụng vụ Thánh Thể (Đức Giêsu bẻ bánh). Chính Thánh lễ cũng sẽ đưa người tín hữu đến chỗ gắn bó với cộng đoàn hơn, làm chứng cho nhau để củng cố niềm tin, rồi lên đường tiếp tục chứng từ ấy giữa muôn dân.
4. Đức Giêsu đã làm một số hành vi: đến gần, cùng đi, hỏi, giải thích Kinh Thánh, bẻ bánh, mở mắt cho hai môn đệ, biến mất. Ba hành vi đầu có thể tóm lại bằng công thức “đi tìm con chiên lạc”. Hai môn đệ giống như con chiên trong bài dụ ngôn, đã bỏ đàn, và Đức Giêsu như người mục tử đi tìm con chiên lạc để đưa nó về đàn (x. 15,4-7). Trước khi tỏ mình ra cho toàn thể cộng đoàn (24,36-53), Đức Giêsu đã tìm lại được hai kẻ đã bỏ đi. Như thế, Đức Giêsu Phục Sinh cũng vẫn quan tâm đến những gì đã mất (đối với Phêrô cũng vậy: 22,61; 24,34).
5. Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa nói với dân Ngài là thẩm quyền cao nhất cho họ và là điểm quy chiếu mà mọi người đều biết. Khi cho thấy Sách Thánh nói về Người và về những biến cố chính của hành trình đời Người, Đức Giêsu giúp ta thấy rằng các biến cố ấy không phải là những biến cố xa lạ và phi lý, nhưng thuộc về tương quan và lịch sử của Thiên Chúa với dân Ngài. Khi đó ta mới vượt qua được chướng kỳ là Đức Kitô bị nộp và bị đóng đinh (23,35-39; 24,20-21).
6. Lời của hai môn đệ đúng là kêrygma: cho dù ở dạng không mấy minh nhiên (như ontôs êgerthê ho kyrios, “Chúa sống lại thật rồi”, Lc 24,34), kêrygma này có các yếu tố căn bản: ba ngày, các phụ nữ tại mộ, các thiên sứ, tin nói rằng Đức Giêsu vẫn sống. Nhưng ở đâykêrygma được kể ra như là một điều không hiểu được, một điều hẳn là không thể nào đã xảy ra và lại là một bi kịch cho tất cả những ai đã đặt tin tưởng vào Người. Các lời thì có đó, nhưng con tim thì không; phải nói là con tim chỉ đầy phiền muộn, thất vọng, khiến cho người nói cảm thấy cay đắng, và do đó không thuyết phục được người nghe. Cần phải nghe câu trả lời của Đức Giêsu, một câu trả lời diễn tả kêrygma đích thật. Đức Giêsu hành động như người loan báo Tin Mừng và như vị tôn sư; Người sử dụng khả năng nhà chú giải và huấn giáo viên để cung cấp lời giải thích các môn đệ đang chờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét