21/08/2020
Thứ Sáu tuần 20
thường niên.
Thánh Piô 10, giáo
hoàng.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người
dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ
giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu
toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong
Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống
thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống
đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người
qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
BÀI ĐỌC I:
Ed 37, 1-14
“Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe
lời Chúa. Ta sẽ dẫn các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào nhà Israel”.
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và dẫn tôi đi trong thần trí
của Chúa: Người để tôi giữa cánh đồng đầy hài cốt; Người đem tôi đi vòng quanh
những hài cốt ấy, có rất nhiều bộ xương khô nằm la liệt trên cánh đồng. Và Chúa
phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, ngươi nghĩ các xương này sẽ có thể được sống
chăng?” Tôi thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã biết”. Người liền phán cùng
tôi: “Ngươi hãy nói tiên tri về các bộ xương này, và bảo chúng rằng: ‘Hỡi các bộ
xương khô, hãy nghe lời Chúa. Chúa là Thiên Chúa phán cùng các bộ xương như thế
này: Đây Ta sẽ khiến hồn nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt
gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc ra trên các ngươi, và cho da bọc các
ngươi: Ta sẽ ban hồn cho các ngươi, các ngươi sẽ được sống và biết rằng Ta là Chúa’
“. Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi.
Đang lúc tôi nói tiên tri, thì có tiếng ồn ào, và tôi thấy chuyển động:
các bộ xương họp lại với nhau, xương ăn khớp với nhau. Tôi quan sát, và này
đây, gân và thịt mọc trên các bộ xương: có da bọc lại, nhưng chưa có hồn. Và
Chúa phán cùng tôi rằng: “Ngươi hãy nói tiên tri về hồn, hỡi con người, hãy nói
tiên tri và bảo hồn rằng: ‘Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi hồn, hãy từ
bốn phương tiến đến’, và thổi hơi trên những kẻ bị giết này, để chúng sống lại”.
Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi. Hồn liền nhập vào chúng và
chúng được sống. Chúng đứng thẳng lên làm thành một đạo quân cực kỳ đông đảo.
Và Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, các bộ xương này là toàn thể
nhà Israel. Chúng nói rằng: ‘Xương chúng tôi đã khô đét, chúng tôi mất hết hy vọng,
chúng tôi đã bị tiêu diệt’. Bởi đó, ngươi hãy nói tiên tri cho chúng rằng:
‘Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở các cửa mồ các
ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi
dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các
ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống;
Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, các ngươi biết rằng: Ta là Chúa,
chính Ta đã phán và sẽ thi hành’ “. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 106, 2-3.
4-5. 6-7. 8-9
Đáp:Hãy chúc tụng
Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy xướng lên, hỡi những người được Chúa thục mạng cho, những người
Chúa đã thục mạng khỏi tay quân thù: những người Chúa đã họp lại từ muôn đất nước;
từ đông sang tây và từ bắc chí nam. – Đáp.
2) Xưa họ lạc lõng trong chốn cô liêu hoang địa, không biết đường đi tới
thành trì có thể định cư. Lúc bấy giờ họ đói khát, và sinh lực trong người họ
hao mòn. – Đáp.
3) Họ kêu cầu cùng Chúa trong lúc khốn cùng, Người đã cứu họ thoát cảnh
gian truân. Người dẫn họ đi trên con đường thẳng, để họ tới được thành trì có
thể định cư. – Đáp.
4) Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu
của Người đối với con người ta. Bởi Người đã cho người đói khát được no đủ, người
cơ hàn được tràn trề thiện hảo. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia!
– Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm
nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là
Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người
Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi
thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu
phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác
như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong
hai giới răn đó”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Giới Răn Yêu
Thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại
Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị
tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt
cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ
mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ
kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa
ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội
Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm
được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết
yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng
đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh
Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời
cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới
răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất,
bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người,
cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên
Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ
tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức:
họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa
Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ
không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những
mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so
sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử
chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo.
Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương
thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người
đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả
thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải:
"Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi
vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng
nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần
gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 20 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Eze 37:1-14; Mt 22:34-40
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Mến Chúa, yêu người.
“Mến Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của
Đạo. Vì vi phạm hai giới răn này mà người Do-thái đã bị lưu đày xa quê hương;
nhưng cũng chính vì hai giới răn này như thần khí đã giúp họ có cơ hội trở về dựng
lại Đền Thờ và quê hương của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến những bộ xương khô.
Điều đầu tiên chúng ta cần nhấn mạnh: thị kiến này có ý nói tới ngày giải
phóng của những người Do-thái khỏi cảnh nô lệ lưu đày, và được trở về để tái
thiết lại Đền Thờ và quê hương. Sau này, nhiều nhà chú giải áp dụng thị kiến
vào thời Cánh Chung khi Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả các kẻ chết được sống lại
trước khi phán xét họ.
Không điều gì là không thể đối với Đức Chúa: Sống trong cảnh lưu đày, người
Do-thái hầu như ngã lòng trông cậy, mất hết tin tưởng ở tương lai. Họ nghĩ là sẽ
không bao giờ có ngày hồi hương vì Thiên Chúa đã bỏ quên họ. Qua những gì tiên
tri thấy được hôm nay, Thiên Chúa sẽ cho dân có ngày về. Những người Do-thái
nơi lưu đày được ví như những bộ xương khô, đã chết cả về phần xác (khổ cực vì
lưu đày) lẫn phần hồn (không còn hy vọng gì để sống). Khi Thiên Chúa hỏi tiên
tri: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?” Tiên tri vững
tin Thiên Chúa uy quyền làm chuyện đó nên ông thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng,
chính Ngài mới biết điều đó.”
Chúa muốn dùng con người làm những chuyện ấy nên Ngài nói với ông: “Ngươi
hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy
nghe lời Đức Chúa. Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ
được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ
trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi
sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Tôi đã
tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự
rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thì thấy trên
chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí
chưa có ở nơi chúng.
Giống như biến cố Chúa dựng nên con người trong Sách Khởi Nguyên: sau khi
Chúa lấy bùn đất tạo nên con người, Chúa thổi sinh khí và làm cho con người trở
nên sinh vật sống động (Gen 2:7). Thị kiến Ezekiel nhìn thấy cũng vậy: tuy đã
có thân thể nhưng vẫn chưa có thần khí nên chưa “sống” được. Người lại bảo tôi:
“Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với
thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần
khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.” Tôi
tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết;
chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.
Thiên Chúa cho tiên tri biết ý nghĩa của thị kiến: Các xương đó chính là
toàn thể nhà Israel. Này chúng vẫn nói: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của
chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!” Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta
là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi
dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi
sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Judah và Israel thành một
vương quốc thống nhất.
2/ Phúc Âm: Giới răn quan trọng nhất.
Pharisees là những người giữ cả luật thành văn và luật bất thành văn
(truyền thống tổ tiên). Nhiều người trong họ là những người thông luật
(scribes). Họ có rất nhiều luật, vì thế, họ có thể không biết đâu là điều răn
quan trọng nhất. Phúc Âm Marcô 12:28-34 cũng tường thuật biến cố này, nhưng với
giọng điệu thành thật vì muốn biết; trong khi Matthêu với giọng điệu để thử
thách Chúa: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng,
thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi
Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là
điều răn trọng nhất?”
Câu trả lời của Chúa Giêsu, tuy chỉ vỏn vẹn trong ba hàng, nhưng Ngài nói
đã tóm tắt tất cả Luật Moses và lời dạy của các sách Ngôn-sứ: “Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng
giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
Xem xét cẩn thận hai điều răn này, chúng ta nhận ra những điểm sau đây:
(1) Cả hai điều răn đều dùng động từ yêu “ágapan.” Đây là cốt lõi của đạo,
đạo của Thiên Chúa là đạo yêu thương: yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Động từ
này được dùng cách riêng trong Tân Ước mà thôi. Phải yêu thương tha nhân bằng
tình yêu của Thiên Chúa. (2) Ba điều đầu tiên của Thập Giới liên quan đến Thiên
Chúa được Chúa Giêsu tóm gọn lại trong điều răn thứ nhất ở đây. Bảy điều sau của
Thập Giới liên quan đến tha nhân cũng được Chúa Giêsu tóm gọn lại trong giới
răn thứ hai “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (3) Trong Cựu Ước
cũng đã có 2 điều răn này: Điều răn kính mến Chúa (Deut 6:5) còn được gọi là
Shema, giới luật căn bản và quan trọng nhất của người Do-thái. Điều răn thứ hai
(Lev 19:18) đòi yêu người như chính mình. Chúa Giêsu đã nhặt ra và tổng hợp lại
thành hai điều răn quan trọng nhất của đạo.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Không có điều gì không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Chúa đã phân tán người
Do-thái làm nô lệ khắp nơi, Ngài cũng có thể tìm cách cho họ trở về. Nếu Chúa
đã thổi sinh khí để dựng nên con người, Ngài cũng có thể thổi sinh khí làm con
người sống lại.
– Không có điều gì là không thể đối với con người nếu chúng ta biết giữ cẩn
thận ai điều răn quan trọng Chúa truyền hôm nay; vì những gì chúng ta không thể
làm được, Chúa sẽ giúp chúng ta làm như Ngài đã giúp tiên tri Ezekiel hôm nay.
– Có quá nhiều luật lệ làm con người lẫn lộn: không phân biệt được đâu là
điều chính đâu là điều phụ; không biết được điều gì quan trọng, điều gì không
quan trọng. Câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay giúp chúng ta nhận thức rõ: “Mến
Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của Đạo. Khi có
xung đột giữa các chọn lựa trong đời sống, hai giới răn quan trọng này sẽ giúp
chúng ta biết lựa chọn làm sao cho đúng thứ tự ưu tiên của cuộc đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/08/2020 – THỨ SÁU TUẦN 20 TN
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 22,34-40
LUẬT TRỌNG NHẤT:
MẾN CHÚA, YÊU NGƯỜI
“Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai
điều răn ấy.” (Mt 22,40)
Suy niệm: Mến Chúa, yêu người được
coi như hai mặt của một đồng xu. Không có “nhãn hiệu cầu chứng” của một trong
hai mặt, đồng xu sẽ bị coi là giả. Cũng vậy, sẽ không thật nếu chỉ yêu tha
nhân, mà quên mất Chúa; hoặc ngược lại, sẽ là gian dối nếu ta nói yêu Chúa mà
không yêu thương người lân cận; yêu Chúa là động lực để con người yêu mến nhau
cách siêu nhiên và bền vững. Ta có thể kiểm tra điều này khi nhìn vào các tương
quan giữa người với người trong thế giới hiện tại. Người nào, dân tộc nào tôn
trọng thiên luật, cách đối nhân xử thế sẽ khác xa với kẻ nào, dân tộc nào chỉ
coi trọng luật của con người mà loại bỏ lề luật của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Ngày nay bạn nghe nói nhiều
về nhân quyền, đã nhận thấy có nhiều người dấn thân đề cao, bảo vệ nhân quyền.
Tuy nhiên, điều này dễ có nguy cơ dẫn đến việc sử dụng bạo lực khi không có sự
soi sáng, hướng dẫn của lòng mến Chúa. Sở dĩ tôi nỗ lực hành động cho thiện ích
của con người, vì họ là tạo vật, là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng làm
mưa trên người lành cũng như kẻ dữ! Bạn đã cố gắng hài hòa giữa lòng mến Chúa
và yêu người chưa?
Sống Lời Chúa: Chỉ yêu Chúa dễ dẫn đến
cuồng tín; chỉ yêu người có thể đưa đến cực đoan. Vì thế, bạn nên cân bằng hai
thái cực này bằng việc yêu mến, thờ phượng Chúa cũng như yêu thượng, phục vụ
người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã
yêu thương con cách vô cầu. Xin dạy con cách mến Chúa yêu người mà Chúa mong muốn
nhất nơi con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Điều răn
trọng nhất
Suy niệm
Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi”
(Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình
yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức
lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình
yêu.
Cầu nguyện
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa. (Thánh Âu Tinh)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG TÁM
Chuẩn Mực Của Hoạt
Động Con Người
Chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng
Vatican II: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người nên qui hướng về
con người… Nếu được hiểu cho đúng, thì sự phát triển đáng giá hơn mọi của cải có
thể thu tích được. Giá trị con người hệ tại ở “cái mình là” hơn hệ tại ở “cái
mình có”. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình
cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các
tương quan xã hội, đều quí trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy
tuy có thể cung cấp chất liệu cho sự thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà
thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy…
“Đây là tiêu chuẩn của hoạt động con người: mọi hoạt động con người phải
phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên
Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi
phổ quát của mình” (MV 35; 59).
Cũng chính Hiến Chế trên tuyên bố: “Trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải
luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc
vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại. Trật tự xã hội phải phát triển
mỗi ngày một hơn, phải đặt nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công bình,
nuôi sống nhờ tình yêu. Thánh Thần Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời
gian và canh tân bộ mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện
trong cuộc tiến hóa này” (MV 26).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21/8
Thánh Piô X, Giáo
Hoàng
Ed 37, 1-14; Mt 22,
34-40.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu
đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều
răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình.”
Mặc dầu những người
Pharisêu và thông luật đến hỏi Chúa Giêsu để thử Người. Nhưng Chúa Giêsu vẫn
kiên trì trong việc giáo huấn. Về điều răn đứng đầu và quan trọng nhất, Người dẫn
chứng trong Sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết
lòng hết dạ, hết sức anh em. Những điều này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh
em phải ghi tạc vào lòng.” (Đnl 6,5-6). Còn điều răn thứ hai Người trích dẫn
Sách Lêvi: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,8).
Lạy Chúa Giêsu.
Chúa đang nối kết: “Mến Chúa yêu người.” làm nên lẽ sống của chúng con. Xin cho
mỗi người trong chúng con luôn biết xây dựng đời mình với điều luật “Mến Chúa
yêu người.”
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-08: Thánh
PIÔ X
GIÁO HOÀNG (1835 –
1914)
Thánh Piô X giáo hoàng tên thật là Giuseppe Melchierre Sartô, sinh tại
làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài ông Giovanni
Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ hơn ông tới một
nửa số tuổi. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Làm nghề chạy giấy của xã,
ông Giovanni Battista làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi ông cũng lại một
gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà
mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay từ nhỏ, học tại trường làng, Giuseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng,
Ngài luôn là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã
vào ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần
đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên giáo hoàng sau này,
đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ
võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu,
Giuseppe đã khấn dâng mình cho Chúa.
Từ lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ.
Nhưng khi biết được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập
ngừng vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi
người đều vui mừng vì quyết định của Giuseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy
tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách
Riese 7 cây số ngàn. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm,
và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm linh mục là sức mạnh
giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Giuseppe lên đại chủng viện Padua.
Gia đình Giuseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong
họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một
ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn
sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Giuseppe
chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong
nếp sống nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Giuseppe đã tiến tới chức
linh mục ngày 28 tháng 9 năm1858, lúc 23 tuổi.
Sau ngày mở tay tại quên nhà, cha Giuseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín
năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ,
cha Giuseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người
nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm
vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm chưởng ấn toà giám mục,
kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện.
Luôn luôn Ngài thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm 1884, đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm giám mục cai
quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự
cho mọi người. – Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ
và đầy bác ái.
Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ em chiếc nhẫn giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng
sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói : – Không có chiếc nhẫn
của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải thật nhân đức mới có thể đường dầu với tình trạng đáng thương của
giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm,
thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với
việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng đức cha Sartô bắt tay ngay
vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn.
Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến
cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng
viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để
đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp
nhận sự sống nhượng bộ khi không được phép : – Người ta phải tranh đấu nơi
thanh thiên bạch nhật.
Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo
xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà
giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng
giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi hoạt động của vị giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm
1893, Đức Leo XIII đặt Ngài làm hồng y giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn
vâng lời.
– Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà
là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ
vâng phục…
Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều
thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm
thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tông
trọng luật Chúa.
Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô
phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng
y Puzyna cai quản Krakow cho biết hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y
Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 tháng
8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ
quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62
(vì sự kiện trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi
mưu toan chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử giáo hoàng).
Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi: – Chúng tôi đã
nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời ?
– Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài
trả lời : – Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
– Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
– Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận
tên là Piô.
Thế là cuộc bầu cử giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09
tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04
tháng 10 năm 1903 Ngài công bố: “Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn
phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong đức Kitô”.
Suốt triều đại giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho
phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước
lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết
duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong
cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma.
Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật…
Về phương diện chinh trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa
Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều
Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn sàng chấp nhận
việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự
làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon
và chấp nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của
Giáo hội Pháp là có lợi hơn.
Giữa những công chuyện hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm
thấy mình được ở nhà. Ngài là “tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp xúc với các bạn
cũ, Ngài bật khóc : – Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi
đau bệnh, Ngài xin linh mục là cháu cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy
và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ
nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn
thấy trong túi áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và mẫu bút chì.
Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức piô được bầu làm giáo hoàng, Au Châu
lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng, ngày lễ Mông
Triệu và qua đời ngày 20 tháng tám, người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn
cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm
1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời
Ngài được phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
21 Tháng Tám
Kẻ Thù Trong Mơ
Ðời Trang Công, nước Tề, có một người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm
bao có một người to lớn, mặc áo vải quần gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng
chửi, rồi lại nhổ vào mặt mà đi… Ông ta giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực
dọc, không tài nào ngủ lại được.
Sáng hôm sau, ông nói chuyện với một người bạn với lời lẽ như sau: “Từ
thuở nhỏ đến giờ, tôi vốn là một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa
hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua, có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết
tìm cho kỳ được kẻ ấy để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi
phải chết mất”.
Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài
đường để rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn
chưa thấy được kẻ thù.
Ðã tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, nay lại hậm hực thêm vì không tìm thấy
kẻ thù, ông ta trở về nhà uất người lên và chết.
Nhà diễn giả hùng biện nhất của đế quốc La Mã là Cicero có nói: “Con người
là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ
thù, để rồi đi tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng không
là một minh họa cho câu nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của
chính mình, bởi vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt
thực của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù
đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người
vào thế chống đối và tiêu diệt nhau.
Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của
Ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ
thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với
chúng ta: “Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi”.
Nếu con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, thì quả thực
chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng
ta cưu mang cừu hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình.
Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại
chúng ta, là chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại
chính mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét