06/04/2014
Chúa Nhật V Mùa
Chay Năm A
(phần II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN 5 MÙA CHAY A
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY NĂM A
Sách tiên tri Êdêkien 37,12-14; Thư Thánh Phaolô
gửi Tín hữu Roma 8,8-11
và Phúc Âm Thánh Gioan 11,1-45
I. Giáo Huấn P.Â.:
Chúa Giêsu là sự sống và là sự sống lại.
II. Vấn nạn P.Â.
Phụng Vụ Năm A, nhưng đọc Phúc Âm Thánh Gioan, chắc phải có những điểm đáng lưu
ý?
Thánh Gioan thường hay dùng từ “dấu lạ” để chỉ những việc lạ lùng, những kỳ
công do Ðức Giêsu làm, thí dụ "dấu lạ" đầu tiên tại Cana nước biến
thành rượu rượu. Ðức Giêsu làm các "dấu lạ" có liên quan đến sức
khỏe, đến sự sống của con người: Người cho người con trai sắp chết của một sĩ
quan được lành bệnh trong chương 4,54; Người chữa lành những kẻ đau ốm trong
chương 6,2; Người cho ông Ladarô được sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay
11,1-45; Ðức Giêsu còn tỏ bày uy quyền thiên Chúa hay trên thiên nhiên trong
chương 2,11; 6,10-13.26; trên bệnh tật trong chương 4,46-54; 5,1tt; 6,2; 9,1tt;
trên cái chết trong chương 11,17.23.5.43-44; 12,9.17, và trên tà thần trong
chương 1,5; 12,31; 14,30; 16,11) và tội lỗi trong chương 8,36...
Thánh Gioan trình bày Chúa Giêsu như "Mục Tử nhân lành" trong chương
10,11.14.16. Mục từ nhân lành biết chiên của mình, chương 10,14.27. Mục từ nhân
lành chăm sóc, hướng dẫn và bảo vệ đàn chiên trong chương 10,4. 29 Mục từ nhân
lành ban sự sống dồi dào cho đàn chiên và dẫn đưa những chiên khác về một
đàn chiên duy nhất trong chương 10,10.16
Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha. Nhờ Lời, Cha dựng nên muôn loài. Thiên Chúa
phán một lời liền có ánh sáng. Chúa Giêsu bảo người mù từ bình sinh đi rửa mắt
ở ao Silôe, anh ta đi và được sáng mắt như Phúc Âm Gioan trong Chúa Nhật vừa
qua chương 9,1-41. Lời Giêsu là sự Sáng, là Tình yêu, là Đường đi, là Sự Thật,
là sự sống: Thiên Chúa nắm chủ quyền tuyệt đối trên sự sống. Người đã trao cho
Ðức Giêsu quyền làm chủ sự sống trong chương 5,21; 10,18; 17,2. Ðức Giêsu mang
sự sống nơi mình, Người là sự sống. Vì thế, Người ban sự sống cho ai tin trong
chương 5,21; 6,35.48.51.57.58.63; 10,18. Và phương tiện Người sử dụng để ban sự
sống, ấy là ban Lời của Người, chương 6,68 và trở nên "bánh trường
sinh", chương 6,35.48, bánh đem lại sự sống cho các tín hữu, chương
6,57-58. Vì tin, nên tín hữu "có sự sống" hoặc "có sự sống đời
đời", chương 3,15-16.36; 5,24.40; 6,40.47; 11,26; 20,31. Vì được ăn uống
Mình và Máu Ðức Giêsu, chương 6,53, vì thuộc đoàn chiên của Người, chương
10,10. Nên muốn sống phải ở trong Thầy như cành liền cây, như cành nho liền với
thân nho, chương 15.
Tại sao chỉ có Thiên Chúa bất tử tức hằng sống?
Chỉ có Thiên Chúa tự hữu, không ai tạo dựng Chúa cả. Không được tạo dựng có
nghĩa là không có bắt đầu và không có kết thúc. TC. vượt ngoài hạn định của
thời gian. Mạc Khải về Thiên Chúa tự hữu hay bất tử tìm thấy trong Cựu Ước, như
trong Sáng Thế Ký 21:33, Abraham gọi Chúa là Thiên Chúa bất tử hay trong Xuất
Hành chương 3, Chúa hiện ra với Môsê và bảo “Ta là Đấng mà Ta là”. Chúa Giêsu cũng
cho biết Ngài có trước Abraham” (Gioan 8:58). TC. là Chúa của kẻ sống, nơi Ngài
và ai tin Ngài sẽ không có sự chết (Matcô 12:25-27)
Chúa đã cho bao nhiêu người sống lại từ cõi chết?
Con gái Ông Giairô, trưởng hội đườngtrong Phúc Âm Matcô 5:21-43, Mat. 9:18-26
và Luca 8:40-56.
Con trai bà góa thành Naim, Phúc Âm Luca 7:11-17
Ladarô Betania, bạn Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay (Gio. 11:1-45)
Chính Chúa tự mình sống lại, được tường thuật trong Matthêu 28:8-20; Matcô
16:9-20; Luca 24:13-49; Gioan 20:11-21:25; Tông Đồ Công Vụ 1:1-11 và trong I
Corintô 15:3-9
Chắc chắn có vô số người chết trong thời Chúa Giêsu, tại sao Chúa chỉ cho ba
người sống lại?
Chúa đã làm 10 phép lạ chữa bệnh, 12 phép lạ trừ quỷ và 3 phép lạ phục sinh
người chết. Chắc chắn số người bị quỷ ám, số bệnh nhân và số người chết nhiều
gấp nhiều lần những người được Chúa cứu chữa. Chúa không có ý làm phép lạ để
cứu tất cả, nhưng chỉ đủ để lời giảng “Thời giờ đã điểm và Nước Thiên Chúa đã
gần!” được ứng nghiệm. Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đã đến và ở giữa chúng ta.
Ai tin Chúa, đều được cứu độ và đều được cứu sống. Như vậy, mọi người đều được
chữa bệnh, được trừ quỹ và được phục sinh. Đó là phép lạ.
III. Thực hành P.Â.:
Con người được tạo dựng giống Thiên Chúa: có linh hồn bất tử và tìm cuộc sống
bất tử. Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bị bắt đạo có kể
chuyện Bà Agnes Bưởi (không có trong số 117 thánh tử đạo VN.) như sau: Dưới
thời Minh Vương (1700), có bà Agnes Bưởi bị bắt trong khi đưa xác cha từ Đồng
Nai về quê chôn cất ở Nha Trang. Bà có 2 con nhỏ, 7 và 10 tuổi. Sau khi biết
tin bà bị bắt vì theo đạo, ông chồng đưa hai con đến dụ dỗ bà bỏ đạo để về với
chồng con, bà can đảm nói với chồng: "Này anh, em xin anh đừng khóc lóc
buồn phiền. Chính Chúa thương cho em được ơn trọng như thế này. Ðó là một vinh
dự cho cả anh và các con, sao anh lại khóc. Em xin anh một lần nữa đem hai con
về nhà chăm sóc chúng nó, dậy chúng biết kính sợ Thiên Chúa và nhắc chúng rằng
em vẫn nhớ đến anh và các con trong nước Thiên Ðàng. Em hy vọng sẽ được phúc tử
đạo sớm"
Và bà Agnes đã được toại nguyện, bà được tử đạo
đúng vào ngày lễ Giáng Sinh, 25-12-1700. Qua cái chết tử đạo thật anh hùng, bà
Agnes Bưởi bộc lộ niềm tin vào cuộc sống bất tử, vì con người được dựng nên
giống hình ảnh Thiên chúa, Đấng tự hữu và trường cửu. Dám chết vì Đấng bất tử
thì sẽ được cuộc sống vĩnh hằng.
Hàng ngày chúng ta chứng kiến bao nhiêu cái chết
xảy ra chung quanh. Chúng ta có tin vào cuộc sống bất tử và dám hy sinh cuộc
sống tạm bợ cho cuộc sống vĩnh hằng đời sau không? Nến Phục Sinh được đặt trước
quan tài người chết để nói lên hy vọng phục sinh của mỗi người và niềm tin vào
cuộc sống vĩnh hằng mai sau. Nếu không có niềm tin vào cuộc sống mai sau.
Con người thật vô phúc và cuộc sống hiện tại chỉ là một thời gian để tìm miếng
cơm manh áo và một cổ quan tài.
Cách chia buồn thiết thực nhất với người chết và với gia đình người chết là dự
lễ an táng và xin lễ cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Người Việt Nam có
thói quen xin lễ cầu nguyện cho kẻ chết trong tháng 11, tháng các linh hồn. Các
bạn trẻ nên tiếp tục truyền thống xin lễ cầu cho kẻ chết. Đó là hiếu lễ, là
cách trả ơn đối với người quá cố. Đó cũng là cách thể hiện niềm tin vào sự phục
sinh, vào sự bất tử của linh hồn.
“Lazarô! Hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn
phủ khăn.
Nếu cảnh tượng nầy xảy ra tái diễn hôm nay, tôi không chắc rằng còn ai ở lại để
mà xem Lazarô bước khe khỏi mồ như thế nào. Người chết sống lại có khác nào ma
quỉ hiện hình sẽ gây hoảng sợ. Nhưng Phúc Âm lại không hề đề cập đến kinh hoàng
hay sợ hãi, nhưng người ta còn đến bên để “cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để
anh ấy đi” Lazarô trở lại sinh hoạt bình thường, hàng xóm đến tò mò quan
sát. Tại sao vậy? Không lẽ là chuyện xảy ra thường xuyên?
Chắc chắn không thường xuyên, nhưng người ta
không hốt hoảng chạy trốn như sợ ma, vì Chúa ở vẫn ở đó và đang làm cho việc
phục sinh Lazarô thực hiện. Chúng ta có thể nói: vì sự việc xảy ra ngoài sức
tưởng tượng, làm người ta há hốc miệng, đứng sửng sờ chết trân? Thần quyền của
Thiên Chúa gây sửng sờ cho phàm nhân. Thiên Chúa, Đấng tạo hoá, Đấng làm chủ sự
sống đang ở giữa chúng sinh tội lỗi và hay chết.
Trước năm 1975, thời gian “lên hương” của Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam về mặt bên ngoài như nhiều nhà thờ xây cất, nhiều cơ sở
từ thiện của Công Giáo. Ảnh hưởng của linh mục Giám Mục Công Giáo rất lớn.
Nhiều linh mục có ảnh hưởng trên cấp tướng tá và các ngài phần nhiều di chuyển
bằng phương tiện quân đội: xe jeep hay xe nhà binh… tướng tá bước vào nhà xứ
phải bớt hùng dũng và hiên ngang theo kiểu nhà binh. Vậy mà giáo dân chung
quanh bến Bắc Cần Thơ vẫn sửng sờ và trố mắt ngạc nhiên khi thấy linh mục tiểu
đệ Philipphê Nguyễn kim Điền đi lao động để sống hoà nhập với dân nghèo. Sửng
sớ, thắc mắc và thán phục. Khó đến gần và nhiều khi bỏ chạy cho xa khỏi những
ai cao sang quyền thế. Nhưng nhiều khi thích đến gần để chiêm ngưỡng và sửng sờ
thán phục nhìn con người có nét “không giống người” đang sống giữa xã hội loài
người. Tâm thức con người ngày nay không thích kẻ hay làm giọng bề trên, kẻ cả
hay ra lệnh nhưng người ta thích bề ngang, kẻ bé mọn, khiêm nhường và hoà đồng.
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
Lectio Divina: Chúa Nhật V Mùa Chay (A)
Chúa Nhật, 6 Tháng 4,
2014
Sự sống lại của Lagiarô
Trong “Nhà của người Nghèo Khó”
Chúa Giêsu mặc khải chính Người là nguồn mạch
của sự sống
Ga 11:1-45
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến
giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ
trên đường đi E-mau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong
Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên
Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập
giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống và trong những người chung quanh, nhất là nơi
những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con
để cũng giống như hai môn đệ từ E-mau, chúng con cũng sẽ hưởng được sức mạnh sự
phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện
hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình.
Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho
chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc: Ga 11:1-45
a) Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
Chúng ta hãy đọc bài Tin Mừng, trong đó mô tả
sự sống lại của Lagiarô. Trong lúc đọc, hãy cố gắng theo chân nhóm
người, các môn đệ đi theo Chúa Giêsu từ xứ Galilê đến làng
Bêtania. Bạn phải chăm chú theo dõi tất cả các sự việc, bắt đầu từ
lúc việc em trai các bà Máctha và Maria lâm bệnh được loan báo đến tai Chúa
Giêsu, lúc Người đang ở Galilê, cho đến lúc Lagiarô sống lại.
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ
giúp cho bài đọc cặn kẽ:
Ga 11:1-16: Chúa Giêsu nghe tin và
chuẩn bị lên đường đến Bêtania để làm cho Lagiarô sống lại.
Ga 11:17-31: Chúa Giêsu gặp gỡ hai
chị em Máctha và Maria và lời tuyên xưng đức tin của bà Máctha.
Ga 11:32-35: Phép lạ tuyệt vời việc
sống lại của Lagiarô.
c) Phúc Âm:
1-16: Khi ấy, có một người đau liệt tên là Lagiarô, ở
Bêtania, làng quê của Maria và Máctha. Maria chính là người đã xức
dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Lagiarô
lâm bệnh. Vậy hai chị em sai người đến thưa Chúa Giêsu
rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt.” Nghe tin ấy,
Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng
danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển.” Chúa
Giêsu thương Máctha và em là Maria và Lagiarô. Khi hay tin ông này
đau liệt. Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo
các môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa.” Các môn đệ
thưa: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại
trở về đó ư?” Chúa Giêsu đáp: “Một ngày lại chẳng có mười
hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy
ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng.” Người
nói thế, rồi lại bảo họ: “Lagiarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta
đi đánh thức ông.” Các môn đệ thưa: “Thưa Thầy, nếu ông
ta ngủ, ông sẽ khỏe lại.” Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của
Lagiarô, nhưng các môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ
Chúa Giêsu mới nói rõ: “Lagiarô đã chết. Nhưng Ta mừng
cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta
hãy đi đến nhà ông.” Lúc đó, Tôma – cũng có tên là Điđimô – nói với
đồng bạn: “Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người.”
17-31: Đến nơi, Chúa Giêsu thấy Lagiarô đã được an táng bốn
ngày rồi. Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm
dặm. Nhiều người Do Thái đến nhà Máctha và Maria để an ủi hai bà vì
người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Máctha đi đón Người,
còn Maria vẫn ngồi nhà. Máctha thưa Chúa Giêsu: “Thưa
Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay
cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho
Thầy.” Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại.” Máctha
thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ
sống lại.” Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự
sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà
tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không? Bà
thưa: “Thưa Thầy: vâng con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống đã đến trong thế gian.” Nói xong, bà về gọi Maria, em gái
bà, và nói thầm với em rằng: “Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi
em.” Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì
lúc đó Chúa Giêsu chưa vào làng; Người còn đang đứng ở nơi Máctha đã gặp
Người. Những người Do Thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà,
khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng bà đi ra khóc
ngoài mộ.
32-45: Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người,
bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy
có mặt ở đây, thì em con không chết.” Khi thấy bà khóc nức nở và
những người Do Thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc
động. Người hỏi: “Đã an táng Lagiarô ở
đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà
xem.” Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do Thái liền
nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao.” Nhưng có mấy
kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà
không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động;
Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy
trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá
ra.” Máctha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng
mùi rồi vì đã bốn ngày.” Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng
bảo con rằng: Nếu con tin thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên
Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước
nhìn lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã nhậm lời
con. Con biết: Cha hằng nghe lời con. Nhưng
con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai
con.” Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Lagiarô! Hãy ra
đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh
vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi
cho anh ấy đi.” Một số người Do Thái đến thăm Maria, khi được chứng
kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
3. Giây phút cầu nguyện trong thinh
lặng
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời
sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì đã thu hút sự chú ý của bạn nhất trong câu
chuyện rất chi tiết này? Tại sao?
b) Đâu là điểm trọng tâm và quan trọng nhất của toàn bộ
câu chuyện? Tại sao?
c) Thái độ của các môn đệ ra sao? Họ đã nói
gì và làm gì?
d) Thái độ của bà Máctha và Maria ra sao? Họ
đã nói gì và làm gì?
e) Các người Do Thái có thái độ như thế
nào? Họ đã nói gì, làm gì và dự tính gì?
f) Bạn có thể nhận thấy mình giống ai
nhất: các môn đệ, hai chị em bà Máctha, hay những người Do Thái,
hoặc không một ai trong số những người này?
g) Bạn đã có bao giờ trải qua những lần tuyệt vọng và
hy vọng, sự sống và cái chết lẫn lộn trong suy nghĩ của bạn
chưa? Trong những lần như thế, điều gì đã giúp bạn giữ được đức tin?
h) Ngày nay Lagiarô sống lại như thế nào? Sự
sống lại ngày nay xảy ra như thế nào, cho người nghèo khó sự sống mới như thế
nào?
5. Ý chính của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào bài Tin
Mừng
· Sự khác biệt giữa Tin Mừng của thánh Gioan và
của ba tác giả Tin Mừng kia.
* Một so sánh để hiểu được sự khác
biệt giữa ảnh chụp và ảnh quang tuyến X. Bạn đang tự hỏi trước vẻ
đẹp của thiên nhiên vào một buổi rạng đông. Bạn nhìn và chiêm ngưỡng
những gì mà mắt bạn trông thấy. Đây là một bức ảnh! Bên
cạnh bạn, một người bạn nói với bạn: “Bạn có nhận thấy đám mây nhỏ
đó đã đổi sang một màu rực rỡ như thế nào không? Tình bạn của chúng
ta cũng như thế!” Cô bạn ấy đã nhìn thấy xa hơn những gì đôi mắt ta
đang nhìn thấy. Đây là bức ảnh quang tuyến-X. Tình yêu và
niềm tin vào người khác đã mở rộng tầm mắt của cô
ta. Tin Mừng của thánh Gioan là như thế; đó là Tin Mừng của người
môn đệ yêu dấu. Ông dạy chúng ta cách đọc các quyển Tin Mừng khác và
khám phá ra trong đó một chiều sâu hơn. Ba quyển Tin Mừng kia chụp
lại hình ảnh của các phép lạ. Gioan chụp hình quang tuyến và tiết lộ
ý thức sâu sắc của ông về Thiên Chúa, điều mà chỉ có đức tin mới có thể trông
thấy việc làm của Chúa Thánh Thần (Ga 14:26; 16:19).
* Ví dụ, các sách Phúc Âm Nhất Lãm đề
cập đến hai mươi tám phép lạ khác nhau. Phúc Âm của thánh
Gioan chỉ đề cập đến bảy và ông gọi đó là “những dấu lạ”. Trong số
bảy dấu lạ, chỉ có ba là được tìm thấy trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm. Còn
bốn dấu lạ kia được dành riêng trong Tin Mừng của Gioan: tiệc cưới ở
Cana (Ga 2:1-11), việc chữa lành người bệnh tê liệt tại hồ Silôe (Ga 5:1-9),
việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9:1-7), và sự sống lại của Lagiarô
(Ga 11:1-44). Trong cách ông trình bày những “dấu lạ” này, Gioan
không chỉ đơn giản thuật lại phép lạ. Ông khai triển các sự kiện để
chúng biểu lộ Chúa Giêsu như là sự mặc khải của Chúa Cha. Tin Mừng
của thánh Gioan cố gắng soi sáng lời nói của Chúa Giêsu: “Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Khi chúng ta soi lên ánh sáng hình
quang tuyến-X của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan, chúng ta sẽ thấy
diện mạo của Chúa Cha.
· Sự sống lại của Lagiarô trong giản đồ
của Tin Mừng theo thánh Gioan
* Giản đồ của bảy dấu lạ:
Dấu lạ thứ nhất: tiệc cưới tại Cana
(Ga 2:1-12)
Dấu lạ thứ hai: chữa lành con của một sĩ quan
cận vệ nhà vua (Ga 4:46-54)
Dấu lạ thứ ba: chữa lành người bị
bệnh bất toại (Ga 5:1-18)
Dấu lạ thứ tư: hóa bánh ra nhiều
(Ga 6:1-15)
Dấu lạ thứ năm: Chúa Giêsu đi trên
nước (Ga 6:16-21)
Dấu lạ thứ sáu: chữa lành người mù
từ thuở mới sinh (Ga 9:1-40)
Dấu lạ thứ bảy: Lagiarô sống lại
(Ga 11:1-44)
Dấu lạ vĩ đại là GIỜ KHẮC vinh quang của Chúa
Giêsu.
* Bảy dấu lạ là bảy dấu biểu hiện trước sự vinh
quang của Chúa Giêsu sẽ xảy ra tại thời điểm cuộc thương khó, cái chết và sự
phục sinh của Người. Mỗi dấu lạ tượng trưng cho một
khía cạnh về ý nghĩa của sự thương khó, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu
vì chúng ta. Đó là sự “suy gẫm ngày đêm” qua Lectio Divina hay
Đọc Sách Thánh Trong Tinh Thần Cầu Nguyện mà chúng
ta sẽ khám phá ra ý nghĩa này, nó sẽ làm phong phú thêm cho
đời sống chúng ta.
* Sự phục sinh của Lagiarô, dấu lạ thứ bảy, mở
đường cho Giờ sắp đến, giờ Con Người được tôn vinhdiễn ra qua cái
chết (Ga 12:23; 17:1). Một trong những lý do tại sao Đức Giêsu bị
lên án sẽ là sự phục sinh của Lagiarô (Ga 11:50; 12:10). Vì thế dấu
lạ thứ bảy sẽ là dịp để làm vinh danh Thiên Chúa (Ga
11:4): “Bệnh này không đến nỗi chết nhưng để làm sáng danh Thiên
Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”. Các môn đệ không
thể hiểu được điều này (Ga 11:6-8). Nhưng cho dù họ không hiểu, họ
sẵn sàng để đi và cùng chết với Chúa Giêsu (Ga 11:16). Sự hiểu biết
của họ tuy mơ hồ, nhưng đức tin của họ rõ ràng.
· Ý nghĩa sự sống lại của Lazarô
* Tại làng Bêtania: Mọi việc xảy ra tại Bêtania, một
ngôi làng nhỏ bé ở chân Núi Cây Dầu, gần thành Giêrusalem. Trong câu
chuyện, gia đình của Lagiarô, nơi Chúa Giêsu thường lui tới, là một tấm gương
cho cộng đoàn của người Môn Đệ Chúa Yêu vào cuối thế kỷ đầu
tiên. Đây cũng là tấm gương cho các cộng đoàn chúng
ta. Bêtania có nghĩa là “Nhà của Người Nghèo”. Máctha có
nghĩa là “Bà Quản” (điều hợp viên); người phụ nữ phối hợp trong cộng
đoàn. Lagiarô nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ” cộng đoàn người
nghèo khó, đã trông mong tất cả từ Thiên Chúa. Maria nghĩa là “người
thân yêu của Thiên Chúa”, hình ảnh của cộng đoàn. Câu chuyện phục sinh
của Lagiarô muốn truyền đạt điều chắc chắn này: Chúa Giêsu mang lại sự
sống cho cộng đoàn người nghèo; Người là nguồn gốc của sự sống cho những ai tin
vào Người.
* Giữa sự sống và cái chết: Lagiarô đã chết. Nhiều
người Do Thái đến nhà Máctha và Maria để an ủi hai bà vì người em
đã chết. Những người đại diện Cựu Ước không mang lại sự sống
mới. Họ chỉ có thể an ủi. Chúa Giêsu là Đấng mang lại
cuộc sống mới! Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chính những người Do
Thái cũng là những kẻ muốn giết Chúa Giêsu (Ga 10:31). Vì thế, chúng
ta có một bên là mối đe dọa muốn sát hại Chúa Giêsu, và bên kia là Chúa Giêsu
đến để chiến thắng sự chết! Trong bối cảnh của cuộc xung đột giữa sự
sống và cái chết là dấu lạ thứ bảy việc phục sinh của Lagiarô, về sự
chiến thắng cái chết, đã xảy ra.
* Hai cách tin vào sự sống lại: Trung tâm điểm là sự tương phản giữa phương cách cũ tin vào việc
sống lại vào ngày sau hết và đường hướng mới được mang tới bởi Chúa Giêsu cho
đến ngày nay, là chinh phục cái chết. Bà Máctha, những
người Biệt Phái và phần lớn dân chúng đã tin có sự sống lại (Cv 23:6-10; Mc
:12:18). Họ đã tin, nhưng không tỏ lộ nó, vì đức tin của họ là chỉ
tin rằng có sự sống lại vào ngày tận thế và không tin có sự sống lại tại đây và
bây giờ. Sự sống lại ấy đã không làm mới đời sống. Một mắt xích
đã bị thiếu. Cuộc sống mới của sự phục sinh đến cùng với Chúa Giêsu.
* Lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu và tuyên
xưng đức tin vào sự sống: Chúa
Giêsu đòi hỏi bàMáctha thực hiện điều đó. Nếu chỉ
tin vào sự Phục Sinh ở ngày tận thế thì chưa đủ, chúng ta phải tin tưởng rằng
Sự Phục Sinh đã hiện diện ở đây hôm nay trong con người của Chúa Giêsu và trong
những ai tin vào Người. Cái chết không còn làm chủ những người ấy,
bởi vì Chúa Giêsu là “sự sống lại và là sự sống”. Và, bà Máctha, mặc
dù vẫn chưa nhìn thấy một dấu hiệu chắc chắn về sự sống lại của Lagiarô, đã
tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin
Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian này.”
* Con người, rất con người, bình đẳng với chúng
ta trong mọi sự: Sau khi
tuyên xưng đức tin, bà Máctha về gọi Maria, em gái
bà. Maria đi đến gặp Chúa. Bà lặp lại câu nói của bà
Máctha: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây, thì em con không
chết” (Ga 11:21). Bà Maria khóc, mọi người theo bà cũng
khóc. Chúa Giêsu xúc động. Khi người nghèo khóc, Chúa
Giêsu xúc động và rơi lệ. Khi thấy Chúa Giêsu khóc, những người Do
Thái đã nói: “Kìa, xem ông ấy thương Lagiarô biết bao!” Đây
là đặc điểm của cộng đoàn người Môn Đệ Chúa Yêu: tình yêu giữa Chúa
Giêsu và các thành viên của cộng đoàn. Một số người không tin và một số
vẫn còn hồ nghi: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không
thể làm cho làm được cho người này khỏi chết ư?” Lẩn thứ ba, Chúa
Giêsu đã thổn thức (Ga 11:33, 35, 38). Vì thế, thánh Gioan nhấn mạnh
đến bản tính loài người của Chúa Giêsu với những người mà vào cuối thế kỷ thứ
nhất, đã thiêng liêng hóa đức tin và phủ nhận bản tính con người
của Chúa Giêsu.
* Đối với chúng ta, chỉ còn việc đẩy tảng đá ra
để Thiên Chúa có thể ban sự sống lại cho chúng ta: Chúa Giêsu bảo hãy đẩy tảng đá
ra. Bà Máctha thốt lên: “Thưa Thầy, đã nặng
mùi rồi vì đã bốn ngày!” Một lần nữa, Chúa Giêsu thách đố bà nhớ lại đức
tin vào sự phục sinh, tại đây và lúc này, như một dấu chỉ sự vinh quang của
Thiên Chúa: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin thì
con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất
tảng đá ra. Đứng trước ngôi mộ được mở và trước sự nghi ngờ của những
người đang đứng đó, Chúa Giêsu ngước nhìn lên Chúa Cha. Trước hết,
Người tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời
Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con”. Cha của Chúa Giêsu
cũng là Thiên Chúa Đấng luôn nhậm lời kêu xin của người nghèo (Es 2:24;
3:7). Chúa Giêsu biết Chúa Cha và tin tưởng nơi
Người. Nhưng bây giờ Người xin một dấu lạ vì những người đứng quanh
đó, để họ có thể tin rằng Người, Chúa Giêsu, được Chúa Cha sai
đến. Sau đó, Người kêu lớn tiếng: “Lagiarô! Hãy
ra đây!” Và Lagiarô bước ra. Đây là chiến thắng của sự
sống đối với cái chết, của đức tin đối với những kẻ không tin! Một
người nông dân trong đất Ba-Tây đã nói: “Điều tùy thuộc vào chúng ta
là phải cất tảng đá ra! Để Thiên Chúa làm sống lại cộng
đoàn. Có những người không muốn đẩy tảng đá đi, và do đó, trong cộng
đoàn của họ không có sự sống!”
6. Thánh Vịnh 16 (15):
Muôn đời Thiên Chúa là phần gia nghiệp của
chúng con
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Con thưa cùng CHÚA: "Ngài là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? "
Còn thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ,
vẫn gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo.
Máu tế thần, con quyết chẳng dâng,
tên của thần, môi con không tụng niệm!
Lạy CHÚA, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn.
Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
7. Lời nguyện kết
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Con thưa cùng CHÚA: "Ngài là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? "
Còn thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ,
vẫn gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo.
Máu tế thần, con quyết chẳng dâng,
tên của thần, môi con không tụng niệm!
Lạy CHÚA, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn.
Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì
những Lời của Chúa đã trao ban để giúp chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý
của Chúa Cha. Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho những việc chúng
con đang làm và ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có thể thực thi những
Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Chúng con nguyện xin được giống như
Đức Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với
Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Người bạn.
Có một câu chuyện huyền
thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy
thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người
con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ,
nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày
phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi
thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ
can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta
đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông
tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp
của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền
bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con
thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong
ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc
trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút
mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi
xuống con thác chung với nhau!
Thiên Chúa cũng không thể
chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã
chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Hôm nay trong bài Phúc âm,
Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và
thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria
khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng
và xao xuyến”.
Với chủ đề “Thiên Chúa là
Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu
là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và
thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và
đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và
Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ
nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được
cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu
trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng:
“Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Phải, cuộc sống nhân sinh
bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho
Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai
sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất
mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng
chúng ta phải hy vọng vào Người.
Vào thời Chúa Giêsu, những
người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các
người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các
người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được
Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải
Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét