15/05/2016
Chúa Nhật CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.
Lễ trọng. Lễ HỌ - Cầu cho giáo dân.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống - Năm C
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG
Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13
Ga 20,19-23
Ga 20,19-23
QUÀ TẶNG CỦA CHÚA PHỤC SINH
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
(Ga 20,23)
(Ga 20,23)
“Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và
xin canh tân
bộ
mặt
trái
đất
này”
(Tv 103,30). Đây là lời cầu xin tha thiết của bao thế hệ những người tin vào Thiên
Chúa. Mặc dù Chúa
Thánh Thần đã được
Chúa Kitô tuôn
đổ tràn đầy xuống trên các tông
đồ và Hội Thánh
sơ
khai, lời
cầu
xin này
vẫn
không mất giá trị thực tiễn đối với các tín hữu hôm
nay. Hội
Thánh vẫn luôn làm
mới
lại
lời
cầu
xin này
để nhờ sức mạnh của Chúa Thánh
Thần,
Hội
Thánh luôn biết sống trung tín
hơn
với
sứ
mạng
làm dấu chỉ tình thương của Thiên
Chúa cho một thế giới ít nhiều vẫn bị tổn thương, đang
bị đe dọa bởi các thế lực sự dữ.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Cv 2,1-11
Theo
thánh ý nhiệm
mầu
của
Thiên Chúa, ngày
Chúa Thánh Thần hiện xuống diễn ra vào
đúng dịp Lễ Ngũ Tuần của người Do-thái, như thể những khía
cạnh
thiết
yếu
của
Lễ
Ngũ Tuần sẽ được
hiện
thực
hóa nơi Lễ Hiện Xuống. Kinh Thánh cho chúng ta biết Lễ Ngũ Tuần là
một
trong ba đại lễ của người
Do thái
(gồm
Lễ
Vượt
Qua, Lễ
Ngũ Tuần và Lễ Lều). Lễ này
được cử hành 50 ngày
sau ngày
đầu tiên của Lễ Vượt Qua. Trong ba dịp đại
lễ
này, người Do-thái đi
hành hương kính Đức Chúa
tại
nơi
Người
chỉ định cho họ. Sách Xuất Hành
ghi lại:
“Mỗi năm ba lần, mọi nam nhân
phải
đến trước nhan Đức
Chúa là Thiên
Chúa [của mình]”
(x. Xh 23,14-17).
Vào
thời
của
các tông đồ, Lễ Ngũ Tuần có lẽ là
dịp
đại lễ thu hút được
nhiều
người
Do-thái hành hương
nhất;
họ
từ
các vùng đất xa xôi về Giêrusalem để mừng sự kiện Thiên Chúa ban Luật cho ông Môsê trên núi
Sinai. Trong dịp
Lễ
Ngũ Tuần lần này, các
môn đệ đã được
Thiên Chúa đổ tràn Thánh Thần của Người xuống trên
họ.
Người
xuất
hiện
như “hình
lưỡi
lửa,
tản
ra và đậu xuống từng người một. Ai nấy đều được tràn
đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác,
tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”
(Cv 2,3-4).
Hình
ảnh
lửa
nhắc
chúng ta nhớ lại sự hiện diện của Thiên Chúa
trong cuộc
thần
hiển
của
Người
trên núi Sinai: “Cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa
ngự
trong đám
lửa
mà xuống” (Xh 19,18). Còn
việc
các môn đệ được ơn nói
các thứ tiếng khác nhau, thì
như
thánh Phêrô
minh giải,
là để ứng nghiệm lời Thiên Chúa đã
phán qua ngôn sứ Joel: Người sẽ tuôn đổ Thần Khí xuống trên các
tôi tớ của Người để
họ
trở
thành các ngôn
sứ
của
Người,
tức
là những người sẽ nói lời của Người cho muôn
dân (x. Cv 2,17-18). Mà lời các môn
đệ đang
nói ra không nhằm mục đích
gì khác hơn là
làm chứng rằng: Đức
Giêsu, vốn đã bị đóng
đinh và bị giết chết, nay đã được Thiên
Chúa cho sống lại từ cõi chết, được
Thiên Chúa đặt làm Đức
Chúa và làm
Đấng Kitô (x. Cv 2,36). Đức Kitô Phục Sinh được
Thiên Chúa trao cho Thánh
Thần
đã hứa, để Ngài
tuôn đổ
xuống
trên các môn
đệ, như những gì các
người
hành hương đang chứng kiến (x. Cv 2,33).
Nếu như trong cuộc thần hiển trên núi Sinai, Thiên
Chúa đã ban Luật cho dân
Do-thái
để dẫn dắt họ bước vào đời sống tương
quan mật
thiết
với
Người,
thì nay trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa qua Đức Kitô Phục Sinh, đổ tràn Thánh Thần của Người xuống trên
chúng ta, để
Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng
ta bước
vào đời
sống
thần
linh của
Ba Ngôi
Thiên Chúa. Chúa
Thánh Thần sẽ giúp chúng
ta hiểu,
đào sâu thêm, và
thực
hành Luật bác ái
yêu thương mà Chúa
Giêsu đã truyền cho chúng
ta: Yêu
mến
Thiên Chúa hết lòng,
hết
linh hồn,
hết
trí khôn, và
yêu thương tha nhân như chính mình.
Lễ Ngũ Tuần còn được
biết
đến với tên gọi khác
là lễ Mùa Gặt, lễ dâng
của
đầu mùa. Đây
là dịp lễ để người
dân tạ ơn Thiên Chúa
vì Người đã ban cho họ một mùa gặt thành
công. Theo ý nghĩa này,
ngày Chúa Thánh
Thần
hiện
xuống,
Hội
Thánh sơ khai cũng có được một mùa
gặt
bội
thu. Sau khi nghe thánh
Phêrô
giảng
dạy,
đã có đến ba ngàn người xin chịu phép rửa “nhân danh Đức
Giêsu Kitô để được ơn tha tội”
và được
“ân huệ là Chúa Thánh
Thần” (x. Cv 2,41). Hội Thánh sơ khai quả là có
lý do để
ngợi
khen và
tạ ơn Thiên Chúa vì
vụ
mùa bội thu này, dưới sức mạnh và
sức
tác động
của
Chúa Thánh Thần.
2. Bài đọc 2: 1Cr 12,3b-7.12-13
Dưới
tác động
của
Chúa Thánh Thần, các
tông đồ
không ngừng đi loan báo
Tin Mừng;
biên giới hữu hình của Hội Thánh
sơ
khai không
ngừng
mở
rộng;
các giáo đoàn được
thiết
lập
khắp
nơi
trong đế quốc Roma. Một khi các giáo đoàn được
thành lập, thì nhiệm vụ xây
dựng
và phát triển các
giáo đoàn
trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thánh Phaolô,
vị
tông đồ
dân ngoại kiệt xuất, đã chỉ ra nhiệm vụ cần được
từng
tín hữu chu toàn. Vì
các tín hữu cùng
chịu
phép rửa “trong cùng
một
Thần
Khí để trở nên một thân thể”
nhiệm
mầu
của
Chúa Kitô, nên
từng
người
phải
lo vun đắp, xây dựng Hội Thánh, tùy
theo đặc sủng mà Chúa Thánh
Thần
ban cho mình.
Thánh
Phaolô liệt
kê 9 ơn Chúa Thánh
Thần
ban cho các
tín hữu, bao gồm: ơn khôn ngoan để giảng dạy; ơn hiểu biết để trình
bày; ơn đức
tin; ơn
chữa
bệnh;
ơn
làm phép lạ; ơn nói
tiên tri; ơn phân định thần khí; ơn nói các
thứ
tiếng
lạ;
ơn
giải
thích các thứ tiếng lạ (x. 1Cr 12,7-10). Hiển nhiên, còn
nhiều
ơn
khác nữa không được
thánh nhân liệt kê
ra đây. Nhưng điểm chính yếu thánh
nhân muốn nói đến là: Chúa
Thánh Thần là nguồn suối những ơn lành
các tín hữu lãnh
nhận
được; Người ban cho mỗi người
mỗi
cách, tùy theo quyết định
khôn ngoan khôn dò khôn
thấu
của
Người;
Người
ban cho chúng
ta các
ơn
ấy,
không phải chỉ để tô điểm cho cuộc sống chúng ta, cũng không phải để chúng
ta đem ra so sánh hơn thua với nhau, nhưng để chúng
ta có
thể
phục
vụ
cho sự
hiệp
nhất
của
Hội
Thánh Chúa, và
mưu
ích cho phần rỗi của mọi người.
Nếu
biết
sử
dụng
các ơn này một cách
hiệu
quả
trong tinh thần
khiêm tốn phục vụ và cho đi, chúng ta sẽ làm cho Hội Thánh của Chúa
ngày càng phát
triển
cả
về
chiều
rộng
lẫn
chiều
sâu, làm cho Hội Thánh
xứng
đáng trở thành khí cụ yêu
thương
mà Thiên Chúa
dành cho nhân loại và thế giới hôm
nay.
3. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-23
Khi
các cánh cửa
còn đang đóng
kín, khi các môn
đệ còn đang
phải
“họp kín”
vì sợ người Do-thái, thì Đức Kitô
Phục
Sinh đã đến và
hiện
diện
với
họ.
Người
đến để đem ơn bình an đích
thực
cho họ,
trong lúc
tâm hồn họ còn bị nỗi sợ hãi
phủ
kín. Sau lời chào bình
an thứ
nhất
(x. c19), Người
cho các
môn đệ
xem tay và
cạnh
sườn
Người.
Sau sự
kiện
này, các môn
đệ đã
chuyển
từ
trạng
thái lo sợ sang tâm tình
vui mừng
vì thấy Chúa.
Một khi nỗi lo sợ của các môn đệ đã tan biến, một khi con tim của các ngài đã
vui trở
lại,
thì cũng là lúc Chúa Kitô Phục Sinh nói lời bình
an thứ
hai cho các
ngài (x. c21). Lời bình an này kèm
theo một
sứ
mạng:
“Như Chúa Cha đã
sai Thầy,
thì Thầy cũng sai anh em”
(c21). Như
thế,
Đấng Phục Sinh như muốn hàm ý: các
môn đệ
không nên chỉ vui mừng vì
thấy
Chúa, mà họ
cần
san sẻ
niềm
vui ấy
cho nhiều
người
khác nữa, nhất là cho những ai chưa biết Chúa, cho những ai đang sống trong âu
sầu,
lo lắng
của
phận
người.
Và sứ mạng loan báo Tin Mừng chính là điều mà Đấng Phục Sinh muốn gửi gắm và trao vào tay các
môn đệ
của
mình.
Nhưng Đức Kitô
Phục
Sinh cũng
thừa
biết
bao khó
khăn đang chực chờ các
môn đệ ở phía trước. Nhưng như thánh sử Gioan đã
từng
khẳng
định: “Người vẫn yêu
thương
những
kẻ
thuộc
về
mình còn ở thế gian, và
Người
yêu thương họ cho đến
cùng” (x. Ga 13,1), Đức Kitô Phục Sinh sẽ không để các môn đệ mồ côi, Người không để họ phải dò dẫm tự tìm ra hướng đi
phục
vụ
sứ
mạng
Người
trao phó
cho họ.
Như
Người
đã từng hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác
để ở với họ luôn mãi
(x. Ga 14,16), thì giờ đây,
với
quyền
năng của Đấng
Phục
Sinh, và
trước
sứ
mạng
mà Người trao phó cho các môn
đệ, Người thực hiện lời hứa ấy bằng việc thổi hơi, ban Thánh Thần cho các ngài.
Như
vậy,
việc
thi hành
sứ
mạng
loan báo
Tin Mừng
của
các môn đệ sẽ được đặt dưới
sự
dẫn
dắt
và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh
Thần.
Lịch sử Giáo Hội đã cho thấy, bao lâu
các vị thừa sai biết cậy dựa vào sức mạnh và đặt mình
dưới
sự
hướng
dẫn
của
Chúa Thánh Thần, thì
hạt
giống
Tin Mừng
mà các vị gieo vãi
sẽ
sinh hoa kết
quả
tốt
đẹp như lòng Chúa mong ước.
Điều đã đúng
cho hôm
qua, cũng
sẽ đúng cho hôm nay và
những
ngày tháng kế tiếp.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, và tự
trời
xin tỏa ánh quang minh của
Ngài
cho chúng
con!
II. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị
em thân
mến!
Đức Kitô phục sinh đã
xin Thiên
Chúa Cha ban tặng Chúa Thánh Thần cho các
tông đồ
và tất cả những ai tin vào danh Người.
Chúng ta hãy đồng thanh cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin:
1. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con.”
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết vâng
theo sự
hướng
dẫn
thúc đẩy
của
Chúa Thánh Thần, trung thành
diễn
tả
dung mạo
của
Chúa Kitô phục sinh cho thế giới hôm nay.
2. Chúa
Thánh Thần
ban ơn
đổi mới cho toàn thể nhân
loại.
Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh
đạo và các
tổ
chức
quốc
tế
biết
quan tâm
mưu
cầu
hòa bình đích
thực
cho thế
giới
qua những
hoạt
động bảo vệ công lý
và phục vụ người nghèo.
3. “Hết thảy mọi người
đều được
tràn đầy
Chúa Thánh Thần.”
Chúng ta cùng cầu xin cho các
Kitô hữu được
Chúa Thánh Thần thánh
hóa và hướng dẫn, trở nên
những
con người
mới
luôn ý thức và
hăng say với sứ vụ truyền giáo trong cuộc sống hằng ngày.
4. “Có
nhiều
thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh
Thần.” Xin cho mọi người
trong cộng
đoàn
chúng ta biết quí trọng và
sử
dụng
ân huệ của Chúa Thánh
Thần
cách hiệu quả, luôn tích
cực
xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô
và bảo vệ sự hiệp nhất trong Hội Thánh.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha toàn năng, xin nhận lời chúng con cầu nguyện. Xin ban xuống trên chúng con tràn
đầy ân sủng của Chúa
Thánh Thần, giúp chúng
con can đảm làm chứng cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Chúng
con cầu
xin nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con.
Chủ đề :
Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
- Đáp ca : Lạy Chúa, xin cử Thánh
Thần tới, để
canh tân địa cầu.
- Bài đọc II : Chúng ta đã được chịu phép Rửa nhờ một Thánh
Thần để trở nên một thân thể.
- Tin Mừng : Buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh
Thần cho các môn đệ.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Hiện xuống hôm
nay kết thúc mùa Phục
sinh. Chúng
ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng
ta đi
qua : Chúa Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm
nay, chúng
ta hãy
xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng
ta hoàn
thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta có lỗi vì ít
nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng
ta.
- Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi
sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
- Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I : Cv
2,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
- Vâng theo lời căn dặn của Chúa Giêsu phục sinh,
các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
- Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng
nhiệt thành.
Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng
Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Giêsu.
2. Đáp ca : Tv 103
Tv này ca tụng những
việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do "sinh khí" của Ngài, tức là do Chúa Thánh
Thần.
3. Bài đọc II : 1
Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần :
- Trong Giáo Hội sơ
khai, Chúa Thánh Thần
ban nhiều đặc sủng khác
nhau cho các tín hữu.
Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích
chung của cộng đoàn.
- Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh
chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
4. Tin Mừng : Ga
20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Chúa Giêsu đã ban Thánh
Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của
Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng
thời với lời chúc bình an, quyền
tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta
có thể thấy được những ý nghĩa sau :
- Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
- Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội : chính nhờ được
tha tội mà con
người được bình an thật.
- Ơn ban Thánh
Thần nhằm giúp Giáo Hội ra
đi loan Tin Mừng cứu độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Hiệp
nhất
Sách
Công vụ tường thuật rằng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ thì có
nhiều hiện tượng lạ xảy ra, trong đó có hiện tượng các tông đồ giảng trước một
đám đông thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau thế mà ai cũng hiểu được.
Thứ
tiếng mà hôm đó các tông đồ nói là thứ tiếng gì ? Có nhiều giải thích khác
nhau :
a/
Giải thích thứ nhất, các tông đồ nói ngoại ngữ : Hằng ngày các ông chỉ
biết nói tiếng Do thái (đúng ra là tiếng Aram), vài ông cũng biết bập bẹ vài
tiếng Hy lạp. Nhưng hôm đó, do ơn Chúa Thánh Thần các ông đột nhiên nói được
ngoại ngữ khiến cho những người không phải Do thái mà cũng không phải Hy lạp
cũng hiểu được.
Giải
thích này không đúng, bởi vì dù các tông đồ nói ngoại ngữ thì cũng chỉ một vài
ngoại ngữ mà thôi. Thế mà hôm đó thính giả thuộc nhiều ngôn ngữ : Bài tường
thuật đã liệt kê đến mười mấy thứ tiếng. Làm sao các ông có thể nói đồng thời
mười mấy thứ tiếng ấy được !
b/
Giải thích thứ hai, các tông đồ nói bằng một thứ tiếng hoàn toàn mới lạ, từ
chuyên môn trong Thánh kinh gọi đó là Glossolalie : nghĩa là không phải
tiếng Do thái, cũng không phải tiếng Hy lạp, cũng không phải thứ tiếng nào
trong mười mấy thứ tiếng kia. Nhưng Chúa Thánh Thần khiến cho mọi người đều
hiểu. Giải thích này cũng chưa đúng, bởi vì tuy Thánh kinh cũng ghi nhận nhiều
trường hợp các Kitô hữu có nói glossolalie, nhưng vì tiếng này quá lạ cho nên
phải có người cũng được ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần giúp người đó hiểu và
dịch lại cho những người khác. Trong bài tường thuật này, ta thấy thính giả
không cần ai dịch mà vẫn hiểu, cho nên đó không phải là glossolalie.
c/
Giải thích thứ ba, các tông đồ nói bằng tiếng Do thái quen thuộc của các ông,
nhưng Chúa Thánh Thần giúp cho thính giả hôm đó thuộc đủ mọi thứ tiếng khác
nhau cũng hiểu được.
Việc
giải thích chi tiết tiếng nói hôm đó của các tông đồ còn nhiều khó khăn, nhiều
bất đồng và đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Nhưng
có điểm này được hầu hết các nhà chuyên môn về Thánh kinh đều nhất trí :
đó là câu chuyện hôm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là đối ảnh của câu chuyện
tháp Babel ngày xưa. Ngày xưa ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ
tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau, bỗng dưng vì tội kiêu ngạo muốn xây một cái
tháp cao hơn trời để tỏ ra mình hơn Thiên Chúa nên bị phạt khiến họ nói nhiều
thứ tiếng, làm cho người này không hiểu người kia được nữa. Chuyện Tháp Babel
ngụ ý rằng khi con người không được Thiên Chúa quy tụ thì sẽ chia rẽ nhau,
không hiểu nhau và không thông cảm được cho nhau.
Chúa
Thánh Thần hiện xuống sửa lại sự hư hại đó : Hôm lễ Ngũ Tuần, tất cả mọi
người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau.
Nhờ đâu ? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần quy tụ họ lại. Chúa Thánh Thần nối kết
họ lại.
Bài
tường thuật trong sách Công vụ cho chúng ta một bài học về sự đoàn kết hiệp
nhất giữa những người vốn có nhiều điểm bị biệt nhau.
1.
Ai ai cũng thấy đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích :
- Ca
dao có câu "Một cây làm chẳng nên non…"
- Và
còn một câu khác : "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết".
-
Còn sách Công vụ thì kể rằng sở dĩ thuở ban đầu giáo hội phát triển nhanh rộng
là nhờ các tín hữu rất đoàn kết yêu thương nhau, người lương thấy cuộc sống
hiệp nhất yêu thương ấy quá tốt đẹp và đầm ấm nên thích và xin gia nhập Giáo
hội.
2.
Nhưng làm sao để có đoàn kết và hiệp nhất ?
-
Theo thiển ý, muốn có đoàn kết hiệp nhất thì trước hết phải biết tôn trọng sự
dị biệt. Nhiều khi những người sống chung trong tập thể cứ hục hặc nhau hay
buồn phiền nhau chỉ vì người này khó chịu vì người kia có tính tình khác mình,
có cách suy nghĩ khác mình, có sở thích khác mình… Thấy người ta khác mình là
mình bực bội, mình phê phán, mình ghét bỏ. Thực ra "bá nhân bá tánh".
Và khi Thiên Chúa dựng nên người ta, Người cũng dựng nên mỗi người có nét riêng
của người đó. Nói theo từ ngữ triết học thì mỗi người là một hữu thể độc đáo.
Ta phải tôn trọng sự dị biệt nơi người khác. Đừng ai bắt ai phải có cùng một cá
tính, một cách suy nghĩ, một cách làm việc, một sở thích giống y như mình. Thấy
người ta khác mình nhưng mình vẫn tôn trọng người ta, đó là cơ sở thứ nhất tạo
sự đoàn kết hiệp nhất.
-
Điều kiện thứ hai, khi ta đã tôn trọng sự dị biệt nơi người khác thì ta phải
biết tương nhượng, nghĩa là nhường nhịn nhau. Vì bá nhân bá tánh nên có nhiều
lúc trong cuộc sống chung, ý của người này và người kia khác nhau. Nếu hai bên
cứ khăng khăng đòi người kia phải theo ý mình thì đương nhiên sẽ dẫn tới cãi cọ
hoặc bất mãn không hợp tác. Cho nên mỗi bên phải nhường một chút. Quyết định
chung là kết quả của sự dung hòa ý kiến của hai bên.
-
Điều kiện thứ ba, nhưng là điều kiện quan trọng nhất, đó là mọi người đều ý
thức rằng mình có chung một nguồn gốc, một tinh thần. Cũng như anh chị em trong
gia đình dễ tương nhượng nhau, dễ tha thứ nhau, dễ đoàn kết hiệp nhất với nhau
và nhờ mọi người ý thức mình là con của cùng một cha mẹ sống chung trong một
mái nhà. Thì cũng thế chúng ta ý thức rằng ai ai dù thế nào đi nữa thì cũng là
con người, cũng là đồng bào với nhau thì sẽ dễ đoàn kết nhau hơn. Đối với chúng
ta những người Kitô hữu, nếu chúng ta ý thức thêm rằng chúng ta là môn đệ Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng dễ yêu thương nhường nhịn và đoàn kết
với nhau hơn. Nhưng ai sẽ nhắc chúng ta ý thức điều đó và ai sẽ giúp chúng ta
thực hiện đoàn kết hiệp nhất theo ý thức đó ? Thưa Chúa Thánh Thần.
Hôm
nay lễ Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Ngài giúp chúng ta.
-
Trước hết là biết tôn trọng sự dị biệt nơi những người sống chung với ta.
-
Thứ hai xin Ngài giúp mỗi người chúng ta thêm khiêm tốn để có thể tương nhượng
người khác khi có bất đồng.
- Và
nhất là xin cho mọi người ý thức mình đều là con Chúa, đều là môn đệ Chúa cho
nên đều phải yêu thương nhau.
2. Tái
tạo
Bài
Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn
phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt. Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và
sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an.
Chuyện
xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta
ngày nay. Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.
1.
Bước thứ nhất : các môn đệ nhốt mình trong phòng kín. Đây là tâm lý co
cụm, khép kín. Một tâm lý thường xảy ra. Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và
Điệp. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải
cưới một người khác. Lan buồn quá. Rồi Lan làm gì ? Lan co cụm lại bằng
cách đi vào trốn trong chùa. Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một
chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông. Lan cắt
đứa luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với một người
khác.
Trong
cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm
khép kín như thế. Lý do của Lan là thất tình. Có người khác co cụm vì thất
vọng. Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi. Còn lý do của các tông đồ trong
tường thuật này là sợ : các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất
cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại. Nhưng ta nên
biết con người là một hữu thể mang tính xã hội. Làm người là phải sống với
những người khác. Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy. Khi
ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa,
người ấy như đã chết.
2.
Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp. Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp
không đến với Lan được. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết
héo chết mòn. Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thoát. Còn câu chuyện
trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn. Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp
ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ. Họ không có khả năng đến với Chúa
thì Chúa chủ động đến với họ. Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co
cụm. Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía
Chúa. Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai
họ đi, đi ra khỏi thế co cụm của mình để đến với người khác. Con người là một
hữu thế có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác. Khi con người
cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết. Nay Chúa Giêsu đến với các tông
đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối giây liên hệ,
tức là Ngài làm cho họ sống lại. Nói đứng hơn, Chúa Giêsu đã tái tạo các môn
đệ.
3.
Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế. Thưa nhờ Chúa Thánh
Thần. Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu. Đó là Chúa
Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Cũng như ngày xưa Adam ban đầu chỉ là một tượng
bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở
thành người. Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ. Làn
hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái
tạo lại thành những con người mới.
4.
Những con người mới này có những gì đặc biệt : thưa cái đặc biệt thứ nhất
là niềm vui. Bài Tin Mừng nói "các tông đồ vui mừng vì thấy
Chúa" ; cái đặc biệt thứ hai là bình an : không còn sợ gì
nữa cả nhưng lòng rất thanh thản. Bài Tin Mừng viết "Chúa Giêsu đứng
giữa các ông và nói : bình an cho chúng con" ; và cái đặc
biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác. bài Tin Mừng nói "Chúng
con hãy nhận lấy Thánh Thần. Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được
tha".
Nhiều
khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta
co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng
này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã
chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trang bất thường ấy.
Người ấy là ai ? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng
tái tạo những gì suy sụp và hư mất. Hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta mừng kính
Chúa Thánh Thần. Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng
ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành
con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.
3. Ngôn
ngữ của toàn cầu
Ngôn
ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với
nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho
mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của
mình với Chúa ? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta ?
Nói
với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói
với chúng ta, Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền
lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được xử dụng để mọi
người có thể nghe hiểu được ?
Kinh
Thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh hiện xuống như sau : Gió thổi
đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các Tông Đồ. Đó là dấu
chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng
hành với họ và trong Hội Thánh Công Giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các
Tông Đồ, Ngài mang đến cho các Ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông
phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là con Thiên Chúa
đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật
cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã
chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những
người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các Tông Đồ ân đức
nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở
nào...
Phép
lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con
người cũng đã có lần toan tính xây cây tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng
Thiên Chúa đã phá huỷ toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau.
Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan
hoang. (St 11,1-9)
Máy
vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn
ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự
chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin
và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.
Trong
đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt
Nam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay
từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết : ngôn ngữ tình yêu, ngôn
ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng
âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả
mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn
ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và
truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự
sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ
cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống, Thiên Chúa
với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.
Ngôn
ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ
Thailan, chữ Ảrập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán
học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu
trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và
đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù
là tiếng mẹ để, ta cũng cần phải học, phải mài dũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh
trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn
chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách
sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những
sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng
gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ
tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con
người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này,
nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là
muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không
còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.
Những
sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đến quyền lợi riêng
tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, mang
niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hoà và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày
lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm xưa, các Thánh Tông Đồ đã tìm ra được ngôn
ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong
tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của
Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa : ngôn
ngữ tình yêu.
Chúa
Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ
này khác gì là "tiếng mẹ đẻ" của con người : ngôn ngữ tình yêu -
ngôn ngữ của toàn cầu. (Lm Nguyễn ngọc Long, Vietcatholic)
4. Chứng
từ : Người thầy giáo da đen
Năm
1917, tại một xóm nghèo bang Mississipi Hoa Kỳ, một toán người da trắng quá
khích đã bủa vây bắt trói một thanh niên da đen vì nghi ngờ anh đang diễn
thuyết kêu gọi đồng bào anh nổi loạn chống lại họ. Anh ta tên là Lawrence. Anh
bị lôi đến một gốc cây, tròng dây thòng lọng vào cổ, dưới chân xếp một đống củi
to. Đám đông ra lệnh cho anh được nói những lời cuối cùng trước khi chết...
Lawrence
thầm cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, rồi sau đó hiên ngang lên tiếng lặp lại
tất cả những gì anh đã diễn thuyết trước đó cho người da đen. Anh bắt đầu bằng
cách phác họa cảnh sống của hai dân tộc anh em da đen và da trắng trong sự
tương trợ đoàn kết. Anh ngỏ ý sẽ tổ chức một ngôi trường để dạy cho đồng bào
anh để họ xứng đáng sống bên cạnh người da trắng. Từ đó, hai bên sẽ dễ dàng
hiểu biết và giúp đỡ nhau. Anh nêu tên một số người da trắng có uy tín trong
vùng đã hứa tài trợ cho anh. Anh còn khéo léo nói vài câu duyên dáng làm cho
đám đông bật cười. Cuối cùng, anh khẳng định : anh đấu tranh với sự dốt
nát mù chữ và chống lại sự nghèo nàn lạc hậu, chứ không hề có ác ý với ai cả.
Anh
vừa dứt lời, đám đông mới đây còn đòi giết anh, giờ đây lại hò reo hoan hô anh
nhiệt liệt, ùa nhau đến tháo giây thòng lọng và công kênh anh lên. Lại có người
đứng ra kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ anh. Thế là người ta có bao nhiêu tiền
đều móc ra, ném như mưa xuống dưới chân anh da đen nghèo xác xơ nhưng giàu
thiện chí và hảo tâm...
Sinh
ra ở miền Bắc Hoa Kỳ, Lawrence là con một bác thợ hớt tóc, được gia đình dành
dụm nuôi ăn học đến hết bậc đại học. Ra đời, anh có thể tìm được việc ngay và
có một đời sống sung túc nơi quê nhà, thế nhưng, cảnh cơ cực lam lũ của những
đồng bào da đen đã thôi thúc anh bỏ tất cả để lưu lạc xuống miền Nam xin một
chân thầy giáo làng cho người da đen. Chính ở đây, anh hiểu được nguyên nhân
mọi khốn cùng người da đen phải gánh chịu là ở chỗ : đã dốt nát mù chữ mà
lại còn mê tín dị đoan, và trắng tay, không biết một thứ nghề nào, từ đó họ lại
càng bị người da trắng khinh bị đầy đọa. Ban ngày, Lawrence vất vả dạy học, tối
đến, anh tự học thêm nghề trồng trọt, chuẩn bị cho ước mơ sẽ truyền nghề lại
cho đồng bào.
Mùa
xuân năm 1909, vừa tròn 24 tuổi, Lawrence khăn gói tìm tới khu xóm Braston có
đông người da đen, dự định chọn nơi đây để mở trường. Anh đi tìm những người
trại chủ da trắng để xin phép mở trường dạy nghề trồng trọt cho người da đen.
Họ chả mấy tin tưởng vào lập luận của anh, nhưng họ cũng không có ý ngăn cản
làm gì. Sau đó, anh lại đi vận động những người da đen chịu gom góp mỗi người
một chút để có thể dựng trường. Họ vui mừng hy vọng lắm, nhưng vì nơi đây vừa
mới bị mất mùa do nạn côn trùng tàn phá, họ lại quá nghèo nên chẳng góp được gì
đáng kể. Nhưng Lawrence nhất quyết không chịu bó tay...
Một
hôm, anh cầm theo cuốn Kinh Thánh, tìm ra ven rừng thanh vắng ngồi một mình
dưới bóng một cây cổ thụ. Đang mải mê suy tư cầu nguyện, anh chợt bắt gặp một
em bé da đen đang rụt rè nhìn anh từ xa. Anh gọi : "Nào em
bé, lại đây chơi với anh đi !" Đứa bé tiến lại, nó thấy anh
có cuốn sách đẹp thì mượn và cũng bắt chước cầm lên đọc chăm chú ra vẻ biết
chữ. Lawrence phì cười khi thấy em cầm ngược đầu cuốn sách, anh vỗ vai em
hỏi : "Chắc em thích đọc sách lắm phải không ? Vậy thì
ngày mai em hãy trở lại đây, anh sẽ bắt đầu dạy cho em biết dọc biết viết
nhé !"
Hôm
sau trở lại gốc cây, Lawrence đã thấy em bé có mặt cùng với hai đứa nữa. Thế là
ngôi trường đã khai giảng ngay dưới tán cây ven rừng với 3 trò nhỏ đầu tiên,
hiệu trưởng kiêm thầy giáo duy nhất chính là Lawrence, và giáo án là cuốn Kinh
Thánh ! Anh chọn bài giảng và tập đọc đầu tiên là một đoạn Lời Chúa nói về
tình yêu thương. Được một lúc, anh nhìn quanh đã thấy một số người lớn da đen
lấp ló ở các bụi cây gần đó, mải mê theo dõi như uống lấy từng lời giảng dạy
giáo lý của anh. Thế là anh mời tất cả cùng ngồi vào để tập đọc đoạn văn được viết
nắn nót trên tấm ván cũ. Sĩ số lớp học giờ đây gồm 5 trẻ em và 7 người lớn.
Ngày
lại ngày, tiếng đồn lan ra, Lawrence thu nhận được hơn 50 học sinh. Mùa đông
về, lớp học dời vào một căn nhà cũ nát bỏ hoang. Người trại chủ tốt bụng biết
chuyện, tặng luôn cho anh căn nhà cùng với 16 mẫu đất bỏ hoang chung quanh và
số tiền 50 đô-la. Các học sinh lớn xúm lại sửa chữa vách và mái nhà, làm lò
sưởi và quét vôi. Anh lại tìm đến một trại chủ khác xin được một số lớn gỗ ván
và mua chịu các vật dụng cần thiết cho ngôi trường.
Năm
1917, thoát được vụ hành quyết oan uổng như đã kể từ đầu, anh tạ ơn Chúa rồi
lại quyết định mở một cuộc họp, mời tất cả những người da đen cùng các ân nhân
người da trắng trong vùng đến nghe anh nói chuyện về dự kiến tương lai. Anh cho
biết đây sẽ là ngôi trường nội trú cho các học sinh ở rải rác khá xa. Các em sẽ
vừa học vừa làm để tự nuôi sống bằng việc canh tác khu đất quanh đây. Anh cũng
xin mọi người có mặt đóng góp thêm để xây dựng một dãy lớp học mới vì sĩ số học
sinh đã quá cao.
Vừa
dứt lời, các ân nhân đã trao ngay cho anh một số tiền khá lớn, còn đồng bào da
đen thì góp chung từng đồng xu lẻ dành dụm chắt bóp. Có người còn hứa tặng một
phần hoa lợi vụ mùa sắp tới, người khác về nhà mang tới một bao bông vải hoặc
nửa con lợn, một cặp ngỗng... và hầu hết đều hứa sẽ giúp công góp sức. Thế là
hôm sau, cả đoàn những người đàn ông trai tráng kéo đến đốn cây, xẻ ván, dậm
nền, dựng cột, xây vách. Phía các bà các cô thì buổi trưa mang cơm nước đến cho
cánh thợ.
Qua
năm 1910 thì ngôi trường hoàn tất, mang tên là "Ngôi Trường Thôn
Quê", cùng với số cả trăm học sinh tại chỗ còn có thêm 18 em từ xa về nội
trú. Tất cả được học chữ, nấu bếp, cắt may và nghề mộc. Buổi tối, lớp xóa mù
chữ có gần 100 em nhỏ. Mọi học sinh đều mang tới góp, người thì bao bột mì,
người thì chú heo con để sử dụng chung thay vì đóng học phí và tiền ăn.
Lawrence cũng mời được một số thầy cô giáo thiện chí đến giúp. Anh thường nhắc
họ luôn cầu nguyện trong niềm chắc tin rằng mọi sự đều do Chúa ban và lo liệu,
nhưng phần mình vẫn phải nỗ lực làm việc để cộng tác với Người...
Năm
1912, Lawrence cưới vợ, cả hai vừa gắng công dạy học, lại vừa đi khắp nơi xin
các mạnh thường quân hỗ trợ để trả lương giáo viên và nuôi sống các học trò
nghèo. Anh chị hễ cứ gặp những trẻ bơ vơ lang thang là lại dắt về nuôi ăn và
cho học hành tử tế. Đặc biệt có một em 14 tuổi sống như thú hoang trong rừng,
đã được Lawrence tìm thấy đem về trường. 8 năm sau, cậu thi đỗ tốt nghiệp trung
cấp hướng nghiệp, và trong ngày nhận bằng, cử tọa đã say mê nghe cậu thuyết
trình về điện và các loại động cơ. Lại còn gia đình anh Collins cùng bầy con 12
đứa nheo nhóc được nhận vào trường, 12 năm sau, ông bố Collins cũng cùng lên
nhận bằng với vợ con.
Tính
đến năm 1953, trường đã đào tạo được 1.700 học sinh đậu tú tài và 325 người tốt
nghiệp đại học. Không ít những học viên giờ đây là trại chủ, dược sư, giáo sư,
nhạc sĩ, ca sĩ, sĩ quan, linh mục và mục sư. Có người học tiếp để lấy bằng tiến
sĩ ở đại học Chicago. Năm 1960, trường có sĩ số 500 em với 40 thầy dạy, 650 mẫu
đất sở hữu cùng với những dãy lớp khang trang, những vườn cây ăn trái và hoa
màu, cả những xí nghiệp chế tạo bơ, sữa tươi và những cơ xưởng hướng nghiệp
được trang bị tối tân.
Nhà
cầm quyền bang Mississipi cuối cùng cũng đã nhìn ra công lao hy sinh tận tụy và
lòng yêu thương vô hạn đối với đồng bào da đen khốn khổ của ông Lawrence. Họ
chính thức trao tặng ông tước hiệu "Công Dân Số Một của Bang
Mississipi". Sau khi ông qua đời, mới đây không lâu, người ta đã
dựng tượng để ghi nhớ một tấm lòng vị tha cao quý. Tượng đài ghi hàng
chữ : "Ông John Lawrence, một người con ngoan của Chúa, một
thầy giáo tận tụy và một người bạn thân thương nhất của mọi
người..." (Vietcatholic trích từ Tạp chí Tin Vui, 1974)
5. Lễ
Hiện xuống mới
Lần
đầu tiên thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới của Giáo Hội
tập họp lại theo lời mời của vị Đại Diện Chúa Kitô. Đức Gioan Phaolô II muốn
cuộc tập họp khổng lồ này chứng tỏ để mọi người thấy Chúa Thánh Thần vẫn tiếp
tục hiện xuống và đang canh tân bộ mặt trái đất.
Hôm
ấy là thứ bảy 30 tháng 5, 1998, ngày áp lễ Hiện Xuống, có tới nửa triệu người
đến từ khắp nơi trên thế giới. Riêng Âu Châu chừng 2,000 xe buýt chở khách tới
Roma. Hàng triệu người coi truyền hình theo dõi biến cố này, qua 20 hệ thống
truyền thông. Chưa bao giờ công trường Đền Thờ thánh Phêrô lại chật ních người
tới mức đó, kể từ Năm Thánh 1950 đến nay.
Nhưng
có phải chính Chúa Thánh Thần đã khơi dậy những phong trào đoàn sủng và những
cộng đoàn mới này của Giáo Hội ? Ta hãy thử coi một số trường hợp.
Cộng
Đoàn Thánh Êgiđiô
Cộng
đoàn thánh êgiđiô là cộng đoàn từng tổ chức những buổi cầu nguyện do các vị
lãnh đạo tôn giáo vì hoà bình thế giới, tại Assidi và ở nhiều nơi khác. Cộng
đoàn này còn tổ chức những cuộc hoà đàm để chấm dứt chiến tranh tại Libăng,
Ensavađo, Guatemala, Anbani, Acmêni, Angiêri, Etiôpi, Namibia, Môgiambic,
v.v... Thế mà người khởi xướng, 30 năm trước đây, chỉ là một học sinh trung học
cùng với các bạn trẻ 17-18 tuổi. Họ rắp tâm sống Tin Mừng và phục vụ người
nghèo. Cậu học sinh lãnh đạo nhóm tên là Anrê Đinh Khang Đệ (Andrea Ricardi),
nhưng số người nhập nhóm nay đã lên tới 15,000 người thuộc đủ mọi lứa tuổi và
hiện có mặt trên 20 quốc gia. Sở dĩ họ tự xưng là Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô, vì
chính tại ngôi thánh đường nhỏ này ở Rôma, họ từng hẹn nhau tới họp. Ba điểm
đặc sắc cơ bản của cộng đoàn này là cầu nguyện, tình bạn và phục vụ người
nghèo. Ở đâu cộng đoàn này có mặt cũng đều có những chương trình phục vụ người
nghèo như, bếp nấu cháo cho người nghèo, các bà săn sóc trẻ em túng thiếu nơi
xóm nghèo, chương trình kèm học sinh sau giờ học, chương trình tự nguyện săn
sóc bệnh nhân tại gia hoặc tại bệnh viện.
Lý
do Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô tham gia sinh hoạt liên tôn như tổ chức những buổi
cầu nguyện tại Asidi, Nagasaki, v.v... hoặc tham gia sinh hoạt ngoại giao vì hoà
bình thế giới, chính là để bảo vệ người nghèo mà thôi. Có thể nói, chiến tranh
là mẹ đẻ ra khổ đau và chết chóc trên thế giới. Trong chiến tranh, chỉ có người
giàu được hưởng lời nhờ bán vũ khí và những dụng cụ khác, còn người nghèo chỉ
là nạn nhân. Thậm chí tôn giáo từng bị lạm dụng gây chết chóc tang thương cho
dân nghèo. Do đó nhu cầu bảo vệ người nghèo khỏi chiến tranh bằng những sinh
hoạt ngoại giao và những buổi cầu nguyện vì hoà bình thế giới.
Phong
Trào FOCOLARE
Phong
trào Focolare khởi đi từ một kinh nghiệm thần bí. Một cô sinh viên sư phạm nhân
dự đại hội Công Giáo Tiến Hành tại thành phố Loretô, miền Nam Italia, chỉ muốn
vào nhà thờ cầu nguyện một chút. Cô sinh viên 19 tuổi này tuyệt nhiên không tìm
cho mình một bậc sống hoặc một đường tiến thân nào. Thế mà khi bước vào căn nhà
Nadarét trong lòng nhà thờ Loretô, cô Chi Lan Lưu Bích (Chiara Lubich) bỗng
thấy mình như bị tràn ngập trong một mầu nhiệm lớn lao. Mầu nhiệm nào ?
Mầu nhiệm thánh gia thất Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Tai cô như được
nghe tiếng nói bập bẹ của cậu bé Giêsu và tiếng hát của Mẹ Maria vọng lại từ
bốn bức tường. Công trình của thánh Giuse cũng hiển hiện trước mắt cô.
Thời
gian đại hội kéo dài, ngày nào Chi Lan cũng một mình trở lại căn hộ Nadarét
thân thương ấy với cũng một cảm xúc mạnh, cũng một ấn tượng sâu, như thể con
người cô hoàn toàn ngập chìm giữa bao hồng ân từ trời cao.
Ấn
tượng nổi bật trong thánh lễ kết thúc đại hội ấy là đám đông nữ sinh viên đội
lúp trắng tràn ngập nhà thờ Loretô. Cô Lưu Bích được cho biết từ nội tâm rằng
đó là hình ảnh về đám đông sẽ theo lối sống của cô. Lối sống nào ? Khi cha
sở họ đạo nơi cô dạy học, hỏi cô về kết quả đại hội, cô liền thưa :
"Con đã tìm ra lối sống cho con." "Vậy là con sẽ lập gia
đình ?" "Thưa không." "Con sẽ vào dòng tu
chăng ?" "Thưa không." "Con sẽ sống độc thân giữa
đời ?" "Thưa không." Cha sở hoàn toàn không hiểu gì về lối
sống trinh tiết giữa đời mà lại khăng khít trong liên đới cộng đoàn, là lối
sống mà Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã sống.
Điều
gây ngạc nhiên là bốn năm sau đó chẳng có gì xảy ra như hậu quả của kinh nghiệm
thần bí nói trên, nhưng khi nó xảy ra thì lại ở giữa một hoàn cảnh rất bất lợi,
tức là giữa những cuộc dội bom, bất kể đêm hay ngày, vào cuối thế chiến thứ hai
tại Italia. Chi Lan và các bạn mỗi khi chạy đến hầm trú đã không quên mang theo
sách Phúc Âm. Chính nơi hầm trú và giữa cảnh chiến tranh tàn khốc, họ được ban
cho ơn nhận biết Thiên Chúa là Tình Yêu như lý tưởng duy nhất đời họ. Thâm tín
ấy mãnh liệt đến nỗi đời họ được lôi kéo tham dự vào Tình Yêu của chính Thiên
Chúa. Tới nay đã hơn nửa thế kỷ rồi thế mà họ vẫn sung sướng cam kết với nhau
lời cam kết "Em yêu chị tới mức sẵn sàng chết vì chị" hoặc "Chị
yêu em tới mức sẵn sàng chết vì em". Cũng tình yêu ấy thúc đẩy họ phục vụ
tha nhân.
Những
bạn đầu tiên của cô Lưu Bích chẳng phải là những con người nổi nang, như Nga
(Natalia Dallapiccola), cô gái mồ côi cha từ tuổi 16 nên phải lo vừa đi học vừa
đi làm ; hoặc Đỗ Thị Ri (Doriana Zamboni), cô học trò không được lên lớp
nên đến với cô Lưu Bích ban đầu chỉ để được kèm mà thôi v.v... Nhưng chính qua
những con người loại đó mà ngọn gió Tin Mừng do Chúa Thánh Linh thổi cách mãnh
liệt. Tại hầm trú họ đọc Tin Mừng chỉ để đưa ra thực thi. Kết quả thật lạ lùng.
Những người theo gương họ ùn ùn kéo đến ban đầu từ 58 thôn xã nhỏ xung quanh
thành phố Tân Đô tức Trentô. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1945, đám người ấy mà
con số lên tới 500, phải tìm đến họp tại phòng họp của nhà Dòng Tên tại Tân Đô
thay vì tại nhà các cha Phanxicô như trước kia họ vẫn họp.
Ban
đầu họ chỉ kể mình là Kitô hữu có bổn phận thực thi Phúc Âm nhưng Chúa an bài
để Focolare trở nên như một cây xum xuê hiện nay với hơn 100,000 thành viên
nòng cốt và hơn 2 triệu thân hữu đang góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu
hướng tới thế giới hiệp nhất.
Rao
giảng Tin Mừng và huấn luyện các Kitô hữu vững theo bề sâu
Điều
xảy ra với Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô và Focolare minh họa lời Đức Gioan Phaolô II
nói ngày 30 tháng 5, 1995. Ngài nhắc nhở mọi người có mặt về lễ Chúa Thánh Thần
Hiện Xuống đầu tiên có Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và các môn đệ của Người tại nhà
Tiệc Ly. "Điều đã xảy ra 2000 năm trước đây tại Giêrusalem thì nay như
được làm mới lại nơi công trường Đền Thờ Thánh Phêrô như tâm điểm của Kitô
giáo." Điều mà Đức Thánh Cha nhấn mạnh là cần phải nhiệt thành rao giảng
Tin Mừng, đồng thời huấn luyện những Kitô hữu vững vàng theo bề sâu. Ngài nói
rằng chính các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội là một đáp trả do
Chúa Thánh Thần khơi dậy để đối phó với thách đố gay cấn ở cuối thiên niên kỷ
thứ hai. Vậy Đức Gioan Phaolô II hướng về phía các thành viên các phong trào và
các cộng đoàn mới của Giáo Hội và nói với họ : "Chính anh chị em là
một đáp trả sống động với thách đố cuối thiên niên kỷ thứ hai." Và để kết
luận, ngày nói với họ : "Hôm nay, từ công trường này, Chúa Giêsu kêu
gọi từng người giữa anh chị em khi tuyên bố : các con hãy đi đến với thế
giới và hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo (Mc 16,15). Quả thật, Chúa Giêsu
tin tưởng nơi mỗi người anh chị em và Giáo Hội cùng chung một niềm tin tưởng
đó."
Vậy
bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20,19-23) nói về Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và ban
Thánh Thần xuống trên các môn đệ xưa không thể xa lạ với những điều được người
kế vị tông đồ Phêrô xác chuẩn như vừa nói.
Xưa
Đức Kitô sống lại đến với các môn đệ để ban cho họ ơn bình an (20,19-21) và
niềm vui (20,20). Cở sở của bình an và niềm vui chính là tình yêu toàn thắng
của Đức Kitô như được ghi lại nơi tay và cạnh sườn Người (c.20).
Nhưng
Chúa Giêsu phục sinh đến không chỉ để làm cho các môn đệ được vui và bình an.
Những ơn ấy phải tràn ngập thế giới. Lý do vì các môn đệ tiếp nối cùng một cuộc
sai phái khởi đi từ Chúa Giêsu : "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em" (c. 21). Sức sống mới mà các môn đệ đón nhận từ Đấng Phục
Sinh là Thánh Thần mà Chúa Giêsu thổi trên các ông (c.22). Xưa trong Cựu Ước,
Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người (St 2,7) và ban sự sống, thì nay Đấng
Phục Sinh cũng thổi Thần Khí của Người trên các môn đệ. Đó là công cuộc tạo
thành mới do Đức Kitô Phục Sinh nhờ Thánh Thần và qua các môn đệ.
Các
môn đệ đón nhận sự sống mới của Đấng Phục Sinh nhờ Chúa Thánh Thần nên đã làm
chứng và loan Tin Mừng đó cho thế giới. Giáo Hội tiếp nối cũng công trình đó.
Cho nên cuộc tập họp thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới
của Giáo Hội ngày 30 tháng 5,1998 thực là hình ảnh của một lễ Hiện Xuống được
nối dài. (Linh mục Augustine, sj. Trích Vietcatholic)
6. Quyền
Năng Tha Tội
Trong
một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ : "Sự gì
các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới
đất, trên trời cũng cởi mở" (Mt 18,18). Và hôm nay, sau ngày phục sinh,
trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán : "Các con hãy nhận
lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm
tội ai thì tội người ấy bị cầm lại". (Gn 19, 22-23). Khi nói lên lời đó,
Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng
tha thứ và cầm buộc. Quyền năng nầy không chỉ được trao ban cho các Tông đồ
nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục
hiệp thông với các ngài.
Qua
lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác
viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng : một khi dưới đất họ đọc lên
lời tha tội "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" thì lập tức trên
trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến
đổi tinh trắng như bông.
Trong
Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng
định : "Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao
ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi
tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng Lập".
Có
người đặt vấn đề : Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục ?
Tới thẳng với Chúa không được sao ?
Lẽ
dĩ nhiên Chúa Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng
phương cách Ngài "làm người" để cứu thế và "chọn con người"
để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường. Tuy nhiên, bên cạnh ý
định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một
linh mục trở nên cần thiết.
Catholicism
and Life có chỉ ra những lý do như sau :
Thứ
nhất, vì "có những tội được tha và có những tội bị cầm" nên hối nhân
phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và
tội nào bị cầm.
Thứ
hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn.
Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.
Thứ
ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ bí tích Hòa giải. Nhưng
trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ
thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.
Thêm
vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người
quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người qua lỏng lẻo đến nỗi bao tội
tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để
lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự
trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và
chân thành với Thiên Chúa được.
Cuối
cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn
tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi "xưng thẳng" với Chúa, ai sẽ
đoan quyết cho điều đó ? Chắc chắn không ai hết.
Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích
Giải tội như sau : "Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự
ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết
lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được
tha tội".
Có
nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít
người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm
chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G.K.
Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết : "Không việc gì
phải xấu hổ về những dại dột của mình... Đã là con người không ai không có lỗi
lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có
lỗi". Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn : "Nếu ta
nói : ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong
ta" (1 Gn 1,8). Trái lại, "Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người
trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất
chính" (1 Gn 1,9).
Một
điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là "ấn tòa" mà tất cả mọi
linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại
được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh
quốc gia được bảo toàn.
Lịch
sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu
đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng
sống bảo vệ "ấn tòa giải tội".
Cha
Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội
của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen
tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha
Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.
Tưởng
rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng
cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ
điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho
đến chết.
Ba
trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng
chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như
lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài,
phía dưới chân có khắc dòng chữ : "Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà
Giải tội đã nằm xuống".
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa
Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ
là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón
nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần
chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được
chữa lành và ngập tràn hân hoan. (Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR, Trích từ
Vietcatholic)
6. Khai sinh giáo hội truyền giáo
Giải
Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một
con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và
hòa hợp.
Tổng
thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố Tổng Giám Mục Seoul rửa tội vào
năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này
cũng đang nhắc nhớ về sự dấn thân của Giáo hội Công giáo tại lục địa Á Châu
này.
Phần
thưởng này đã được các vị lãnh đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan
chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn
Quốc nhận định như sau : "Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi
nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới".
*
Lễ
Hiện Xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho
công bằng, dân chủ và hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống
Kim Dae-Jung chính là một công cuộc truyền giáo.
"Như
Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Rồi Người thổi hơi vào
các ông và bảo."Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga
20,21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi truyền giáo. Chính
Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.
Từ
chỗ không hiểu gì cả, thì nay các ngài đã hiểu rõ tất cả.
Từ
sự nhát đảm, run sợ, cửa đóng then cài, thì nay các ngài mạnh dạn can đảm mở
toang cửa ra.
Từ
những dân chài ít học, thì nay các ngài nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Bằng
chứng là Phêrô, trước đây run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ, thế mà nay
dám đứng lên rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình, khiến cho 3000
người gia nhập Giáo hội với chỉ một bài giảng duy nhất.
Không
những các ngài can đảm rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà còn dám hy sinh cả
tính mạng vì danh thánh ấy. Tất cả các ngài đều đã chịu tử vì đạo. Và sau
Phêrô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều anh dũng chết vì đạo thánh.
Người
ta tưởng các ngài say rượu, nhưng thật sự thật các ngài đang say Chúa.
Người
ta nghĩ các ngài điên dại, nhưng quả thật thì các ngài đang đầy tràn Thánh
Thần.
Lễ
Hiện Xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp
diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội.
Người
ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi
vào Giáo hội để canh tân cho thích hợp với tốc độ chóng mặt của thế giới ngày
nay.
Công
đồng đã long trọng khẳng định : "Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải
truyền giáo" (TG 2). Đức Gian Phaolô II nhận định : "Đã đến lúc
phải dốc toàn lực trong giáo hội vào một cuộc loan báo Tin Mừng mới và vào sứ
vụ đến với muôn dân. Không một ai trong những người tin vào Đức Ki tô, không
một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là
toan báo đức Kitô cho mọi dân tộc" (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Đức
Cha Phêrô Trần Đình Tứ sau khi tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ bảy liên Hội
đồng Giám mục Á châu đã có cảm nhận rất sâu sắc này : "Giáo
hội tại châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo". Ngài giải
thích : "Vì Chúa Giêsu là người châu Á, Giáo hội Thiên Chúa
đã được phát sinh tại châu Á, và ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người,
thế mà hôm nay lại rất ít người châu Á biết Chúa và tin theo Chúa" (CGDT
số 1250). Quả thật, tại châu Á, đông dân nhất năm châu mà chỉ có 3% dân số tin
theo Chúa. Đó là nỗi ray rứt của mỗi người chúng ta, mà cũng là thách thức từng
ngày của mỗi tín hữu Kitô.
*
Lạy
Chúa, xin hãy thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn
chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, văn minh và an bình cho tha nhân, nhất là khát
vọng muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới ; nhưng trước hết, là cho
những người bên cạnh chúng con bằng đời sống phục vụ và yêu thương. Amen. (TP,
năm C)
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, cùng với các thánh tông đồ và những người đầu
tiên đã lãnh nhận Chúa Thánh thần, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời
nguyện xin tha thiết của chúng ta :
1.
Khi được nâng
cao trên thập giá / Chúa
Giêsu Kitô đã cho mạch nước trường sinh trào ra
từ cạnh sườn của Người / Chúng ta hiệp lời cầu
xin Người ban Thần Khí cho Hội thánh / để mọi thành
viên
trong đại
gia đình này được sống dồi dào.
2.
Khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất / Thần khí của Người bay lượn trên mặt nước / Chúng
ta hiệp lời cầu
xin Chúa
cho phát
sinh một thế giới mới / một thế giới
trong đó công lý / bình
an và tình thương
luôn ngự trị ở khắp mọi nơi.
3.
Chúa Giêsu Kitô đã ban Thánh thần
cho các tông đồ / và sai các ngài đem ơn tha thứ cho người tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu
xin Chúa / thương xóa bỏ tội lỗi của những ai tin Chúa là Cha nhân hậu từ bi.
4.
Thánh Phaolô nói : / Anh em phải
chiếu sáng
như những vì sao trên vòm trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống
trên cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để mỗi thành
viên
trong đại
gia đình
giáo xứ / trở nên những vì sao chiếu sáng tình yêu Chúa / qua công việc bác ái yêu thương của mình.
Chủ
tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban Thánh thần làm cho Hội thánh nên dấu chỉ
cứu độ của Chúa cho muôn dân. Xin cũng ban Thánh thần để chúng con trở nên
những chứng nhân can trường cho tình yêu của Chúa giữa biết bao người chưa tin
nhận Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa Thánh Thần ngự trong chúng
ta và cầu nguyện thay cho chúng
ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng
ta hãy cùng Chúa Thánh
Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự
chia rẻ nhau. Xin đoái thương
cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh
Thần. Nhờ Cha
rộng lòng
thương cứu giúp…"
- Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Chúa Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. "Đây
Chiên
Thiên Chúa…"
VII. Giải tán
Anh
chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình
yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và
Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (C)
Chúa
Nhật, 15 Tháng 5, 2016
Lời
hứa về Đấng Phù Trợ. Chúa Thánh Thần,
Là
Thầy dạy và là ký ức sống động của Lời Chúa Giêsu
Ga
14:15-16, 23-26
1.
Lời Nguyện Mở Đầu
Lạy
Cha rất nhân từ, vào ngày cực thánh này con kêu cầu với Cha trong phòng con sau
cánh cửa khép kín. Con xin dâng lời cầu nguyện của con lên tới Cha trong
nỗi lo sợ và bất động khi đối diện với cái chết. Xin Cha ban Chúa Giêsu đến
và ngự trị trong lòng con để Người sẽ xua đuổi đi tất cả các nỗi sợ hãi và bóng
tối vây quanh con. Xin ban cho con sự bình an, một sự bình an thật sự,
bình an từ trong lòng. Xin Cha sai Chúa Thánh Thần đến với con, Thần Khí
Chúa là ngọn lửa của tình yêu, Đấng sưởi ấm và soi sáng, Đấng làm tan mọi băng
giá và gột sạch tội lỗi; Người là nước hằng sống, chảy miên man đến muôn đời,
Người làm giảm cơn khát và tẩy sạch, Người thanh tẩy và làm đổi mới; Người là sức
mạnh đồng thời là ngọn gió nhẹ, Đấng là tiếng nói và là hơi thở của Chúa, là sứ
giả thông báo ơn tha thứ, Đấng bắt đầu cho một thế giới mới và trường tồn.
Xin
Cha hãy sai Thánh Thần Chúa trên con khi con đọc và lắng nghe Lời Chúa để con
có thể thấu hiểu được những mầu nhiệm trong đó; xin cho con được tràn đầy và ngập
chìm trong ơn nghĩa Chúa, được thanh tẩy và trở nên một con người mới, để con
có thể tận hiến cuộc đời con cho Chúa và cho anh chị em con. Amen,
Alleluia.
2.
Tin Mừng
a)
Bối cảnh của đoạn tin Mừng:
Một
ít câu Kinh Thánh này, không được nối kết chặt chẽ với nhau cho lắm, là một vài
giọt nước được lấy từ đại dương. Thật ra, chúng là một phần của bài giảng
dài và vĩ đại trong Tin Mừng Gioan, bắt đầu từ chương 13:31 cho đến hết chương
17. Toàn phần của bài giảng thâm thúy này chỉ nói về một chủ đề, đó là “sự
ra đi của Chúa Giêsu”, mà chúng ta có thể tìm thấy trong câu 13:33 như
sau: “Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi … Nơi Ta đi,
các người không thể đến được” và trong câu 16:28: “Thầy từ Chúa Cha mà đến,
và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian màđến cùng Chúa
Cha” và lần nữa trong câu 17:13: “Bây giờ Con đến cùng
Cha”. Việc Chúa Giêsu đến với Chúa Cha cũng biểu hiện cho việc đi của
chúng ta, cuộc hành trình đức tin và cần thiết của chúng ta trong thế giới này;
nơi đây chúng ta học theo gương Chúa Giêsu, lắng nghe lời Người, và sống như
Người đã sống. Chính lúc này chúng ta nhận được sự mặc khải hoàn toàn về
Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mặc khải về đời sống người
Kitô hữu, cùng với quyền năng và nhiệm vụ, niềm hoan lạc và nỗi muộn phiền, niềm
hy vọng và các cuộc phấn đấu của nó. Để phản ảnh những lời này, chúng ta
tìm thấy sự thật về Chúa Giêsu và về chính chúng ta với Người và trong Người.
Những
câu Kinh Thánh này một cách đặc biệt nói về ba lý do rất vững vàng an ủi cho
chúng ta: lời hứa về Đấng Phù Trợ sắp đến; sự hiện đến của Đức Chúa Cha
và Chúa Con trong những tín hữu; sự hiện diện của Thầy dạy, Chúa Thánh Thần, nhờ
Người những lời giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ ngừng nghỉ.
b)
Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng:
Các
câu 15-16: Chúa
Giêsu mặc khải rằng việc tuân giữ các giới răn không phải là vấn đề nghĩa vụ,
mà đó là hoa trái ngọt ngào được sinh ra từ tình yêu của người môn đệ dành cho
Chúa. Sự vâng lời trong tình yêu này là do lời cầu nguyện toàn năng của
Chúa Giêsu cho chúng ta. Chúa hứa ban cho một Đấng Phù Trợ khác, do Đức
Chúa Cha sai đến, Ngài sẽ ở lại với chúng ta luôn mãi để xua tan đi sự cô đơn của
chúng ta một lần và mãi mãi.
Các
câu 23-24: Chúa
Giêsu lặp lại rằng tình yêu và việc tuân giữ các giới răn là hai sự thật quan
trọng thiết yếu liên quan với nhau về bản chất, có khả năng giới thiệu người
môn đệ vào một cuộc sống mầu nhiệm, đó là, vào trong cảm nghiệm được việc hiệp
thông tức khắc và mật thiết với Chúa Giêsu và với Chúa Cha.
Câu
25: Chúa Giêsu
nói về một điều rất quan trọng: có sự khác biệt rõ rệt giữa những gì Người
nói với các môn đệ khi Người còn đang ở với các ông và những
gì Người sẽ nói sau đó, nhờ Chúa Thánh Thần, là khi Người sẽ đến ở trong và ở
bên trong các ông. Lúc đầu, việc thông hiểu thì rất giới hạn vì
mối liên hệ với Người là một liên hệ bên ngoài: Lời Chúa đến từ bên ngoài
và nghe bằng tai, nhưng không được vang lên bên trong lòng. Sau đó, sự hiểu
biết sẽ được đầy đủ.
Câu
26: Chúa Giêsu
loan báo rằng Chúa Thánh Thần là Thầy, Đấng sẽ không dạy chúng ta từ bên ngoài
nhưng từ trong lòng chúng ta. Người sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống mới
với Lời của Chúa Giêsu, những Lời bị lãng quên sẽ được nhớ lại và các môn đệ sẽ
hiểu được trong khả năng hiểu biết của các ông.
c)
Phúc Âm:
15 “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy
giữ giới răn Thầy. 16 Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ
ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi.
23 Chúa Giêsu đáp: “Ai yêu mến Thầy,
sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở trong
người ấy. 24 Kẻ không yêu mến Thầy, thì sẽ không giữ lời
Thầy; lời mà các con nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai
Thầy.
25 “Thầy đã nói với các con những đều
này khi còn ở với các con. 26 Nhưng Đấng Phù Trợ, là Thánh
Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy cho các con mọi điều
và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Tôi
đi đến trường của Thầy, Chúa Thánh Linh. Tôi ngồi dưới chân Người và tôi
từ bỏ bản thân mình trước mặt Người. Tôi mở lòng mình ra, không chút sợ
hãi, để Người có thể hướng dẫn tôi, an ủi, quở trách và giúp tôi trưởng thành.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
a) “Nếu các con yêu mến Thầy”.
Mối quan hệ của tôi đối với Chúa Giêsu có phải một mối quan hệ của tình yêu
không? Tôi đã có dọn cho Chúa một chỗ trong trái tim tôi chưa? Tôi
đã có xét mình một cách chân thành và tự hỏi: “Tình yêu của đời tôi đang
đặt ở đâu, tôi có tình yêu nào không?” Nếu tôi nhận ra rằng trong con người
tôi không hề có tình yêu, hoặc chỉ yêu một cách hời hợt, tôi có thử hỏi
lòng: “Điều gì đang ngăn cản tôi, điều gì đã khiến tôi sống khép kín, tù
hãm, biến tôi trở nên buồn bã và cô đơn như thế không?”
b) “Các con hãy giữ giới răn
Thầy”. Tôi nhận thấy động từ “giữ” bao hàm nhiều ý nghĩa: chăm
sóc, bảo vệ, để tâm, nuôi dưỡng, dự trữ và bảo toàn, không phung phí, cất giữ cẩn
thận, với tình yêu thương. Tôi đã có ý thức và thấu hiểu được những thái
độ này, bởi mối quan hệ của tôi như là một môn đệ, như một người Kitô hữu, với
Lời Chúa và các giới răn mà Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta vì hạnh phúc của
chúng ta chưa?
c) “Người sẽ ban cho chúng con một
Đấng Phù Trợ khác”. Đã bao lần tôi không đi tìm kiếm một ai đó để an ủi
tôi, để chăm sóc tôi, để bày tỏ lòng trìu mến và lo lắng cho tôi! Nhưng
tôi có thật sự tin rằng niềm an ủi đích thực là chính từ Chúa không? Hay
tôi vẫn còn tin nhiều vào các an ủi tôi đang kiếm tìm, những ủi an mà tôi van
xin từ đây đó, như những vụn bánh tôi nhặt nhạnh mãi mà không bao giờ có thể cảm
thấy no đủ không?
d) “Ở trong người ấy”.
Chúa đang đứng ở cửa, gõ cửa và chờ đợi. Người không nài ép hay bắt buộc
ai. Người chỉ nói: “Nếu con muốn …”. Chúa đề nghị rằng tôi có
thể thành nơi trú ngụ của Người, là nơi cho Người nghỉ ngơi, cận kề với Người.
Chúa Giêsu đã sẵn sàng và vui mừng để đến với tôi, để hiệp nhất Người với tôi
trong một tình bạn hết sức đặc biệt. Nhưng, tôi đã sẵn sàng chưa?
Tôi có đang mong chờ việc viếng thăm của Người, có mong mỏi Người ngự sâu vào
trong lòng tôi, bản ngã nhất của riêng tôi không? Có một chỗ nào cho Chúa
trong cái quán trọ của tôi không?
e) “Người sẽ … nhắc nhở cho
các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”. Danh từ “ký ức” gợi
nhớ một việc thậm chí thiết yếu và rất quan trọng. Tôi có được thử thách
và khảo sát kỹ lưỡng bởi Thánh Kinh không? Trong đó tôi gợi nhớ về điều
gì? Tôi đang cố gắng nhớ gì, đem gì đến cho đời sống nội tâm của
tôi? Lời của Chúa là một kho tàng quý giá nhất; đó là hạt giống của đời sống
đã được gieo vào trong lòng tôi; nhưng tôi đã có vun xới cho hạt giống này
không? Tôi đã có bảo vệ nó từ ngàn kẻ thù và các nguy hiểm đang vây hãm
nó: chim chóc, sỏi đá, gai góc, và sự dữ không? Mỗi sáng, tôi có
mang theo với tôi Lời của Chúa để nhớ trong ngày và dùng như ánh sáng nội tâm,
nguồn sức mạnh, của ăn tinh thần cho tôi không?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Bây
giờ tôi tiến lại mỗi một nhân vật trong bài đọc và tôi lắng nghe một cách sốt sắng,
suy gẫm, lắng đọng, trong sự chiêm niệm…
Khuôn
mặt của Chúa Cha:
Chúa
Giêsu phán: “Thầy sẽ xin Cha” (câu 26) và từ đó tấm màn
bí ẩn xung quanh lời cầu nguyện được vén qua một bên: cầu nguyện là cuộc sống dẫn
đến Chúa Cha. Để đến với Chúa Cha, chúng ta được ban cho con đường cầu
nguyện. Chúa Giêsu sống mối quan hệ của Người với Chúa Cha qua phương
cách cầu nguyện, vì vậy chúng ta cũng phải làm như vậy. Tôi cần phải đọc
các sách Phúc Âm và trở nên một người nghiên cứu cẩn thận các dấu chỉ liên quan
đến bí mật tình yêu giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, để từ đó, bằng cách bước vào mối
quan hệ đó, tôi cũng có thể phát triển trong kiến thức về Thiên Chúa, Cha của
tôi.
“Người
sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác”. Chúa Cha là Đấng ban cho chúng ta Đấng Phù Trợ.
Món quà tặng này được tiếp nối bởi tình yêu của Chúa Cha, Đấng biết rằng chúng
ta cần có sự an ủi: Người đã trông thấy nỗi đau khổ của tôi trong miền đất
Ai Cập và đã nghe thấy tiếng khóc than của tôi. Người thực sự biết nỗi thống
khổ của tôi và thấy các áp bức đang dày vò tôi (xem Es 3:7-9); không có điều gì
bị bỏ sót bởi tình yêu vô biên của Người dành cho tôi. Đó là lý do tại
sao Người ban cho chúng ta Đấng Phù Trợ. Chúa Cha là Đấng Ban Cho.
Mọi thứ chúng ta có là đều do Người, không do một ai khác.
“Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy”.
Chúa Cha là Đấng Yêu Thương, yêu với một tình yêu miên viễn, tuyệt đối, không
thể xâm phạm, không thay đổi. Y như lời tiên tri Isaia, Giêrêmia, và các
tiên tri khác đã nói (Gr 31:3, Is 43:4; 54:8; Hos 2:21; 11:1).
“Chúng
ta sẽ đến”. Chúa
Cha được sum họp với Con Người, Chúa Giêsu, và là một với Người, và Người sẽ đến
với mỗi người chúng ta. Người đã hành động, đi ra, hạ mình và đến với
chúng ta. Được thúc đẩy bởi một tình yêu điên cuồng và không thể giải
thích, Người đến với chúng ta.
“Và
chúng ta sẽ ở trong người ấy”. Chúa Cha xây nhà của Người trong chúng ta; Người làm cho
chúng ta, cho tôi, cho sự hiện hữu của tôi, tất cả thân xác của tôi trở nên nơi
trú ngụ của Người. Người đến và sẽ không lìa xa nhưng ở lại một cách
trung thành.
Khuôn
mặt của Chúa Con:
“Nếu
các con yêu mến Thầy…” (câu 15); “Ai yêu mến Thầy…” (câu
23). Chúa Giêsu tiến tới một mối quan hệ đặc biệt và riêng tư với tôi, mặt
đối mặt, tâm kề tâm, hồn cận hồn; Người muốn có một mối quan hệ mãnh liệt, duy
nhất, không thể sao chép, và Người sẽ cho tôi hiệp nhất với Người bằng tình yêu
nếu tôi muốn. Người luôn luôn dùng chữ “nếu” và khi Người hỏi riêng
tôi: “Nếu con muốn…” Phương pháp duy nhất Người hằng tìm cách để đến với
tôi là qua tình yêu. Thật ra, điều đáng chú ý là việc xử dụng những đại
danh từ “các con” và “ai” được liên kết với chữ “tôi” bởi động từ “yêu thương”
và không có động từ nào khác.
“Thầy
sẽ xin Cha” (câu
16). Chúa Giêsu là người cầu nguyện, Người sống bằng sự cầu nguyện và vì
cầu nguyện. Tất cả cuộc đời Người được đúc kết lại bởi lời cầu nguyện và
trong lời cầu nguyện. Người là linh mục tối cao và đời đời, là Đấng đã
can thiệp cho chúng ta và dâng những lời khẩn nguyện và nài xin cùng với những
giọt nước mắt (xem Dt 5:7), cho sự cứu rỗi của chúng ta; “Người có thể đem ơn cứu
độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy,
Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.” (Dt 7:25).
“Nếu
ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (câu 23); “Kẻ không yêu mến Thầy, thì sẽ không giữ lời
Thầy.” (câu 24). Chúa Giêsu ban tặng Lời của Người cho tôi, Người
trao ban cho tôi trong niềm tín thác rằng tôi sẽ chăm sóc và giữ gìn những lời ấy,
rằng tôi sẽ đặt để những lời ấy trong trái tim tôi và ở đó Lời Chúa sẽ được sưởi
ấm, trông nom, chiêm niệm, lắng nghe và do đó sẽ làm cho Lời ấy nảy sinh hoa
trái. Lời Chúa là hạt giống; là viên ngọc quý báu nhất trong tất cả, vì
đó chính là kho tàng đáng được đánh đổi bằng tất cả mọi sự giàu sang khác; đó
là kho tàng tiềm ẩn xứng đáng được đào xới vì nó vô giá; đó là ngọn lửa nung nấu
trái tim tôi; đó là ngọn đèn soi sáng cho những bước chân của chúng ta ngay cả
trong đêm đen tối tăm nhất. Tình yêu dành cho Lời của Chúa Giêsu có thể được
xác định bởi tình yêu của tôi dành cho chính Chúa Giêsu, cho những gì thuộc về
Người, bởi vì, rốt cuộc, Người chính là Ngôi Lời. Đó là lý do tại sao
trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu đang khóc lóc với trái tim của tôi rằng
chính Người là cái tôi phải cần giữ lại.
Khuôn
mặt của Chúa Thánh Thần:
“Cha
sẽ ban cho chúng con một Đấng Phù Trợ khác” (câu 16). Chúa Cha ban cho chúng ta Chúa
Thánh Thần; đây là “tặng phẩm tốt đẹp và phúc lộc hoàn hảo do từ trên” (Gb
1:17). Người là “Đấng Phù Trợ khác” ngoài Chúa Giêsu, Đấng sẽ đến và ở lại
để chúng ta không phải đơn côi, bị quên lãng. Trong khi tôi đang sống
trên thế gian này, tôi sẽ không thiếu sự an ủi, nhưng tôi được vỗ về bởi sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần, Đấng không chỉ an ủi, mà còn nhiều hơn thế nữa: Người
là một người đang sống và luôn hiện diện bên cạnh tôi. Sự hiện diện này,
người bạn đồng hành này có khả năng đem lại cho tôi niềm vui, niềm vui thật sự.
Thực thế, thánh Phaolô đã nói: “Hoa quả của Chúa Thánh Thần là lòng bác
ái, niềm hoan lạc, sự bình an…” (Gl 5:22; và cũng xem Rm 14:17)
“để
Người ở với các con luôn mãi”. Chúa Thánh Linh đang ở giữa chúng ta,
Người đang ở với tôi, giống như Chúa Giêsu đã ở với các môn đệ Người xưa
kia. Sự hiện đến của Người là một sự hiện diện cá nhân thực thể; tôi
không thấy Người, nhưng tôi biết rằng Người có đó và Người sẽ không bao giờ lìa
xa tôi. Chúa Thánh Thần luôn luôn hiện diện ở đây, sống với tôi và trong
tôi, không hề có giới hạn của không gian hoặc thời gian; do đó Người là Đấng
Phù Trợ.
“Người
sẽ dạy các con mọi điều” (câu 26). Chúa Thánh Thần là Thầy dạy,
Người mở đường cho lương tâm, kinh nghiệm; không ai ngoại trừ Người có thể dẫn
dắt tôi, bảo ban tôi, cho tôi một con người mới. Người không phải là một
ngôi trường nơi người ta thu thập kiến thức loài người để tạo ra lòng tự hào và
không giải thoát; những giáo huấn của Người, những lời thầm thì, những lời chỉ
đường chính xác của Người đến từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần dạy cho chúng ta xét cho đúng và hiểu cho tường tận (Tv
118:66), Người chỉ cho chúng ta biết thánh ý của Chúa Cha (Tv 118:26-64), đường
lối của Chúa (Tv 24:4), các giới răn của Chúa (Tv 118:124-135), chính là đời sống.
Chúa Thánh Linh là một người thầy có khả năng hướng dẫn tôi đến sự thật toàn vẹn
(Ga 16:13), Người ban cho tôi một sự tự do sâu xa, ngay cả lúc linh hồn và thần
khí tách xa nhau, vì chỉ có Người, là Thiên Chúa, có thể mang cho tôi sự sống
và sự sống lại. Là Thiên Chúa, nhưng Người lại khiêm tốn, Người hạ mình
xuống, rời khỏi ngai tòa của mình và đi vào trong tôi (xem Cv 1:8; 10:44), Người
đã ban chính bản thân Người cho tôi một cách hoàn toàn và tuyệt đối; Người
không hề so đo hơn thiệt với món quà tặng của Người, với ánh quang minh của Người,
nhưng Người đã cho đi không giới hạn.
6.
Giây phút cầu nguyện: Thánh Vịnh 30
Một
bài ca chúc tụng Thiên Chúa,
Đấng
đã ban cho chúng con đời sống mới của Chúa Thánh Linh từ trời xuống
Đáp
ca: Lạy
Chúa, Chúa đã ban cho con cuộc sống trọn vẹn, alleluia!
Lạy
Chúa, con xin tán dương Ngài,
Vì đã
thương cứu vớt,
Và
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.
Ôi lạy
Chúa là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa,
Và
Ngài đã cho con bình phục
Lạy
Chúa,từ âm phủ Ngài đã kéo con lên,
Tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Đ
Tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Đ
Hỡi
những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa,
và cảm tạ thánh danh Người.
Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo. Đ
Thuở được yên vui, có lần tôi tự nhủ:
“Mình sẽ chẳng bao giờ nao núng!”
Lạy Chúa, vì yêu thương,
Ngài đã đặt con trên núi an toàn.
Nhưng khi Ngài vừa ẩn mặt đi,
con liền thấy bàng hoàng sợ hãi.
Lạy Chúa, con đã kêu lên Ngài,
năn nỉ với Ngài là Chúa của con. Đ
Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con!
Lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ!
Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu;
và cảm tạ thánh danh Người.
Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo. Đ
Thuở được yên vui, có lần tôi tự nhủ:
“Mình sẽ chẳng bao giờ nao núng!”
Lạy Chúa, vì yêu thương,
Ngài đã đặt con trên núi an toàn.
Nhưng khi Ngài vừa ẩn mặt đi,
con liền thấy bàng hoàng sợ hãi.
Lạy Chúa, con đã kêu lên Ngài,
năn nỉ với Ngài là Chúa của con. Đ
Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con!
Lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ!
Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu;
cởi
áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng.
Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. Đ
Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. Đ
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin cho con được nói với Chúa lần nữa. Thật khó cho con
để rời khỏi buổi gặp gỡ của con với Ngôi Lời bởi vì Chúa đang hiện ở đó.
Vì thế, xin Chúa hãy sống và tác động trong con. Con xin dâng lên Chúa,
dâng lên sự thắm thiết của Chúa, tình yêu của Chúa, khuôn mặt người môn đệ của
con; con soi bóng mình trong Chúa, ôi Lạy Chúa Thánh Thần. Con xin dâng
lên Chúa, ngón tay của cánh tay phải của Thiên Chúa, các khả năng, mắt, môi,
tai của con… xin quyền năng chữa lành của Chúa hãy làm việc trong con, nhờ sự
giải thoát và ơn cứu độ của Chúa mà con có thể được tái sinh, hôm nay, một con
người mới từ trong cái nôi của ngọn lửa Chúa, hởi thở của ngọn gió Chúa, lạy
Chúa Thánh Thần, con đã không được sinh ra để sống một mình. Vì vậy, con
nài xin Chúa, xin Chúa hãy gửi cho con các anh chị em con để con có thể loan
báo cho họ về sự sống phát sinh từ Chúa. Amen. Alleluia!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét