11/02/2018
Chúa Nhật tuần 6 Thường Niên năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật
Tuần 6 Thường Niên, năm B
CHÚA NHẬT VI MÙA THƯỜNG NIÊN
NĂM B
Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31-11,1; Mc
1,40-45
ĐẾN VỚI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
“‘Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh’.
Tức thì bệnh cùi biến mất
và người ấy được sạch”
(Mc 1,41-42).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Lv
13,1-2.44-46
Bộ Ngũ Thư làm
nổi bật hai yếu tố nền tảng để xác định căn tính của Israel. Đó là: 1) Israel
là con cháu của các Tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp; 2) Israel là Dân của Giao
Ước do Thiên Chúa thiết lập qua Môsê tại núi Sinai. Do đó, Israel sẽ là Dân
tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa và thờ phượng Người phù hợp với Lề Luật được
trình bày trong Ngũ Thư. Vì thế, Ngũ Thư mới được gọi là “Lề Luật/Torah”, là
“Kim chỉ nam” cho toàn bộ đời sống dân Israel. Về cơ bản, Ngũ Thư chuyển tải ba
bộ luật chính: Bộ luật về Giao ước (Xh 20,22‒23,19), Bộ luật về Sự Thánh thiện
(Lv 17‒26), và Bộ luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12‒26), cùng với Luật về sự thanh sạch
và ô uế (Lv 11-16) và các bản luật ngắn: bản văn về Mười Điều Răn (Xh 20,2-17),
một bản văn khác về Mười Điều Răn (Đnl 5,6-21), và bản văn về “những chỉ dẫn về
đặc quyền của Đức Chúa” (Xh 34,10-26). Lề Luật hàm chứa tất cả lãnh vực của cuộc
sống, và được qui về ba lãnh vực chính yếu: Pháp lý (ius), Luân lý (ethos), và
Phụng tự (cultus).
Sách Lêvi là
quyển thứ ba trong bộ Ngũ Thư, bao gồm Bộ luật về sự Thánh Thiện, và Luật về sự
Thanh sạch và ô uế. Bài đọc I nằm trong Bộ luật Thanh sạch và ô uế; cụ thể hơn,
nằm ở chương 13 và 14 là hai chương bàn đến “bệnh phung hủi”, được xem là bệnh
ô uế nơi người và sự vật. Luật quy định rằng các vị tư tế chịu trách nhiệm xác
định bệnh. Sau 7 ngày, tư tế sẽ tiến hành kiểm tra bệnh lần nữa, và tư tế sẽ
tuyên bố người đó có bị bệnh phung hủi hay không. Nếu người đó bị bệnh phung hủi,
tức bị ô uế, thì Luật Do thái buộc người phung hủi phải sống xa cách Đức Chúa,
tách biệt khỏi đời sống cộng đoàn. Họ cũng giữ như thế vì không muốn làm lây
nhiễm ô uế đến người khác. Người phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu,
và kêu lên: “ô uế, ô uế”. Đó là những dấu chỉ diễn tả nỗi đau thương, tang tóc.
Vì bị bệnh nan y, vô phương cứu chữa vào thời đó, nên người phung hủi sống
nhưng mất đi phẩm giá làm người. Họ bị xem và tự xem mình như thể đã chết rồi.
Họ rất đau đớn thể xác vì các triệu chứng bệnh lý gây ra, nhưng nhất là chịu
đau khổ về tinh thần, vì chịu người ta xem họ như bị Đức Chúa trừng phạt do phạm
tội lỗi nặng nề nào đó.
2. Bài đọc 2: 1Cr
10,31-11,1
Bài đọc 2 trích
1Cr 10,31-11,1, là đoạn kết của đoạn văn bàn đến vấn đề “ăn thịt cúng và những
mối nguy hiểm từ việc thờ ngẫu tượng” (1Cr 8,1-11,1). Ở 1Cr 8,1-13, bản văn cho
biết vì các Kitô hữu Côrintô sống trong
môi trường với dân ngoại, nên có chuyện ăn thịt cúng trong các tiệc tùng do
thân hữu khoản đãi hoặc trong các đền miếu. Có lẽ có một số người lý luận rằng
chỉ tin một Thiên Chúa, không có ngẫu tượng nào khác, nên ăn thịt cúng là không
có tội (1Cr 8,1-6). Tuy nhiên, việc ăn thịt cúng sẽ thành cớ vấp phạm khiến những
anh em có lương tâm yếu đuối phải sa ngã, vì họ cho rằng ăn thịt cúng là thông
hiệp với ngẫu tượng.
Trong 1Cr
10,1-13, Phaolô đã nhắc lại gương xấu của Israel về việc sa cám dỗ thờ ngẫu tượng
để khuyên các tín hữu không nên ăn đồ cúng kẻo lại rơi vào nguy hiểm thờ ngẫu
tượng như Israel xưa. Từ những gương xấu trên, Phaolô đã đưa ra những chỉ dẫn
thực hành: xét về nguyên tắc, ăn thịt cúng cũng là một cách thỏa hiệp với ngẫu
tượng. Các tín hữu Côrintô đã được nuôi dưỡng bằng Bàn Tiệc của Chúa, hiệp
thông với thân mình Đức Giêsu, sao họ lại có thể ăn thịt cúng, như là dấu chỉ
hiệp thông với ma quỷ và ngẫu tượng (1Cr 10,14-22).
Để kết luận cho
phần khuyên nhủ đừng ăn thịt cúng, qua đoạn bài đọc chúng ta vừa nghe ở 1Cr
10,31‒11,1, thánh Phaolô nhắc các tín hữu 3 điều cụ thể sau đây: 1/ Dù làm việc
gì, người tín hữu hãy làm để tôn vinh Thiên Chúa (x. 1Cr 10,31); 2/ Các tín hữu
đừng làm gương xấu cho bất cứ ai (x. 1Cr 10,32); 3/ Các tín hữu hãy noi gương
các vị thánh trong Hội Thánh, nhưng Đức Kitô mới là mẫu gương tuyệt vời nhất để
họ noi theo (x. 1Cr 11,1).
Từ những nguyên
tắc đó, thánh Phaolô khuyên các tín hữu cần biết hy sinh mọi thứ để sống đúng
tư cách là Kitô hữu. Khi các tín hữu không sống các giá trị Tin Mừng, ngược lại
còn làm gương mù gương xấu, thì họ đang bị một dạng phung hủi nào đó và làm lây
nhiễm ô uế đến người khác.
3. Bài Tin Mừng: Mc
1,40-45
Trong Bài đọc I
trích sách Lê vi, người phung hủi bị buộc phải sống xa cách Đức Chúa, tách biệt
khỏi đời sống cộng đoàn, và họ cũng giữ như thế vì không muốn làm lây nhiễm ô uế
đến người khác. Thế nhưng trong Bài Tin Mừng lại có người phung hủi dám đến với
Đức Giêsu vì tin Người không chỉ có khả năng “miễn nhiễm” ô uế, mà còn có năng
quyền chữa lành cho anh. Anh quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi được sạch” (c. 40b). Đó là tâm tình của một người khiêm hạ nhưng đầy
tin tưởng và hy vọng. Anh dám nói lên ước vọng được chữa lành của mình, nhưng
cũng để Đức Giêsu tự do quyết định điều Người cần làm.
Đức Giêsu “chạnh
lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi!’” (c. 41).
Theo Luật Do thái, chạm vào người phung hủi đồng nghĩa với việc Đức Giêsu dám
tiếp nhận sự ô uế vào mình. Đức Giêsu biết điều đó, nhưng vì là “Chiên Thiên
Chúa, Đấng gánh tội trần gian”, Người gánh lấy bao nỗi đau khổ và bệnh tật, ô uế
và tội lỗi của nhân loại để con người được sống đúng phẩm giá, trở nên “thanh sạch”,
không bị loại trừ, hầu được tái hòa nhập với cộng đoàn. Tình trạng “ô uế” có thể
lây từ người này sang người khác, nhưng không thể lây nhiễm và gây hại cho Đức
Giêsu, vì lòng xót thương hải hà của Đức Giêsu đã đẩy lui rào cản ngăn cách,
xóa tan đi tất cả những gì là ô uế nơi con người, tình thương của Đức Giêsu mạnh
hơn quyền lực của bệnh tật, ô uế và sự chết.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Bệnh phung hủi
làm cho người ta phải sống xa cách Đức Chúa, tách biệt khỏi đời sống cộng đoàn.
Có “chứng bệnh phung hủi” nào đó về tinh thần đang khiến tôi phải xa cách Chúa,
và tách biệt khỏi cộng đoàn đức tin? Có “chứng bệnh” nào đó khiến tôi cảm thấy
mình đau khổ quá mức, như thể đã chết?
2. Nếu người bị
bệnh phung hủi chủ động đến với Đức Giêsu để được Người chạm vào với ước mong
được chữa lành, vậy tôi có dám chủ động đến với Đức Giêsu để được Người chạm
vào thân thể tôi, chạm vào cõi lòng của tôi để chữa lành các “bệnh tật” thể lý
cũng như tâm linh trong cuộc sống của tôi?
3. Nếu tôi cảm
nhận được sự chữa lành từ Thiên Chúa, thì tôi có dám vượt ra khỏi chính mình,
ra khỏi sự ích kỷ để hướng tới tha nhân, chạm vào “sự ô uế” của người khác với
ước mong góp phần chữa lành vết thương trong cuộc đời của của họ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã
sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để thanh tẩy và chữa lành
hầu cứu độ mọi người. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và tin tưởng dâng lời cầu nguyện
cho Hội Thánh và cộng đồng nhân loại:
1. Chúa Giêsu
đã chạnh lòng thương và đưa tay đặt trên người bệnh phong. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hàng Giám mục và Linh mục trong Hội Thánh,
luôn là dấu chỉ sống động của lòng Chúa thương xót trước nỗi đau của con người.
2. Người bệnh
phong van xin Chúa: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho những người đang đau khổ nơi thân xác hay tâm hồn ở khắp
nơi trên thế giới, biết tin tưởng tìm đến với Chúa Giêsu để được Người chữa
lành và an ủi.
3. Chúa nói với
người bệnh: “Hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ theo luật truyền.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho các kitô hữu khi đón nhận muôn ân huệ của Thiên Chúa cũng
luôn biết sống tâm tình tạ ơn cho xứng đáng qua bổn phận thờ phượng và tuân giữ
lề luật.
4. Thánh Phaolô
nhắc nhở: “Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết tích cực góp phần
canh tân đời sống cộng đoàn bằng một đời sống thánh thiện và dấn thân phục vụ.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha và là Đấng cứu độ
nhân loại, xin lắng nghe và chúc lành cho những ước nguyện của cộng đoàn chúng
con, giúp chúng con luôn sống xứng đáng trong tư cách là nghĩa tử của Cha.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
SỢI CHỈ ĐỎ CN 6 TN.B
CHỦ ĐỀ :"SẠCH" VÀ "DƠ"
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Lv
13,1-2.45-46) : Những quy định của sách Lêvi về bệnh cùi
- Đáp ca (Tv
31) : Trong quan niệm Cựu Ước rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, tác giả
Thánh vịnh 31 tin rằng Thiên Chúa có thể tha thứ mọi tội lỗi (từ đó suy ra là
Thiên Chúa có thể cứu chữa mọi bệnh tật).
- Tin Mừng (Mc
1,40-45) : Đức Giêsu làm phép lạ chữa một người khỏi bệnh cùi.
- Bài đọc II (1
Cr 10,31--11,1) (chủ đề phụ) : Trong khi bàn về vấn đề ăn uống, thức gì được ăn,
thức gì không được, thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô rằng dù khi ăn, dù khi
uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
I. DẪN VÀO
THÁNH LỄ
Anh chị em thân
mến
Trong cuộc sống
chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ
lánh xa ; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao ? Lời Chúa hôm
nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời
Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.
II.
GỢI Ý SÁM HỐI
- Tội lỗi làm
cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành
tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
- Nhiều lần chúng
ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu
chuyện khiếm nhã.
- Chúng ta cũng
làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. LỜI
CHÚA
1. BÀI
ĐỌC I (LV 13,1-2.45-46)
Đoạn này là một
phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là "Luật về sự tinh sạch".
Đoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không
giống với quan niệm ngày nay :
- Tất cả những
hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là
"cùi". Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc
những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.
- Hơn nữa, người
ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo : trong quan niệm chung rằng bệnh
tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó
cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến
trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi bệnh thì cũng phải được tư
tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều
coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay
cứu chữa.
Vì vậy, người nào
cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Đức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền
đặc biệt do Thiên Chúa ban.
2.
ĐÁP CA (TV 31)
Ca tụng sự tha
thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.
3. TIN
MỪNG (MC 1,40-45)
Như đã nói
trong phần giải thích bài đọc I, người do thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y
chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi ; b/ chứng bệnh rất hay lây ; c/ có liên hệ đến
tội lỗi.
Người cùi trong
bài Tin Mừng này nói với Đức Giêsu "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên
sạch". Điều này chứng tỏ anh tin rằng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa
tay đặt trên người ấy : chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê
tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh
một cách rất nhanh chóng và dễ dàng : chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của
Thiên Chúa.
4. BÀI
ĐỌC II (1 CR 10,31--11,1)
Đoạn thư này
tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là "sạch và
dơ". Người do thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn
"sạch" và thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó.
Điều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn,
dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh
Chúa.
IV. GỢI Ý
GIẢNG
* 1.
Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn
Những kiến thức
y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta
phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm
nay mô tả : Đó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại
có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.
Tội "cùi"
ấy là gì ? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli
trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người cùi như thế : Đó là một bà
trung lưu và có thể nói là "đạo đức". Bà không phải bận bịu với việc
sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để
tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ
muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa
thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn
đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị
Ẩn Sĩ kết luận :
- Sở dĩ người
ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc !
- Nhưng sao họ
coi tôi là rắn độc ?
- Vì trong đầu óc
bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi
quan… Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn
thảm hơn.
- Vậy xin ngài
chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên
bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp : từ nay hãy nuôi trong đầu mình những
ý tưởng tốt lành ; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt
lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm
theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những
"con hủi"
Hoàn cảnh đáng
thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng
bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không
đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa
lánh anh.
Có nhiều người
tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con hủi" do bị mọi người
khinh tởm tránh xa.
Nhưng Đức Giêsu
thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những "con hủi" ấy, chẳng
hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v.v.
* 3. Nỗi khổ
bị xua đuổi
Bệnh cùi
là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi.
Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi
khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó
còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị
cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu
tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không
phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người
khác xa lánh.
Người cùi đến với
Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được
sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác
chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên
anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Điểm hay trong
chuyện này không phải là việc Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách
Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để
anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng
vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ
hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên
có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của
anh.
Khi ta xua đuổi
ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta
có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói
thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v.v. Đó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng
gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)
* 4. Bệnh
phong cùi
Một vụ nổ đã làm
cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần
phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu : "Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ
tàn phế suốt đời đấy".
Thế mà hai năm
sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn
chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu
thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi
người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội
Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy
1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
*
Với niềm tin vào
khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động
viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người
phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên
lành sạch.
Đối với người
Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ.
Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống
thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi người tránh xa.
Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã
hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin
:"Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc.1,40).
Thấy lòng tin của
anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói : "Ta muốn,
anh hãy khỏi bệnh" (Mc.1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm
luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật.
Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ
đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến
mất và anh ta được sạch.
M.Carré có nói
: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những
nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột
cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa ; trong lúc tâm hồn
tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy
người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn
phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Đức Giêsu
chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả
vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G.Bossis viết :
"Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".
Bí quyết trở nên
hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu : "In God
we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa).Thánh Phanxicô Salêsiô nói :
"Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn
gắn chặt vào Thiên Chúa".
*
Lạy Chúa, trong
cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi.
Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người ; tất cả nơi
Người.
Xin cho chúng
con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương
chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã
yêu")
* 5.
Chạm vào
Nhiều người chúng
ta sợ chạm vào người khác.
Thà cho người ăn
mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình.
Đức Giêsu thì
khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào.
Ngài chạm vào
những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người
chết.
Những cái chạm
thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu
được vui mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin
cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6.
Chúa chạm vào
Người phong cùi
nói với Đức Giêsu : "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được
sạch". Đức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi
muốn, anh hãy được sạch"
Mẫu đối thoại
ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng :
- Xét về mặt
thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có tội.
- "Nếu Ngài
muốn" : Đức Giêsu có muốn cho chúng ta hết "cùi" thiêng liêng không
? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Đức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi
cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi : "Tôi muốn"
- Người cùi
trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Đức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay
không chỉ được Đức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể
chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
7.
Ý nghĩa việc làm của Đức Giêsu
Các sách Tin Mừng
trình bày Đức Giêsu luôn làm hai việc : chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc
này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Đức
Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ
trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói : chữa bệnh là một cách rao giảng
Tin Mừng.
Người cùi trong
bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng.
Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng
: "Đi khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó… và người
ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người".
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã không
ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta
xin Đức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng
ta :
1. Trong
Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội
nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.
2. Trên thế giới
có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các
nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần
hồn.
3. Ngày nay ở
khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung
thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi
an.
4. Trong xứ đạo
chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn
chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến
với Chúa để được chữa lành.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa
lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng
và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và
hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy
Cha : Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần
xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây :
"Lạy Cha chúng con ở trên trời…"
- Sau
kinh Lạy Cha : "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ
làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng
đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình
an…"
VII. GIẢI
TÁN
Nhờ linh dược của
Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy
ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.
Lm Carolo
Lectio Divina: Chúa Nhật VI Thường Niên (B)
Chủ Nhật 11
Tháng Hai, 2018
Đức Giêsu chữa lành người phong cùi
Đưa nhũng kẻ sống bên lề trở lại trong xã hội con người
Mc 1:40-45
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình
mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng
của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra
được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo
trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự
Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong
những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện
xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con
cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người
khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em,
công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Bài Tin Mừng của
Chúa Nhật thứ sáu Thường Niên tuần này cho chúng ta biết cách Chúa Giêsu đón nhận
người phong cùi như thế nào. Vào thời bấy giờ, kẻ phong cùi là những người bị xã
hội loại trừ nhất, bị tất cả mọi người xa lánh. Kẻ ấy không được tham gia vào bất
cứ việc gì. Trong thời xa xưa, vì thiếu thuốc men hiệu quả, vì sợ lây lan và việc
cần thiết bảo vệ đời sống xã hội, đã khiến cho người ta xa lánh và loại trừ người
phong cùi. Ngoài ra, trong số những người dân riêng của Chúa, bảo vệ món quà của
đời sống là một trong những nhiệm vụ thiêng liêng nhất, họ nghĩ rằng loại trừ
những người phong cùi là một nhiệm vụ thiêng liêng vì đó là cách duy nhất bảo vệ
cho cộng đoàn khỏi sự lây lan hiểm nghèo. Vì thế, tại Israel, người mắc bệnh
phong cùi bị cảm thấy ô uế và không chỉ bị xa lánh bởi xã hội mà còn ngay cả bởi
Thiên Chúa nữa (xem Lv 14:1-32). Tuy nhiên, dần dần khi các phương cách chữa trị
có hiệu quả hơn được tìm ra và hơn hết cả là nhờ vào kinh nghiệm thông tri sâu
sắc cho chúng ta qua Đức Giêsu về Thiên Chúa là Cha chúng ta, những người bị
phong cùi đã bắt đầu được chấp nhận và tái hòa nhập như anh chị em trong xã hội
loài người.
Mặc dù qua hai
ngàn năm của Kitô giáo, việc loại trừ và gạt bỏ ra ngoài lề xã hội một số hạng
người vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, cho dù trong xã hội hay trong Giáo Hội.
Ví dụ, những người bị bệnh AIDS, những kẻ di cư, người đồng phái luyến ái, người
ly dị, v.v. Ngày nay, trong xã hội của các bạn và trong Giáo Hội, những loại
người nào đang bị hắt hủi và xa lánh? Với những câu hỏi này trong tâm trí,
chúng ta hãy đọc và suy gẫm Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này.
b) Phân đoạn
bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 1:40: Tình
trạng bị bỏ rơi và bị hắt hủi của người bị bệnh phong cùi
Mc
1:41-42: Chúa Giêsu đón tiếp và chữa lành người bị phong cùi
Mc
1:43-44: Đưa những người bị hắt hủi vào lại trong xã hội huynh đệ
Mc 1:45: Người
bị phong cùi loan truyền việc lành nhân đức Chúa Giêsu đã làm cho anh và Chúa
Giêsu trở thành kẻ bị loại trừ
c) Phúc Âm:
40 Khi ấy, có một người bị bệnh cùi đến
van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể
khiến tôi nên sạch.” 41 Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ
tay lên đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh.” 42 Tức
thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. 43 Nhưng Người
nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: 44 “Anh hãy ý tứ
và đừng nói gì cho ai biết, mà hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ
theo luật Môisen để minh chứng mình đã được khỏi bệnh.” 45 Nhưng
đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể
công khai vào thành được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ,
và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng
ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Trong đoạn Phúc Âm này, bạn đã
thích điều nào nhất, và điều nào đã động chạm đến bạn nhất? Tại sao?
b) Đoạn Tin Mừng này diễn tả việc người
phong cùi bị hắt hủi như thế nào?
c) Chúa Giêsu đã tiếp đón, chữa lành
và phục hồi người bị bệnh phong cùi như thế nào? Hãy cố gắng quan sát kỹ lưỡng
từng chi tiết.
d) Hôm nay, làm thế nào chúng ta có
thể bắt chước được thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bị xa lánh?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những
ai muốn đào sâu hơn vào trong chủ đề
Bối cảnh thời
bấy giờ và ngày nay:
Cho dù vào những
năm của thập niên 70, khi Máccô đang viết sách này, hay là ngày nay trong thời
đại chúng ta, điều đã và vẫn còn rất quan trọng để nắm giữ một số tiêu chuẩn hoặc
mô hình để biết làm thế nào sống và công bố Tin Mừng của Chúa, và làm cách nào
để thực hiện nhiệm vụ Kitô hữu của chúng ta. Trong các câu từ 16 đến 45 của
chương thứ nhất, thánh Máccô trong việc thu thập dữ kiện cho tám phân đoạn, đã
mô tả cách Chúa Giêsu công bố Tin Mừng. Mỗi phân đoạn chứa đựng một tiêu chuẩn
cho cộng đoàn vào thời ấy, để sau đó người ta có thể duyệt xét lại sứ vụ của
riêng mình. Tin Mừng của Chúa Nhật này cụ thể hóa tiêu chuẩn thứ tám: “phục hồi
phẩm giá cho những người bị xã hội ruồng bỏ”. Đây là sơ đồ toàn bộ để làm sáng
tỏ những gì sau đó:
ĐOẠN TRÍCH
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA GIÊSU
MỤC TIÊU CỦA TIN MỪNG
Mc 1:16-20
Chúa Giêsu kêu
gọi bốn môn đệ đầu tiên của Người
Thiết lập cộng
đoàn
Mc 1:21-22
Thiên hạ sửng sốt
về lời giảng dạy của Chúa
Tạo ra lương
tâm công chính
Mc 1:23-28
Chúa Giêsu trục
xuất thần ô uế
Chiến đấu chống
lại quyền năng của sự dữ
Mc 1:29-31
Chúa chữa lành bà
nhạc mẫu của ông Phêrô
Khôi phục lại sự
sống qua sự phục vụ
Mc 1:32-34
Chúa chữa lành
kẻ bệnh tật và những người bị quỷ ám
Ân cần với những
người sống bên lề xã hội
Mc 1:35
Chúa Giêsu trở
dậy để cầu nguyện lúc trời còn tối
Luôn trong sự
hiệp nhất với Chúa Cha
Mc 1:36-39
Chúa Giêsu tiếp
tục công bố Tin Mừng
Không để cho những
thành công ngăn cản chúng ta
Mc 1:40-45
Chúa Giêsu chữa
lành một người phong cùi
Phục hồi phẩm
giá cho những kẻ bị ruồng bỏ
Lời bình giải về
đoạn Tin Mừng:
Mc 1:40: Tình
trạng bị bỏ rơi và bị hắt hủi của người bị phong cùi.
Một người bị
phong cùi tiến đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta là kẻ loại ra ngoài xã hội, kẻ ô uế!
Anh ta bị xua đuổi xa khỏi xã hội loài người. Bất cứ ai đến gần y sẽ bị xem như
ô uế. Nhưng người bị phong cùi đã có đủ can đảm. Anh đã phá vỡ các lề luật tôn
giáo để có thể tiếp cận Chúa Giêsu. Anh nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể
khiến tôi nên sạch!” Hay là: “Ngài không cần phải chạm tới người tôi!
Nếu Ngài chỉ muốn thì đã đủ để chữa lành cho tôi!” Câu này cho thấy các tệ nạn:
1) Sự quái ác của căn bệnh gọi là phong cùi đã làm cho anh ta
trở nên ô uế; 2) Điều tai hại của nỗi sống cô đơn mà anh ta bị
lên án bởi xã hội và tôn giáo. Nó cũng cho thấy người ta đã có đức tin mãnh liệt
vào quyền năng của Chúa Giêsu.
Mc 1:41-42: Bằng
việc đón tiếp và chữa lành người bị phong cùi, Chúa Giêsu mặc khải khuôn mặt mới
của Thiên Chúa
Thương cảm một
cách sâu xa, Chúa Giêsu đã chữa lành cả hai điều tệ hại. Trước hết, để chữa
lành điều tai hại của nỗi sống cô đơn quạnh quẽ, Chúa đặt tay lên người cùi.
Cũng như thể Chúa nói với anh ta rằng: “Đối với Ta, anh không phải là người bị
hắt hủi. Ta xem anh như người anh em!” Thứ hai, Chúa đã chữa lành căn bệnh được
gọi là phong cùi và nói: “Ta muốn. Anh hãy khỏi bệnh!” Để có
thể đến gần tiếp xúc với Chúa Giêsu, người bị phong cùi đã phá bỏ những luật lệ
có sẵn. Để cho Chúa Giêsu có thể giúp đỡ người bị hắt hủi này và vì thế mặc khải
khuôn mặt mới của Thiên Chúa, Chúa đã vi phạm lề luật tôn giáo và động chạm đến
người cùi. Vào thời bấy giờ, bất cứ ai động chạm vào một người cùi thì sẽ trở
thành ô uế dưới con mắt của những người có thẩm quyền về tôn giáo và trước luật
pháp thời ấy.
Mc
1:43-44: Đưa những người bị hắt hủi vào lại trong xã hội huynh đệ
Chúa Giêsu
không những chỉ chữa lành, mà Người còn muốn người đã được chữa lành có thể sống
chung với những người khác. Đưa người ấy trở lại với xã hội. Vào thời ấy, để
cho một người bị phong cùi được trở lại sống trong cộng đoàn, người ấy phải có
lời minh chứng đã được khỏi bệnh bởi một thày tư tế. Vì vậy lề luật đã được ghi
chép về việc thanh tẩy cho một người đã từng bị phong cùi (Lv 14:1-32). Việc
này vẫn còn xảy ra ngày nay. Bệnh nhân rời khỏi bệnh viện với một lá thư có chữ
ký của bác sĩ của phân khoa điều trị. Chúa Giêsu giúp đỡ người bị phong cùi có
được giấy tờ xác nhận của người có thẩm quyền để cho anh ta có thể tái gia nhập
vào xã hội bình thường. Vì thế Người thúc bách các người có thẩm quyền minh chứng
rằng người ấy đã được khỏi bệnh.
Mc 1:45: Người
bị phong cùi loan truyền việc lành nhân đức Chúa Giêsu đã làm cho anh và Chúa
Giêsu trở thành kẻ bị loại trừ
Chúa Giêsu đã cấm
người bị bệnh cùi đừng nói gì về việc lành bệnh của anh ta. Nhưng người ấy đã
nói. Người bị phong cùi đã bắt đầu cao rao và loan truyền câu chuyện khắp
mọi nơi, vì thế mà Chúa Giêsu không còn có thể công khai đi vào bất cứ thành
nào được, mà phải ở lại ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ. Tại sao Chúa
Giêsu lại đi sống ở những nơi vắng vẻ? Chúa Giêsu đã động chạm vào người bị
phong cùi. Vì thế, chiếu theo luật lệ thời ấy, Chúa bấy giờ đã trở nên ô uế và
phải sống xa lánh tất cả mọi người. Người không thể đi vào bất cứ thành nào.
Nhưng thánh Máccô ngụ ý rằng dân chúng đã bất chấp lề luật chính thức, bởi
vì người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người! Một việc hoàn
toàn đảo ngược!
Tin có giá trị
gấp đôi mà Máccô muốn truyền đạt cho các cộng đoàn của thời ấy và cho tất cả
chúng ta là: 1) Công bố Tin Mừng có nghĩa là làm chứng tá cho kinh nghiệm cụ thể
mà người ta có về Chúa Giêsu. Người bị phong cùi đã công bố điều gì? Anh ta công
bố với những người khác việc nhân lành mà Chúa Giêsu đã làm cho anh ta. Chỉ thế
thôi! Và chính là việc làm chứng này đã tạo cơ hội cho người khác chấp nhận Tin
Mừng của Thiên Chúa mà Đức Giêsu công bố. Những ai không có kinh nghiệm về Chúa
Giêsu thì sẽ chẳng có gì để công bố cho người khác. 2) Đem Tin Mừng đến cho người
khác, người ta không cần phải lo sợ vi phạm những quy tắc về tôn giáo mà đã đi
ngược với kế hoạch của Thiên Chúa; và đem lại sự thông tri, đối thoại và một đời
sống của tình yêu khó khăn. Ngay cả khi một thái độ như vậy có thể tạo ra khó
khăn cho người ta như nó đã làm cho Chúa Giêsu!
Lời chú giải
thêm:
Tám chỉ tiêu
để đánh giá sứ vụ của Cộng đoàn
Chế độ lưỡng nô
lệ đã đánh dấu tình trạng người dân vào thời Chúa Giêsu: ách nô lệ của nghi thức
tôn giáo, duy trì bởi các người có thẩm quyền về tôn giáo của thời ấy, và ách
nô lệ chính trị của Hêrôđê, duy trì bởi Đế quốc La Mã và được hỗ trợ bởi hệ thống
tổ chức toàn bộ của sự khai thác và đàn áp. Bởi vì tất cả những điều này, nhiều
người đã bị loại trừ bởi tôn giáo và bởi xã hội. Do đó, điều này đi ngược lại
tình huynh đệ mà Thiên Chúa ước mơ cho tất cả mọi người! Và đó chính là trong bối
cảnh này mà Chúa Giêsu đã bắt đầu thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng của Thiên
Chúa.
Tin Mừng Chúa
Nhật tuần này là một phần của sự tập hợp văn học rộng lớn hơn (Mc 1:16-45).
Ngoài phần mô tả về việc chuẩn bị cho Tin Mừng (Mc 1:1-13) và việc rao giảng
(Mc 1:14-15), thánh Máccô đã tập hợp tám hoạt động của Chúa Giêsu để mô tả sứ vụ
rao giảng Tin Mừng của Người và để chỉ vẽ ra sứ vụ của cộng đoàn phải nên như
thế nào (Mc 1:16-45). Đây cũng là sứ vụ mà Chúa Giêsu nhận lãnh từ Chúa Cha (Ga
20:21). Máccô đã tóm gọn lại những câu chuyện đã được truyền khẩu trong các cộng
đoàn và liên kết chúng lại với nhau như những viên gạch cũ trong một bức tường
mới. Tám phân cảnh này là tám tiêu chuẩn dành cho cộng đoàn để kiểm soát và sửa
đổi cho dù họ có đang thực hiện sứ vụ của họ cách tốt đẹp. Chúng ta hãy nhìn
xem:
i) Mc 1:16-20: Thiết lập
cộng đoàn.
Việc đầu tiên
mà Chúa Giêsu làm là kêu gọi người ta đi theo Người. Việc làm căn bản của sứ
vụ là tập hợp người ta chung quanh Chúa Giêsu để thành lập cộng đoàn.
ii) Mc 1:21-22: Tạo dựng
lương tâm công chính.
Điều trước tiên
người ta trông thấy là sự khác biệt giữa cách giảng dạy của Chúa Giêsu và của
các Luật Sĩ. Một phần của sứ vụ là tạo dựng lương tâm công
chính ở người ta, ngay cả khi phải đối mặt với các người có thẩm quyền về tôn
giáo.
iii) Mc 1:23-28: Chiến đấu
lại quyền năng của sự dữ.
Phép lạ đầu
tiên Chúa Giêsu làm là trục xuất thần ô uế. Một phần của sứ vụ là
chiến đấu lại quyền năng của sự dữ đã hủy hoại sự sống và khiến người ta tha
hóa với chính mình.
iv) Mc 1:29-31: Khôi phục
lại đời sống qua sự phục vụ.
Chúa Giêsu chữa
lành bà nhạc mẫu của ông Phêrô, và bà khỏi bệnh và bắt đầu đi tiếp đãi. Một phần
của sứ vụ là chăm sóc những người bệnh tật để họ có thể khỏi bệnh
và trỡ lại đi phục vụ người khác.
v) Mc 1:32-34: Ân cần
với những người sống bên lề xã hội.
Sau ngày
Sabbát, người ta mang đến cho Chúa Giêsu những bệnh nhân và người bị quỷ ám để
Người chữa cho họ, và bằng cách đặt tay, Chúa đã chữa lành cho tất cả. Một phần
của sứ vụ là ân cần với những người sống bên lề xã hội.
vi) Mc 1:35: Luôn trong
sự hiệp nhất với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Sau một ngày
làm việc cho đến mãi tận chiều tối, Chúa Giêsu đã vội vã chỗi dậy từ sớm tinh
sương để Người có thể đi đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện tại đó. Một phần của sứ
vụ là luôn ở trong sự hiệp nhất với nguồn mạch của Tin Mừng, đó là
Chúa Cha, qua lời cầu nguyện.
vii) Mc 1:36-39: Duy trì
nhận thức về sứ vụ.
Các môn đệ đã
vui mừng với các kết quả vả mong muốn Chúa Giêsu trở lại. Tuy nhiên, Chúa đã tiếp
tục với cuộc hành trình của Người. Một phần của sứ vụ là không
được tự mãn với các kết quả, mà phải duy trì nhận thức về sứ vụ.
viii) Mc 1:40-45: Phục hồi
phẩm giá cho những kẻ bị thiệt thòi trở về với xã hội loài người.
Chúa Giêsu chữa
lành người phong cùi và bảo anh ta đi trình diện cùng vị tư tế để anh có thể được
chứng minh là đã khỏi bệnh và có thể được sống trong xã hội. Một phần của sứ
vụ là phục hồi những người bị loại trừ để họ trở về với xã hội loài
người.
Tám điểm này đã
được chọn lựa khéo léo bởi Máccô, cho thấy mục đích sứ vụ của Chúa Giêsu: “Ta đến
để cho tất cả được sống, và sống dồi dào!” (Ga 10:10). Cũng tám điểm này có thể
dùng để đánh giá chính cộng đoàn chúng ta. Vì thế chúng ta có thể nhìn thấy
Máccô đã xây dựng sách Tin Mừng của ông như thế nào. Một cấu trúc tuyệt mỹ mà
tóm gọn hai điều cùng một lúc: (1) Thông tri cho mọi người về những gì Chúa Giêsu
đã làm và đã giảng dạy; (2) Thành lập cộng đoàn và người ta theo sứ vụ của những
người đi loan truyền và rao giảng Tin Mừng của Chúa.
6. Cầu Nguyện với Thánh Vịnh: Thánh Vịnh 125 (124)
Bất cứ ai
tin tưởng vào Chúa sẽ không xao xuyến!
Ai tin tưởng
vào CHÚA, khác nào núi Xi-on
chẳng bao giờ lay chuyển, muôn thuở vẫn trường tồn.
chẳng bao giờ lay chuyển, muôn thuở vẫn trường tồn.
Như núi đồi bao
bọc thành Giê-ru-sa-lem,
CHÚA bao bọc dân Người bây giờ và mãi mãi.
Chúa sẽ không cho vương trượng ác nhân
đè nặng trên phần đất người lành,
kẻo người lành tra tay làm điều ác.
Lạy CHÚA, xin đối xử nhân hậu với người nhân hậu
và những ai lòng dạ thẳng ngay.
Nhưng kẻ ngả theo đường tà bậy,
xin CHÚA đuổi đi cùng bọn làm điều ác.
Nguyện chúc Ít-ra-en được thái bình!
7. Lời Nguyện Kết
CHÚA bao bọc dân Người bây giờ và mãi mãi.
Chúa sẽ không cho vương trượng ác nhân
đè nặng trên phần đất người lành,
kẻo người lành tra tay làm điều ác.
Lạy CHÚA, xin đối xử nhân hậu với người nhân hậu
và những ai lòng dạ thẳng ngay.
Nhưng kẻ ngả theo đường tà bậy,
xin CHÚA đuổi đi cùng bọn làm điều ác.
Nguyện chúc Ít-ra-en được thái bình!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của
Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban
cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện
xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những
chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với
Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Amen.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét