31/08/2020
Thứ Hai tuần 22
thường niên
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 2, 1-5
"Tôi đã công bố cho anh em bằng chứng của Chúa
Kitô chịu đóng đinh".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy
thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan, tôi đến công bố bằng chứng của
Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài
Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run
rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào
những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của
thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài
người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 97. 99. 100. 101. 102
Ðáp: Lạy Chúa, con yêu chuộng luật pháp Chúa biết bao
(c. 97a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con yêu chuộng luật pháp Chúa biết bao, suốt ngày
con mải suy gẫm về luật đó. - Ðáp.
2) Chỉ thị Chúa khiến con thành khôn ngoan hơn quân thù, vì muôn đời chỉ
thị đó vẫn theo con. - Ðáp.
3) Con khôn ngoan hơn những bậc tôn sư, nhờ suy gẫm về những lời nghiêm
huấn của Ngài. - Ðáp.
4) Con am hiểu hơn những bậc lão thành, vì huấn lệnh của Ngài con tuân
giữ. - Ðáp.
5) Con kìm hãm chân con xa mọi đường gian ác, để con giữ trọn lời dạy của
Ngài. - Ðáp.
6) Con không bước trật đường thánh dụ của Ngài, bởi vì chính Ngài đã dạy
bảo con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới
muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 16-30
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người
nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói
quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc
sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay
đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi,
sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn
sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông
thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người
trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm
nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều
làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và
họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ
này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi
nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người
nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại
quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời
Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp
trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó,
nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong
cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được
lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy
và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành
trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó
là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được
sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật
ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế
thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải
qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia
đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên
tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm,
Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của
các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên
tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào.
Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề
tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài
rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị
chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa
Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng
Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận
được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã
trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi
quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát
khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ
bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài
đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của
Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ
mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận
bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một
Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của
Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai
trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần
xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của
Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống
ơn gọi tiên tri.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 22 TN2
Bài đọc: I Cor 2:1-5; Lk
4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tôn trọng Sự Thật.
Thiên Chúa rất công bằng với mỗi người chúng ta. Ngài ban cho tất cả mọi
người có cơ hội để lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các ơn lành trước khi xét xử
mỗi người. Nhưng có cơ hội đồng đều không bảo đảm kết quả sẽ giống nhau vì thái
độ đón nhận của con người rất khác nhau. Có những người chỉ cần một lần nghe
hay lãnh nhận họ đã nhận ra Sự Thật và cám ơn Chúa; đa số những người này lại
là những Dân Ngọai. Có những người nghe đi nghe lại đã không nhận ra lại còn có
những hành động nuốt chửng Sự Thật; đa số những người này lại là những người
con trong gia đình và Giáo-Hội. Các Bài đọc hôm nay cho thấy sự kiện đáng buồn
này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khôn ngoan của Thập Giá và khôn
ngoan của con người.
Khôn ngoan của con người chẳng những không đủ để nhận ra những mầu nhiệm
của Thiên Chúa mà đôi khi còn làm ngăn cản để hiểu những mầu nhiệm này. Thực tế
cho thấy, những người quay lưng lại với Sự Thật của Thiên Chúa lại là những người
học thức và khôn ngoan theo tiêu chuẩn của thế gian. Nhiều người trong giáo
đòan Corintô của Thánh Phaolô thuộc lọai người này. Trong khi những người dễ nhận
ra và tin vào sự khôn ngoan của Thập Giá là những người đơn sơ, ít học, và
khiêm nhường. Thánh Phaolô chắc chắn đã có kinh nghiệm về điều này khi ngài viết
những hàng sau đây: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời
lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi
còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su
Kitô, mà là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.”
Để hiểu sự khôn ngoan của Thập Giá, con người cần có thái độ thích ứng:
hòan tòan dựa vào Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa, chứ không cậy dựa vào sự
khôn ngoan của con người. Điều này cần được áp dụng cho cả người rao giảng lẫn
người lãnh nhận: “Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và
run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ
dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức
tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền
năng Thiên Chúa.”
2/ Phúc Âm: Thái độ bóp nghẹt Sự Thật của
những người đồng hương với Chúa.
Về quê để vinh quy bái tổ lẽ thay vì là một biến cố vui mừng đáng ghi nhớ
, trớ trêu thay lại trở thành dịp để những người đồng hương tru diệt nhân tài số
một của làng mình. Bắt đầu bằng việc Chúa vào hội đường ởNazareth trong
ngày Sabath và Người đọc đọan Sách Thánh của Isaiah: “Thánh Thần Chúa ngự trên
tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người
mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng
ân của Chúa.” Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi
ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.
Theo lời tường thuật của Phúc Âm Luca: “Mọi người đều tán thành và thán
phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Hai thánh sử Matthêu và Marcô
nêu lý do tại sao sau cùng họ không tin vào Ngài là vì họ đã biết lịch sử của
cha mẹ, anh chị em Ngài; trong khi thánh sử Luca cho lý do của sự không tin là
vì Ngài không làm những dấu lạ ở giữa họ.
Một sự thật đáng buồn: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương mình.” Tục ngữ Việt-Nam có câu: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Có lẽ
những người đồng hương ở Nazareth cũng nghĩ như thế và Chúa Giêsu
cũng muốn như vậy, nhưng hai bên có hai cách nhìn khác nhau. Họ muốn Chúa trở
thành cái máy làm phép lạ để thỏa mãn các nhu cầu vật chất của họ trong khi
Chúa muốn họ hiểu biết Sự Thật lớn lao nhất Ngài là con Thiên Chúa, tin vào
Ngài, và giữ các điều Ngài dạy để có sự sống đời đời.
Sự thật mất lòng: Các người ngọai gia đình cũng như Giáo-Hội có niềm tin
vào Thiên Chúa mạnh hơn nhiều người trong gia đình và Giáo-Hội. Trong Phúc Ấm,
đã nhiều lần Chúa nhắc nhở sự kiện đáng buồn này (Viên trưởng hội đường, Bà mẹ
xứ Canaan, Người Samaria nhân hậu…). Tại sao điều này xảy ra? (1) Vì nghĩ
mình khôn ngoan hơn và đã biết hết Sự Thật! (2) Vì đã quá quen với những lời giảng
dạy nên không quí trọng nữa! (3) Vì đã quá quen với những ân huệ nhận được nên
không còn thái độ biết ơn nữa! (4) Mất thái độ nhạy cảm với Sự Thật: Có mắt
cũng như mù, có tai cũng như điếc, có trí khôn suy nghĩ nhưng không chịu suy
nghĩ, và quả tim để rung động đã ra chai đá.
Thái độ quay lưng lại với Sự Thật như thế làm nản lòng các tiên tri. Có
ích lợi chi đâu nếu họ làm việc vất vả mà không nhìn thấy kết quả! Tốt hơn là
đem cho những ai biết lãnh nhận hơn. Những người còn trí khôn biết nhạy cảm với
Sự Thật, những người trái tim vẫn còn biết ơn và biết nói lời cám ơn. Đau đớn
thay những người như thế lại là những người dưng nước lã, những người Dân Ngọai
mà Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời
ông Êlijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon. Cũng vậy,
vào thời ngôn sứ Êlisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng
không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.”
Phản ứng mù quáng: Đã không đón nhận Sự Thật, họ để tính nóng giận làm
chủ và muốn giết chết người nói Sự Thật! Phúc Âm tường thuật “Nghe vậy, mọi người
trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành được xây trên
núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua
giữa họ mà đi.” Nếu những con người đã mất hết lương tri như thế, còn hy vọng
gì để cải biến họ nữa? Là con người mỏng dòn dễ vỡ như vỏ trứng mà giờ đây còn
cố gắng lấy sức để lao đầu vào đá, thì hậu quả phải lãnh nhận là tự họ chọn để
lao đầu xuống vực sâu. Chúa có nhân từ bao nhiêu cũng chẳng cứu nổi những con
người mù quáng ngông cuồng này, vì họ đã chọn để bị hư mất. Cách tốt nhất là
Chúa để họ với tính mù quáng của họ, Người băng qua giữa họ mà đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Sự Thật của bài Phúc Âm vẫn nhan nhản trong gia đình, giáo xứ, và
Giáo-Hội hôm nay. Mỗi người chúng ta cần cẩn thận xét mình để nhận ra chúng ta
thuộc lọai người nào. Nếu thuộc những người biết lắng nghe và sống Lời Chúa,
hãy tiếp tục con đường đó và cám ơn Chúa. Nếu thuộc lọai bưng tai bịt mắt trước
Sự Thật, hãy vội ăn năn quay về khi còn có cơ hội để làm trước khi cơ hội bị lấy
đi để trao cho người khác.
- Các tiên tri của Chúa không thể tiếp tục rao giảng cho những con người
mù quáng, không những bưng tai bịt mắt trước Sự Thật, lại còn khinh thường và
muốn tiêu diệt Sự Thật. Trong những trường hợp như thế, các tiên tri cũng phải
làm như Chúa, bỏ kệ họ một mình và tiếp tục đến với những người khác.
- Chúng ta phải để Sự Thật hướng dẫn mình chứ mình không hướng dẫn Sự Thật
theo ý thích và lợi ích của cá nhân mình.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
31/08/20 THỨ HAI TUẦN 22 TN
Lc 4,16-30
LỜI ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
“Hôm nay ứng nghiệm lời
Kinh thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4,21)
Suy niệm: “Ta phải tiếp cận Kinh
Thánh như một câu chuyện – câu chuyện của Chúa và của dân Ngài qua dòng lịch sử.
Điều làm cho Kinh Thánh là động lực và mang tính thời sự là câu chuyện ấy chưa
kết thúc” (B. Hardin). Là Ki-tô hữu, ta đã nghe bao Lời Kinh Thánh: trong thánh lễ
ngày Chúa nhật, ngày thường, ngày lễ, hay trong gia đình. Lắm lúc Lời ấy đi vào
tai ta, nhưng rồi không đọng lại chút dư âm gì, và vì thế, không sinh hoa kết hạt
tựa như hạt giống rơi trên sỏi đá hay vệ đường. Chỉ cần một câu Lời Chúa ấy được
quan tâm, ghi khắc, suy niệm, và đem ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, Kinh
Thánh không còn là câu chuyện ngày xa xưa, nhưng là câu chuyện của Chúa với ta
hôm nay. Khi ấy, Kinh Thánh trở thành động lực cho lối hành xử, là Lời được ứng
nghiệm trong đời ta.
Mời Bạn: “Kinh
Thánh cống hiến cho ta định hướng về Chúa và vạch giới hạn để ta xử lý các kịch
tính mỗi ngày. Kinh Thánh thách đố các động cơ hành động, cũng như đem lại cho
ta sự khôn ngoan sâu sắc, để ta hoạt động trong tư thế thân thể Chúa Ki-tô” (B. Hardin). Kinh
thánh mang tính sinh tử như vậy trong đời sống đức tin của bạn, vấn đề là bạn
có để cho Lời Chúa trong Kinh Thánh trở thành “bạn” của mình không?
Sống Lời Chúa: Tôi quan tâm hơn đến
việc dành thời gian để đọc, ghi nhớ, suy gẫm, và tìm phương cách áp dụng Lời
Chúa mỗi ngày trong đời sống mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chính Chúa là Lời được gieo vào thế
gian, để sinh hoa kết hạt cho thế gian. Xin cho con quan tâm hơn đến vị trí của
Lời Chúa trong đời con. Amen.
(5phút Lời Chúa)
Trả lại tự do
Thế giới hôm nay giàu
hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa. Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức
Giêsu, hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử
dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31 THÁNG TÁM
Đâu Là Vai Trò Riêng Của Các
Hội Đồng Giám Mục Cấp Quốc Gia?
Các hội đồng giám mục quốc gia
đã trở thành một thực tại sống động, cụ thể trên mọi miền thế giới. Thượng Hội
Đồng nhận thấy nhu cầu cần đào sâu sự hiểu biết thần học nhất là nền tảng tín
lý của những tổ chức này. Các tổ chức này đã có nhiều đóng góp rất giá trị cho
công việc của Giáo Hội tại những quốc gia khác nhau. Điề này thật đáng khích lệ.
Nhưng sự phát triển và tầm mức ảnh hưởng ngày càng tăng của các tổ chức này
cũng làm bật lên những vấn đề về tín lý và mục vụ trong Giáo Hội. Chúng ta tự hỏi:
Các hội đồng giám mục nên phát triển như thế nào? Đâu là vai trò của các tổ chức
này trong đời sống Giáo Hội?
Chính Công Đồng Vatican II –
trong Sắc Lệnh về các giám mục và về vai trò quan trọng của các giám mục trong
đời sống Giáo Hội – đã thúc đẩy việc đào sâu nhận hiểu về nền tảng tín lý của
các hội đồng giám mục quốc gia. Trong Bộ Giáo Luật, cũng có đề cập đến các hội
đồng giám mục này. Giáo luật tuyên bố rằng các giám mục “liên kết với nhau thực
hiện một số chức năng để thăng tiến những thiện ích mà Giáo Hội cung ứng cho
con người. (GL 447).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh
Thần tác động mạnh mẽ nơi các hội đồng giám mục quốc gia – để mọi quốc gia trên
trái đất này có thể được chăm sóc mục vụ hữu hiệu và được lớn lên trong đức
tin.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01-9
1Cr 2, 1-5; Lc 4, 16-30.
LỜI SUY NIỆM: Đức
Giêsu đến Nazarét, là nơi Người sinh trưởng, Người vào hội đường như Người vẫn
quen làm trong ngày Sabát và đứng lên đọc Sách Thánh.” (Lc 4, 16).
Chúa Giêsu vào hội
đường cho chúng ta thấy: chính nơi đây là một nơi quy tụ mọi người thuộc về gia
đình của Thiên Chúa. Tất cả đến đây để hiệp thông và lắng nghe lời Chúa. Giúp
cho chúng ta ý thức về ngày Chúa Nhật ngày hôm nay. Chính mỗi khi chúng ta đến
tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật; chúng ta sẽ nhận được những giáo huấn của Kinh
Thánh, khai sáng cho chúng ta hiểu biết về Thiên Chúa, và tình yêu của Ngài đối
với chúng ta, để giúp cho chúng ta biết tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa cho xứng
hợp, cũng như biết để sống với tha nhân. Không những thế, chúng ta còn nhận
lãnh được lương thực trường sinh. Để sống và sống muôn đời.
Mạnh Phương
31 Tháng Tám
Ốc Ðảo Hòa Bình
Cách Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số người Do Thái
và Ả Rập đã tình nguyện sống chung với nhau trong một ngôi làng mà người Do
Thái gọi là Nevé Shalom, còn người Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả hai tiếng
đều có nghĩa là "Ốc đảo hòa bình".
Năm 1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa Bình này chỉ
có một gia đình. Một năm sau, con số đó lên đến năm và hiện nay, có tất cả 15
gia đình vừa Do Thái vừa Ả Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân số của ngôi
làng Hòa Bình này hiện nay là 70 người. Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung
là minh chứng rằng người Do Thái và người Ả Rập có thể sống chung với nhau mà vẫn
tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Người sáng lập ngôi làng này là cha Bruno Hussar, một
linh mục công giáo năm nay 78 tuổi. Cha ngài là một người Pháp gốc Do Thái và mẹ
ngài là một người Hungary cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do Thái
khổ đạo. Năm lên 22 tuổi, ngài đã trở lại công giáo và xin tu trong viện
Ðaminh. Cha Bruno Hussar tuyên bố với tất cả xác tín như sau: "Trong Kinh
Thánh người ta đọc được lời này: Dân Ta sống trong một ốc đảo hòa bình. Cố gắng
cảm thông là điều có thể làm cho những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần
nhau, cũng như chính những người Kitô có thể đến gần với những người Hồi Giáo
và vô thần".
Ước vọng của các phụ huynh của 33 trẻ em sinh ra trong
ngôi làng Hòa Bình này là thấy chúng được giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã
cho xây một vườn trẻ chung, một trường mẫu giáo chung, một trường tiểu học
chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả Rập đều có thể nói một lúc hai thứ tiếng.
Một người cộng tác viên của cha Bruno cho biết như sau: "Ngay từ lúc nhỏ,
các trẻ em đã có thể làm quen với hai nền văn hóa một lúc. Nhưng điều đó không
có nghĩa là các em sẽ đánh mất nền văn hóa của mình, trái lại càng ý thức về
nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng người khác".
Ðể bảo tồn văn hóa của mình, các gia đình trong ngôi
làng Hòa Bình này cũng xây nhà theo sở thích của họ. Nhưng những căn nhà này
không thuộc quyền sở hữu của họ. Tất cả đều chọn lựa sống một cuộc sống gần như
tập thể: tuy trình độ khác nhau, nhưng tất cả mọi người đều đồng ý một mức
lương giống nhau. Mỗi ngày, mọi dân cư trong ngôi làng này dùng điểm tâm và ăn
trưa chung với nhau.
Người phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng: "Ngồi
đồng bàn để nói chuyện với nhau thay vì giữ những thành kiến riêng, điều đó
giúp thay đổi thái độ rất nhiều".
Cũng như trong tinh thần đó, từ 10 năm qua, 15 gia
đình trong ngôi làng Hòa Bình này đã tổ chức được rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới
trẻ Do Thái và Ả Rập. Người ta cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện chung, chung
không những cho người Do Thái và Ả Rập, mà còn chung cho những người không tín
ngưỡng nữa...
Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối... Những
người dân cư trong ngôi làng Hòa Bình trên đây, hẳn đã thấy được vết dầu loang
của Hòa Bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi
một cách vô ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.
Tình yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là điều mà con người
có thể xây dựng nếu con người biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết
tôn trọng sự khác biệt của nhau...
Trong phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của một xóm làng, liệu
những người Kitô chúng ta có thể xây dựng được một ngôi làng Hòa Bình với nhau
không?...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét