11/02/2018
Chúa Nhật tuần 6
Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Lv 13, 1-2.
44-46
"Người phong
cùi phải ở riêng ngoài trại".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: "Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường,
hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến
tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.
"Vậy ai mắc bệnh
phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy
áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó
còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5.
11
Ðáp: Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ con khỏi điều nguy
khổ (c. 7).
Xướng: 1) Phúc thay
người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay
người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian!
- Ðáp.
2) Tôi xưng ra cùng
Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói:
"Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi
cho con". - Ðáp.
3) Chư vị hiền nhân,
hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 31
- 11, 1
"Anh em hãy
noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, dầu
anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự
cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội
thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người
trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều
người, để họ được cứu rỗi. Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức
Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy". - Alleluia
Phúc Âm: Mc 1, 40-45
"Bệnh cùi biến
mất và người ấy được sạch".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có một người bệnh
cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt
trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi
biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn
rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng
tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu
không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những
nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Trở nên sạch
nhờ mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô
Ngày nay, nhờ lòng bác
ái và khoa học tiến bộ, bệnh phung hủi không còn ghê rợn như ngày xưa. Tuy
nhiên nó vẫn còn là một bệnh cần được nhiều lòng thương xót. Thành ra, sau khi
nghe những bài Kinh Thánh hôm nay, tiên vàn chúng ta phải nhớ tới trại cùi nằm
trong ranh giới của giáo phận chúng ta. Và chúng ta phải biết nhắc nhở nhau
chia sẻ lòng thương xót với những anh chị em đang bị thứ bệnh ghê gớm đó.
Nhưng dù rất hợp lý và
khẩn thiết, quyết tâm cụ thể đó vẫn không phải là mục đích huấn giáo của các
bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Cao điểm của lời giáo huấn này nằm trong bài Tin Mừng,
mà lại trích sách Lêvi chỉ ra như những lời dẫn nhập và bài trích thư Phaolô
như chỉ muốn đưa ra một áp dụng thực hành. Vậy trước hết chúng ta hãy trở lại
bài sách Lêvi để dễ hiểu hơn bài Tin Mừng.
1. Phung Hủi Là Thứ Bệnh
Nan Trị
Sách Lêvi là tác phẩm
thứ ba trong Bộ Cựu Ước, đi sau quyển Khởi nguyên và sách Xuất hành. Nó muốn tiếp
nối quyển sách thứ hai này. Thật vậy, sách Xuất hành thuật lại cho chúng ta biết
việc Chúa cứu dân xuất khỏi Aicập và hành trình khoảng 40 năm nơi sa mạc để biến
Israel làm dân của Chúa vì Chúa là Thiên Chúa của dân. Chúa lập giao ước với
dân và nhận đến ngự nơi lều giao ước để làm chứng Người muốn mật thiết ở giữa
dân. Sách Lêvi muốn viết tiếp vào đó và nói cho dân biết những điều phải giữ để
lều giao ước thật sự trở nên nơi gặp gỡ giữa Chúa và dân, giữa Thiên Chúa và
loài người. Muốn được như vậy, lều giao ước phải trở thành một thứ đền thờ. Dân
phải đến đây dâng lễ. Và ở đó phải có hàng tư tế hẳn hoi. Rồi hết mọi người phải
cẩn thận tuân thủ những điều cấm kỵ liên quan tới vấn đề sạch và dơ, thiêng và
tục, để dân được thánh thiện như Chúa là Ðấng Thánh. Ðó là những chủ đề của
sách Lêvi; tất cả đều có hệ và đều tùy thuộc ở hàng tư tế. Thế nên, người ta đã
lấy tên Lêvi, tên của tộc tư tế trong dân Chúa, đặt cho quyển sách này.
Ðoạn văn đọc trong
thánh lễ hôm nay nằm ở phần nói về sạch và dơ, thiêng và tục.
Tại sao vậy?
Ðối với tâm lý người
xưa nói chung và người Dothái nói riêng, bệnh tật nếu không phải là hình phạt
do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào bệnh tật cũng
đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê người ta lại càng phải thận trọng, đề
phòng.
Ở đất Dothái thời bấy
giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phung hủi. Nó vừa ghê rợn và dễ lây.
Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với thứ bệnh này. Và vì Dothái là xã hội
thần quyền, nên luật pháp đã mặc hình thức tôn giáo như chúng ta thấy trong bài
sách Lêvi hôm nay.
Các thầy tư tế phải thẩm
định ai là người đã mắc bệnh phung hủi. Lập tức nó phải mặc áo rách rưới, không
được chải đầu, không được cạo râu và phải tru trếu than khóc, làm chứng nó đã bị
Chúa phạt và ma quỷ đang hoành hành trên thân xác nó. Rồi nó phải đi khỏi nhà,
đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được
để cho ai đến gần. Nhỡ có người nào không biết mà tiến lại thì nó phải hô lên:
"dơ, dơ", để cho họ biết mà lánh đi kẻo bị ô nhiễm. Bất hạnh cho ai bị
lây bẩn như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước
khi làm lễ thanh tẩy.
Còn chính kẻ phung hủi
còn có hy vọng nào không? Dĩ nhiên y cố gắng chạy chữa. Cũng có trường hợp chữa
được. Nói đúng hơn, việc chẩn bệnh ngày xưa không khá. Có nhiều trường hợp khỏi,
chỉ vì thật sự đó không phải là bệnh phung. Khi thấy thân xác lành lại, người
ta sẽ đến trình diện các tư tế và xin khám nghiệm. Nếu đúng đã hết bệnh, họ sẽ
dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp cho một giấy chứng nhận, phục hồi
quyền hiệp thông với xã hội.
Sách Lêvi nói tỉ mỉ những
điều này, vì hàng tư tế có trách nhiệm đặc biệt trông coi vấn đề sạch và dơ,
thiêng và tục, thánh và tội. Thế mà không thứ bệnh nào dơ như phung hủi. Kẻ mắc
thứ bệnh này trở thành kẻ bất hạnh nhất trên đời. Isaia khi nói về người tôi tớ
đau khổ cũng không biết mô tả thế nào hơn là hình dung người giống như kẻ bị
phung hủi. Nhưng có điều khác lạ và mầu nhiệm, là chính các vết thương của Người
sẽ chữa lành chúng ta hết thảy. Chắc chắn Isaia đã không thể tự mình viết ra
như vậy.
Thánh Thần đã dùng ông
để nói tiên tri về cuộc tử nạn cứu thế của Ðức Kitô. Nhưng chẳng ai đã hiểu được
mầu nhiệm ấy. Phải đợi chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mạc khải từ từ. Và
ngày hôm nay, trong bài Tin Mừng Marcô, Người bắt đầu làm công việc ấy. Chúng ta
nhớ những lời sách Lêvi để hiểu bài Tin Mừng.
2. Ðức Yêsu Chữa Người
Phung Hủi
Thánh Marcô đã kể chuyện
một cách đột ngột. Người thấy một kẻ phung hủi đến gần Ðức Yêsu, khẩn khoản quỳ
xuống xin Người chữa mình sạch. Thánh Marcô không nói rõ việc này xảy ra khi
nào và ở đâu? Theo văn mạch, chúng ta đoán đã xảy ra ở Galilêa khi Ðức Yêsu đi
giảng đạo trong vùng đó. Nhưng điều đáng lấy làm lạ là tại sao lại có thể xảy
ra một truyện như thế? Kẻ mắc bệnh phung kia ở đâu đến, vì chắc chắn y không được
ở gần những chỗ đi lại? Hay là hôm ấy Ðức Yêsu đã đi đến một nơi hẻo lánh để cầu
nguyện và anh ta đã dám lại gần? Dù sao anh cũng đã vi phạm pháp luật. Nói đúng
hơn, những hiểu biết của anh về Ðức Yêsu đã khiến anh tin Người; và vì tin, anh
không sợ luật pháp. Anh tin nếu Người muốn, Người sẽ làm cho anh sạch. Có lẽ đối
với anh, sạch hay khỏi bệnh cũng là một. Nhưng Marcô đã muốn dùng chữ sạch để gợi
lên ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn. Và như vậy để làm nổi bật ý nghĩa mới lạ trong
thái độ của Ðức Yêsu.
Người không ghê rợn
theo bản năng tự nhiên khi nhìn thấy kẻ phung hủi. Người càng không bỏ chạy
theo luật "dơ và sạch" thời bấy giờ. Người thương kẻ ấy, giơ tay đụng
vào anh và bảo: "Ta muốn, hãy được sạch". Người chỉ làm có vậy thôi,
nhưng hành động này thật lớn lao. Nó làm tan biến ngay một thứ bệnh nan trị;
nhưng nhất là nó đã làm cho cả một hệ thống tôn giáo xã hội chặt chẽ và tỉ mỉ
trở nên như mây khói.
Sách Lêvi và hàng tư tế
Dothái vất vả bảo vệ luật "dơ và sạch", thiêng và tục. Và nỗ lực đó
đã kiên cố qua nhiều thời đại. Thế mà trong chốc lát, chỉ bằng một cái nhìn, một
cử chỉ, một lời nói, Yêsu thành Nadarét, đã hủy bỏ mau lẹ và dễ dàng. Không phải
Người đã bực tức không giữ luật, vì kẻ bất mãn nào cũng làm được như thế. Nhưng
việc mà không ai làm được thì Người đã làm. Người hủy bỏ luật bằng cách làm cho
nó hết đối tượng. Người làm cho "dơ" trở nên "sạch" khiến
luật "sạch và dơ" từ nay không còn đối tượng và lý do tồn tại nữa. Và
khi làm như vậy, Người đã ban quyền sống cho kẻ bị vạ, kết nạp lại con người
tuyệt thông, cứu vớt kẻ bị hư mất.
Câu chuyện chữa kẻ bị
phung hủi này có nhiều ý nghĩa sâu xa. Nó không kém gì việc làm cho kẻ chết sống
lại. Nó diễn tả sức mạnh cứu thế của Ðức Kitô. Thế nên, làm phép lạ này xong, Ðức
Yêsu như giựt mình nhớ rằng chưa đến lúc Người ở trên thập giá, tức là chưa đến
lúc Người thanh tẩy và rửa sạch nhân loại tội lỗi trong máu thánh... thế nên
Người nghiêm khắc răn bảo kẻ vừa được chữa sạch: không được đem chuyện này nói
với ai, nhưng phải đi trình diện với các tư tế và dâng lễ thanh tẩy như Luật dạy,
để làm chứng cho họ thấy việc Người làm.
Một đàng, Người dạy
không được đem sự việc nói cho ai biết, bởi vì đây là hành vi có ý nghĩa cứu thế
mà người ta chỉ hiểu được khi Ðức Kitô đã ở trên thánh giá. Nói ra bây giờ, người
ta không hiểu và chỉ sẽ coi đây là một phép lạ, khiến họ sẽ lầm tưởng Ðức Yêsu
là con người cao tay làm được nhiều phù phép. Nhưng đàng khác kẻ được chữa khỏi
kia phải đi vào xã hội và như vậy cần phải có giấy chứng nhận theo luật. Anh ta
phải làm công việc này, thì Người nhờ luôn anh ta đến "làm chứng" cho
Người ở trước mặt hàng tư tế, hầu họ thấy rằng Nước Trời đã đến rồi vì đã có
người làm được những việc như vậy.
Nhưng có thể nói Ðức
Yêsu đã không thành công trong việc dặn bảo này. Kẻ được khỏi đã đi phao tin mọi
nơi đến nỗi khắp nơi người ta tuốn đến tìm Người, cả khi Người lánh đi ẩn thân
nơi vắng vẻ. Còn các tư tế, nghe báo cáo về sự việc, họ không nhận ra Nước Trời
đã đến mà chỉ thấy uy quyền của họ bị lung lay. Họ còn "ngồi" đấy để
làm gì khi chức năng phân biệt "sạch và dơ" không còn đối tượng nữa?
Thành ra họ phải tìm cách chấm dứt những việc chữa sạch như vậy.
Chúng ta có thể cười họ
và tưởng rằng sau khi Ðức Yêsu đã chịu chết trên thập giá thì người ta đã hiểu
rõ giá trị của phép lạ chữa kẻ phung hủi kia. Sự thật không đơn giản như vậy.
Bài thư Phaolô làm một bằng chứng.
3. Chúng Ta Hãy Bắt
Chước Ðức Yêsu
Thánh Tông đồ viết cho
người Côrintô. Họ đã tin đạo và chịu phép rửa; tức là họ đã nên sạch nhờ mầu
nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Thế mà họ vẫn còn cái tâm lý "sạch và dơ",
làm như thế máu Ðức Kitô chưa rửa sạch được tất cả, và vẫn còn có những sự bên
ngoài làm dơ nhớp tâm hồn đã được ơn thanh tẩy.
Ðặc biệt họ bảo thịt
cúng sẽ làm bẩn linh hồn, khiến giáo đoàn Côrintô xôn xao. Người sợ thì giữ;
người khác không sợ thì cứ ăn, nhưng lại không biết giải thích thái độ của mình
và hơn nữa còn tỏ ra khinh thị và chọc tức người ta. Thánh Phaolô phải gửi thư
can thiệp, giúp đỡ đàn chiên. Ngài khẳng định ngẫu tượng là giả trá, nên thịt
cúng cũng chẳng khác gì thịt thường. Có ăn cũng chẳng sao. Tuy nhiên chính cách
ăn có thể là không tốt vì để lộ ra những cảm nghĩ không sạch của tâm hồn mình.
Như lời Ðức Yêsu đã nói: không phải của ăn của uống bên ngoài có thể làm dơ bẩn
con người; nhưng ngược lại chính tâm tư bẩn thỉu của tâm hồn làm dơ bẩn hành động
của người ta.
Vậy nguyên tắc chung
là khi ăn, khi uống hay khi làm bất cứ việc gì, chúng ta hãy làm mọi việc cho
vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên cớ cho ai sa ngã phạm tội, một trong mọi
sự vào đối với mọi người chúng ta phải có lòng bác ái, không tìm tư lợi nhưng
phải giúp người ta được rỗi. Rồi thánh tông đồ kết luận: "Anh em hãy bắt
chước tôi như tôi bắt chước Ðức Kitô".
Thế là để giải quyết vấn
đề sạch và dơ, thiêng và tục cho thời đại của người, thánh Phaolô đã bảo mọi
người noi gương Chúa Yêsu. Bài Tin Mừng hôm nay vừa cho chúng ta thấy Chúa đã
giải quyết vấn đề bằng tình thương. Vì thương người bị bệnh phung, Người đã chữa
anh ta. Vì thương những người khác, Người bảo anh đừng đi phao tin cho ai. Vì
thương hàng tư tế thời bấy giờ, Người bảo anh đến làm chứng về Người ở trước mặt
họ. Tình thương của Người là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy người ta tận cội
rễ, tức là rửa sạch tâm hồn và ban cho người ta một sự sống mới, qua mầu nhiệm
thánh giá. Chỉ có hy sinh với đấng chết trên thánh giá mới rửa sạch được con
người và làm cho họ nên trong sạch và thánh thiện thật. Do đó vấn đề sạch và
dơ, thiêng và tục chỉ được giải quyết nhờ mầu nhiệm thánh giá.
Vấn đề này chưa hoàn
toàn biến mất ở thời đại ta. Người theo khuynh hướng này, kẻ theo khuynh hướng
khác. Người cho đây là đạo và kia là tục; kẻ lại bảo kia mới sạch, còn đây thì
dơ. Mỗi người biện minh cho thái độ của mình. Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy bắt
chước Ðức Kitô, hãy hy sinh tư lợi để giúp người ta nên thánh, hãy làm tất cả
cho vinh danh Thiên Chúa. Tất cả những lời khuyên này, giờ đây ở trước mắt
chúng ta. Chúa Yêsu sẽ hiện diện để chúng ta bắt chước Người. Người không làm
gì khác chính việc hy sinh mạng sống để cứu độ chúng ta và làm vinh danh Thiên
Chúa. Hành vi đó rửa sạch hơn hết, và đem lại ơn thánh thiện hơn cả. Chúng ta
muốn làm cho tâm hồn sạch, muốn làm cho xã hội sạch, chúng ta hãy bắt chước
Chúa Yêsu, hy sinh mình cho sự rỗi của mọi người và vinh quang của Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 6 Thường Niên, Năm
B
Bài đọc: Lev
13:1-2, 45-46; I Cor 10:31-11:1; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nguy hiểm của bệnh phong cùi và tội lỗi
Bệnh phong cùi là chứng bệnh ghê tởm và nguy hiểm nhất trong các chứng bệnh của
con người. Sức tàn phá của nó không những lấy đi tất cả các vẻ đẹp của thân thể,
mà còn làm thiệt hại đến tòan bộ phẩm giá con người. Người cùi không những chịu
bệnh thể lý, các chi thể từ từ rụng dần cho đến ngày chết; mà còn phải đương đầu
với các chứng bệnh tâm lý. Họ sống cô đơn vì phải sống cách biệt với thế giới
con người. Họ cảm thấy tủi nhục vì bị khinh thường và coi như là nguyên nhân
làm mọi người ra ô uế. Họ sống trong tuyệt vọng, vì sống như không có ngày mai.
Một chứng bịnh nan y như thế, nhưng vẫn không thể so sánh với một chứng bệnh
kinh khủng hơn, không những chỉ tàn phá thân xác, mà còn giết chết linh hồn con
người: đó là tội lỗi. Có những tội lỗi xem bề ngòai rất tầm thường, không đáng
để ý; nhưng sức phá của nó còn kinh khủng và nguy hiểm hơn bệnh phong cùi.
Trong Sách Các Vua, quyển II, có thuật lại bệnh tham tiền của Gehazi, đầy tớ của
Tiên-tri Elisha: Khi thấy thầy mình từ chối không chịu nhận bất cứ lễ vật gì do
Tướng Naaman, người Syria dâng tặng, ông vội bí mật lấy ngựa chạy theo và mạo
danh nghĩa thầy mình để xin một số của cải. Hành động của ông không thóat khỏi
mắt của thầy, và kết quả là ông không những mắc bệnh phong cùi của Naaman, mà
còn truyền lại cho con cháu (2 Kgs 5:20-27).
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những đau khổ của các chứng bệnh nguy hiểm
này, và sự đặc biệt quan tâm của Thiên Chúa cho các bệnh nhân. Trong Bài Đọc I,
tác-giả Sách Levi liệt kê những gì người phong cùi phải chịu. Trong Bài Đọc II,
Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô bắt chước thánh nhân như ngài đã bắt
chước Đức Kitô: đó là phải cố gắng làm mọi sự cho mọi người, sao cho tất cả đạt
tới ơn Cứu Độ. Trong Phúc Âm, người phong cùi đến quì trước Chúa Giêsu và xin:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giêsu động
lòng thương và đưa tay chạm đến anh, lập tức chứng phong cùi biến mất và anh được
lành bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những bổn phận của bệnh nhân phong cùi
Sách Levi dành 2 chương dài để nói tới bệnh phong cùi. Trình thuật hôm nay chỉ
nhắc tới 2 câu đầu và 2 câu cuối trong Chương 13. Người mắc bệnh phong cùi có bổn
phận:
(1) Phải trình diện các tư tế: Đức Chúa phán với ông Moses và ông Aaron:
"Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở
thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aaron hoặc
với một trong các tư tế, con của Aaron.” Ngày xưa, không có bác sĩ chuyên môn
như chúng ta hiện giờ, và bệnh phong cùi được xếp lọai những con người không
thanh sạch để dâng của lễ cho Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao bệnh nhân phải đến
với các tư tế để được khám bệnh, theo dõi, và chứng nhận nếu được sạch.
(2) Phải loan tin cho mọi người biết mình có bệnh: Cho đến thế kỷ 20, bệnh
phong cùi vẫn được xem là bệnh hay lây; vì thế, phải ngăn ngừa mọi tiếp xúc giữa
bệnh nhân và những người lành mạnh. Hơn nữa, Luật Do-Thái coi người phong cùi
không những bệnh về phần xác, mà còn không thanh sạch phần linh hồn. Bất cứ ai
vô tình chạm vào họ, cũng trở nên không sạch, và bị coi không xứng đáng dâng của
lễ. Đó là lý do tại sao họ phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu, và kêu lên Ô-uế!
Ô-uế! để mọi người tránh qua đường mà đi. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi đau đớn
của một con người phải thi hành những lề luật này!
(3) Phải sống cách biệt với những người khác: “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế;
nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” Ngày xưa,
họ không có tổ chức y-tế như chúng ta ngày nay; vì thế Luật đòi những bệnh nhân
phong cùi phải sống ngòai trại, cách biệt với tất cả những người khác. Họ không
được vào trại bao lâu còn mắc bệnh.
2/ Bài đọc II: Anh em hãy
làm tất cả mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa.
Bài đọc ngắn ngủi của Thánh Phaolô có thể qui về 3 điểm
chính:
(1) Làm vinh danh Thiên Chúa: Thánh Phaolô khuyên: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay
làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.” Vinh danh
Thiên Chúa là làm cho mọi người nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và tin vào
Ngài.
Tại sao chúng ta phải làm vinh danh Thiên Chúa? Trước hết, qua BT Rửa Tội,
chúng ta chính thức trở thành con cái của Thiên Chúa. Đã là con phải có bổn phận
làm vinh danh Cha. Chúng ta phải ăn ở làm sao cho mọi người nhận biết Cha chúng
ta trên trời là Đấng Tốt Lành và yêu thương, để họ cũng tin vào Ngài. Thứ đến,
chúng ta cũng là con cái trong Giáo Hội. Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân của
Công-đồng Vativan II định nghĩa: Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu Độ; và bổn phận
của những người trong Giáo Hội là làm tất cả những gì cho mọi người đạt tới ơn
Cứu Độ.
(2) Bổn phận phải làm gương tốt và tránh gương xấu: Thánh Phaolô khuyên: “Anh
em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-Thái hay Dân Ngoại, hoặc
cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng
làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người,
để họ được cứu độ.” Một cách làm gương sáng cho mọi người là sống cuộc đời hòan
thiện như Chúa Giêsu khuyên các môn-đệ: “Anh em hãy trở nên hòan thiện như Cha
anh em trên trời là Đấng hòan thiện; để mọi người nhìn thấy việc anh em làm và
ngợi khen Thiên Chúa.”
(3) Noi gương người đi trước: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức
Kitô.” Người tín hữu có một gương mẫu tòan hảo là Đức Kitô. Chúng ta không cần
tìm một mẫu người lý tưởng khác; chỉ cần làm những gì Chúa Giêsu đã làm và dạy
chúng ta làm theo. Ví dụ, về bài học yêu thương, Chúa dạy: “Như Cha đã yêu Thầy,
Thầy cũng yêu anh em ... Như Thầy yêu anh em thể nào, anh em cũng phải yêu nhau
như vậy.” Lời khuyên của Thánh Phaolô không vô ích, chúng ta thường được đánh động
bởi gương sáng của những người sống chung quanh chúng ta.
3/ Phúc Âm: "Tôi muốn, anh được sạch!"
3.1/ Người phong hủi tôn
kính thánh ý Thiên Chúa: Chịu đựng
hòan cảnh cay nghiệt của cuộc đời như thế, anh vẫn xin vâng theo thánh ý Thiên
Chúa, khi cầu xin với Chúa Giêsu “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Anh biết Thiên Chúa tạo dựng mọi sự chỉ vì ý Ngài muốn như thế (Sách STK). Người
phong cùi không hồ nghi quyền năng Thiên Chúa. Anh biết nếu Thiên Chúa muốn,
Ngài sẽ làm anh được sạch. Thiên Chúa biết những gì tốt cho con người; con người
không biết những gì tốt cho mình. Vì thế, con người cần xin được theo ý Thiên
Chúa, chứ không xin theo ý của mình.
3.2/ Lòng thương xót của
Chúa Giêsu: Người chạnh lòng thương giơ tay
đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi
biến khỏi anh, và anh được sạch. Đụng đến người cùi là trở thành ô uế giống như
họ. Chúa Giêsu đã để mình trở thành ô uế giống như anh phong cùi. Theo Sách
Levi, Chúa không được vào Đền Thờ hay các hội-đường để làm các việc phụng vụ.
Sách Tiên Tri Isaiah nói cho chúng ta biết trước về tình thương của Đức Kitô,
Người Tôi Trung của Thiên Chúa: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ
triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị
chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. 4 Sự thật, chính
người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng
hoạ, phải nhục nhã ê chề. 5 Chính người đã bị đâm vì chúng
ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng
ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Isa
53:3-5).
3.3/ Phong cùi phần xác
và tội lỗi phần linh hồn: Một sự so sánh giữa
2 cơn bệnh này cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của chúng:
- Điểm giống nhau: Cả hai đều lan truyền mau lẹ và gây thiệt hại nhanh chóng. Cả
hai đều là những chứng bệnh nan y và nguy hiểm đến tính mạng con người. Cả hai
đều phải sống cách biệt với những người lành mạnh: người phong cùi phải sống
ngòai thành phố, tội phạm được giam giữ trong tù.
- Điểm khác nhau: Phong cùi phần xác không nguy hiểm bằng phong cùi phần linh hồn:
đó là các tội lỗi của con người.
(1) Con người dễ nhận ra bệnh phong cùi, nhưng không dễ nhận ra tội lỗi của
mình.
(2) Phong cùi chỉ làm thiệt hại thân xác; nhưng tội lỗi giết chết linh hồn và
có thể gây thiệt hại cho thân xác của mình và người khác (giết người, ngọai
tình).
(3) Bệnh kiêu ngạo: coi trọng mình và khinh thường người khác, xem ra rất tầm
thường, nhưng chúng ta hãy xem hậu quả của chứng bệnh này:
- Xa cách Thiên Chúa: Thiên Chúa yêu mến kẻ khiêm nhường và đóai thương người
phận nhỏ. Người kiêu ngạo tự tách mình ra khỏi tình thương Thiên Chúa. Nếu họ
nghĩ họ đã hòan thiện, họ đâu cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Câu truyện của
tướng Naaman, người Syria, khiêm nhường xuống sông Jordan tắm 7 lần và được
Thiên Chúa chữa khỏi bệnh cùi là bài học khiêm nhường cho những người kiêu ngạo.
Nếu ông không nghe lời khuyên của một nữ tỳ Do-Thái đến gặp TT Elisha và làm những
gì TT đòi, làm sao có thể được khỏi bệnh? (2 Kgs 5:1-27).
- Xa cách con người: những người trong gia đình và trong cộng đòan. Vẫn biết có
những người yếu kém hơn mình, họ cần được nâng đỡ, chứ không phải để chịu xỉ nhục,
khinh thường. Hơn nữa, còn biết bao nhiêu người hơn mình, biết bao điều mới lạ
cần được học hỏi. Người kiêu ngạo sẽ không mở lòng để tiếp thu, và sẽ bị mọi
người dần dần xa lánh.
- Xa cách chính mình: cô đơn vì bị mọi người xa lánh. Có thể đưa đến buồn sầu đến
mất ăn mất ngủ, và trở nên bực tức khó chịu.
3.4/ Những điều cần làm
sau khi được lành bệnh: Giống như Luật đòi
người phong cùi phải trình diện tư tế để được tuyên bố sạch bệnh, Chúa Giêsu
cũng đòi các tội nhân đến với linh mục để được tuyên bố sạch tội qua Bí-tích
Hòa Giải. Ngòai ra, người phong cùi được sạch phải dâng của lễ theo Luật truyền,
các tội nhân được tha tội cũng phải làm những việc đền tội, nhất là những tội
liên quan đến nhân đức công bằng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Qua hình ảnh bệnh phong cùi, chúng ta hiểu được những nguy hiểm của tội lỗi.
Nếu chúng ta sợ mắc bệnh phong cùi thế nào, chúng ta cũng phải sợ tội lỗi như
thế.
- Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Người
Con Một của Ngài. Chính Người Con này đã mặc lấy tất cả bệnh họan tội lỗi của
chúng ta để cứu chữa chúng ta.
- Noi gương Đức Kitô, Đấng đã chết cho chúng ta, chúng ta cũng phải hy sinh chết
cho nhau, để tất cả đều đạt tới ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho con người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/02/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 6 TN – B
Mc 1,40-45
Mc 1,40-45
KHIÊM CUNG ĐÓN ƠN THA THỨ
Người phung hủi quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào
người anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mt 1,40-41)
Suy niệm: Tin Mừng đến cho mỗi chúng ta hôm nay là thế đó, là Chúa sẵn lòng tha
thứ và chữa lành cho chúng ta: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Nếu
chúng ta cảm nghiệm được nỗi đau về những thứ đáng lên án nơi người khác và những
điều tệ hại đang lúc nhúc bên trong làm lở lói linh hồn của chúng ta, thì chúng
ta hãy nhớ rằng Thiên Chúa rất mực khoan dung, hay tha thứ và quên hết mọi lỗi
lầm của chúng ta, sẵn sàng sờ chạm vào tâm hồn chúng ta dẫu đang bầy nhầy vì tội
lỗi. Ngài không xa tránh chúng ta như không xa tránh người phong hủi, nhưng chữa
lành, tha thứ và cho chúng ta một tương lai mới. Quả thật, khi con người quỳ gối,
thì họ sẽ nhận biết Thiên Chúa là Cha yêu thương họ thế nào. Chỉ một cử chỉ
khiêm cung quỳ gối, người phung cùi đã nhận biết Chúa yêu thương anh và Ngài rất
quyền năng. Nói khác đi, khi khiêm cung đón nhận ơn tha thứ, tội nhân được lãnh
tràn đầy ơn thứ tha.
Mời Bạn: Mỗi ngày bạn tập quỳ gối trước nhan Chúa và chân thành thưa với Chúa mọi
sự, kể cả những lầm lỗi, bạn sẽ có kinh nghiệm về lòng tha thứ và yêu thương của
Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Định ra một thời gian nhất định để quỳ gối thờ lạy Chúa, ngợi khen, tạ
ơn, xin ơn và tạ lỗi với Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa cho người phung cùi cảm nếm được
lòng thương của Thiên Chúa, xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa luôn yêu thương
chúng con, để chúng con dám thổ lộ với Chúa tội lỗi của con và xin ơn tha thứ.
(5 phút Lời Chúa)
MUỐN VÀ CÓ THỂ (11.2.2018 – Chúa nhật 6 Thường niên, Năm B)
Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Ðức Giêsu.
Suy niệm:
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp
người phong ở Calcutta.
Những thùng quyên tiền
của Mẹ mang dòng chữ:
“Hãy chạm đến một người
phong bằng lòng trắc ẩn của bạn”.
Chạm đến người phong là
điều xưa nay ai cũng sợ.
Theo luật Cựu Ước, người
phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu.
Ði đâu người ấy cũng phải
la to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46).
Bị cách ly với mọi người,
bị coi như mắc trọng tội,
đau đớn cả xác lẫn hồn,
người phong sống mà như chết.
Người phong trong bài Tin
Mừng hôm nay khá đặc biệt.
Anh tự ý đến gặp Ðức
Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài.
Lời van xin của anh thật
là một lời xin mẫu mực.
“Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch”.
Nếu Ngài muốn: anh mời
gọi lòng thương xót của Ngài.
Anh để cho Ngài tự do
chữa hay không tùy ý.
Dù rất muốn khỏi bệnh,
nhưng anh lại phó thác số
phận mình cho ý Ngài muốn.
Ngài có thể: anh tin
tưởng vào quyền năng của Ngài.
Anh không nói như người
cha của đứa con bị động kinh:
“Nếu Thầy có thể làm được
gì...” (Mc 9,22).
Ðối với anh, chắc chắn
Ngài có thể chữa anh lành bệnh.
Chỉ cần Ngài muốn là đủ
rồi.
Chính thái độ tin tưởng,
đơn sơ, phó thác của anh
đã đụng rất mạnh đến chỗ
sâu nhất trong lòng Ðức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự
tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn”.
Phép lạ phát sinh từ lòng
tin của người phong
và từ ý muốn đầy quyền
năng của Ðức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ
muốn, mà còn đụng vào anh.
Ngài không kinh tởm,
không sợ lây, không sợ bị ô uế.
Bàn tay Ngài đụng vào da
thịt anh với các vết thương.
Ngài không bị ô uế, nhưng
Ngài làm cho anh hết ô uế.
Chính lòng thương đã
khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh,
như chính anh đã mạnh dạn
đến với Ngài bằng lòng tin.
Ðức Giêsu vừa tự do với
Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật.
Ngài bảo anh đi trình
diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui
của người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được
sạch, được làm người bình thường,
được chung sống với cộng
đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa.
Anh lấy lại phẩm giá, ra
khỏi những mặc cảm.
Niềm vui quá lớn khiến
anh đi loan báo khắp nơi.
Người phong sau khi được
khỏi đã có thể vào thành.
Còn Ðức Giêsu lại phải ở
ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra
vi trùng bệnh phong năm 1871,
người phong đã có được
niềm hy vọng chữa lành.
họ không còn bị trục xuất
ra đảo xa hay bị bách hại.
Nhưng để cho họ được sống
như mọi người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta
xa tránh như người phong:
những cô gái lỡ lầm,
những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập,
những người có tiền án
hay thuộc giai cấp cùng đinh...
Hãy đến gần họ và để họ
đến gần mình,
vì nói cho cùng, ít nhiều
chúng ta đều là người phong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào
và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của con,
có những ngày
con không thể nào kính
trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì
cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”
(Trích trong PRIER)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG HAI
Âm Nhạc Phản Ảnh
Mối Hòa Điệu Trong
Tạo Vật
Aâm nhạc là ngôn ngữ
phổ quát của mọi con người. Aâm nhạc có thể khơi trào cảm xúc sâu xa, có thể
truyền đạt những tình cảm thanh cao, và có thể đánh thức mối đồng cảm đối với
tâm tư của người nghệ sĩ. Loài người cần đến âm nhạc, vì âm nhạc chuyển tải
chính tinh thần của người ta, nâng tâm hồn người ta lên cao, thăng hoa xúc cảm,
và giúp người ta hân hoan hướng nhìn về Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng –
một cách nào đó – con người trở thành ‘người’ hơn và trở thành ‘Kitôhữu’hơn nhờ
âm nhạc.
Khẳng định những điều
nói trên, tôi cũng nghĩ đến những giá trị độc đáo khác mà âm nhạc cống hiến. Sự
hài hòa của giai điệu được tạo ra do sự kết hợp của các nốt nhạc; cũng thế, âm
nhạc nếu được trình tấu bởi một nhóm sẽ sản sinh ra tình liên đới, mối đồng cảm
và tình hữu nghị. Aâm nhạc có thể được xem như một lời mời gọi người ta tham dự
vào một công cuộc cao quí chung – công cuộc ấy sẽ thăng hoa và củng cố tình cảm.
Những điều nói trên
càng được thấy rõ ràng hơn khi âm nhạc làm dâng trào niềm vui trong các dịp lễ
mừng của cộng đoàn. Nhờ âm nhạc, người ta cảm nghiệm được niềm phấn khởi hân
hoan, lòng sốt sắng cầu nguyện và nhiệt tâm dấn thân vào hành động. Quả thật,
âm nhạc có năng lực thúc đẩy người ta phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Vì thế, trong tư cách
là một nghệ thuật, âm nhạc hướng lòng người ta chiêm ngắm vẻ đẹp vốn tuôn chảy
từ chính Thiên Chúa, và âm nhạc cũng là một lời mời gọi người ta cảm thụ sự hòa
điệu trong tạo vật. Uớc gì tất cả chúng ta biết dùng âm nhạc để ca ngợi Thiên
Chúa.
Hạnh Các Thánh
11 Tháng Hai
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Vào
ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm
Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11
tháng Hai 1858, một trinh nữ đã hiện ra với Bernadette Soubirous, mở đầu cho một
chuỗi thị khải. Trong lần hiện ra ngày 24 tháng Ba, trinh nữ này tự xưng là:
"Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội."
Bernadette là một thiếu nữ yếu ớt, con của hai ông bà người nghèo và không có
tham vọng. Việc sống đạo của họ cũng không có gì đáng nói. Bernadette chỉ biết
đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và kinh Tin Kính. Cô còn biết đọc kinh cầu Linh Ảnh(*):
"Ôi Ðức Maria được thụ thai mà không mắc tội."
Trong những lần phỏng vấn, Bernadette cho biết những gì cô được nhìn thấy. Cô
cho biết "cái gì đó mầu trắng trong hình dạng một thiếu nữ." Cô dùng
chữ "Aquero," tiếng địa phương có nghĩa "cái này." Ðó là
"một thiếu nữ xinh đẹp với chuỗi tràng hạt trên tay." Áo choàng trắng
của ngài có viền xanh. Ngài đội khăn trắng. Trên mỗi bàn chân đều có hoa hồng
màu vàng. Bernadette cũng ngạc nhiên ở sự kiện là trinh nữ này không gọi cô với
danh xưng bình dân "tu", nhưng với ngôn từ rất lịch thiệp
"vous". Người trinh nữ khiêm tốn ấy hiện ra với một cô gái bình dân
và đã đối xử với cô như một người có phẩm giá.
Thanh Bernadette Soubiroux Qua một cô gái bình dân, Ðức Maria đã làm hồi sinh
và tiếp tục làm sống dậy đức tin của hàng triệu người. Dân chúng bắt đầu đổ về
Lộ Ðức từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như toàn thế giới. Vào năm 1862, giới
thẩm quyền Giáo Hội công nhận tính cách xác thực của những lần hiện ra và cho
phép sùng kính Ðức Mẹ Lộ Ðức. Năm 1907, lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức được cử mừng khắp hoàn
vũ.
Lời Bàn
Lộ
Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhưng nhất là đức tin. Giới
thẩm quyền của Giáo Hội công nhận 64 phép lạ chữa lành, mặc dù trên thực tế có
lẽ nhiều hơn thế. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó
là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ
Người.
Nhiều
người cho rằng các phép lạ lớn lao hơn thì rất bàng bạc. Nhiều người đến Lộ Ðức
và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các
nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ
Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim
"Song of Bernadette": "Với những ai tin vào Chúa thì không cần
giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ."
Trích từ NguoiTinHuu.com
11 Tháng Hai
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn
nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với
hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi.
Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp
sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì
trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp.
Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành,
nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được
đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây
khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt
được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng
có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì
kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của
Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình
như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette
đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn
ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó,
người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người
thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người
thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh
sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện
tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại
hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được,
Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu
nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ
Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là
lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào
ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp
Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một
dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Ðó là nguồn gốc của
hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi
trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi
người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và
quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi
trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc
nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong
chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện
ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả
mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi
Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người
được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ
và nhất là cầu nguyện
Trích sách Lẽ Sống







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét