Trang

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2018

25-03-2018 : (phần I) CHÚA NHẬT VI MÙA CHAY năm B - LỄ LÁ


25/03/2018
Chúa Nhật tuần 6 Mùa Chay năm B
Lễ LÁ
(phần I)
Kiệu Lá:

Bài Phúc Âm: Mt 11, 1-10
"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con 'Sao các ông làm thế?', thì hãy nói rằng: 'Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'". Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: "Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?" Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài nàyGa 12, 12-16
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có đám đông dân chúng đến dự lễ, vừa nghe biết Chúa Giêsu đến Giêrusalem, họ liền cầm cành lá đi đón Người và tung hô rằng: "Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!" Chúa Giêsu gặp một lừa con, liền cỡi lên, như có lời chép rằng: "Hỡi con gái Sion, đừng sợ chi, này vua ngươi cỡi lừa con đến". Thoạt đầu, các môn đệ Người không hiểu các lời này, nhưng khi Chúa Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại những lời đó đã chép về Người và người ta đã làm những điều ấy cho Người.
Ðó là lời Chúa.

Thánh Lễ:

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Mc 14, 1 - 15. 47 (bài dài)
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:
S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"
C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".
C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:
J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".
C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người đáp:
J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".
C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".
C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:
J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô thưa Người:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không".
C. Chúa Giêsu bảo ông:
J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".
C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:
S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả đều nói như vậy.
Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".
C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".
C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:
J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi".
C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".
C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh".
C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:
S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".
C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:
S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông".
C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:
S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây".
C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?"
C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:
S. "Hãy đoán xem!"
C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét".
C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:
S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì".
C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:
S. "Ông này thuộc bọn đó".
C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".
C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:
S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó".
C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.

Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39
C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"


Suy Niệm: Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Bốn mươi ngày của mùa Chay đã chấm hết để nhường chỗ cho Tuần Thánh, tuần Khổ nạn của Ðức Yêsu. Năm nay Người lại vào thành Yêrusalem; Người sẽ được cộng đoàn giáo dân hoan hô, để rồi lại sẽ bị kết án và tử hình trên Thập giá! Người lại đau khổ và đang đau khổ qua thân phận làm người của chúng ta.
Nghe lại những bài đọc Kinh Thánh trong Chúa Nhật mở đầu tuần Thương khó, chúng ta nhận thấy, hơn bao giờ hết, khuôn mặt của Ðức Yêsu như hiện ra cách rõ rệt, cụ thể. Người trở nên thật sự "cái đinh" của các nghi lễ Phụng vụ, khiến ta có thể quả quyết là tất cả mọi tư tưởng, tất cả mọi nhân vật đều đang chú tâm theo dõi những bước đi của Người.
Thánh sử Marcô năm nay thuật lại các việc Ðức Yêsu tiến vào Yêrusalem. Cũng như thánh Matthêu, Luca và Yoan, Marcô ghi lại biến cố này với một sắc thái đặc biệt. Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước thái độ xem ra có vẻ mâu thuẫn của Người: Người vẫn khước từ mọi lời tung hô, mọi câu tán tụng và nhất là luôn từ chối nguyện vọng của dân chúng, khi họ định tôn phong Người lên làm vua (Yn 6,15; Cf Mc 6,45; Mt 14,22). Thế mà, trong bối cảnh thuật lại ở Marcô 11,1-11, Ðức Yêsu chẳng những không khước từ lời tán tụng, mà còn đóng vai chủ động khi bảo hai môn đệ chuẩn bị cuộc "đăng quang" cho mình (Mc 11,1-3).
Ngoài ra, Yêrusalem không phải là một thành phố xa lạ đối với Người: từ lúc bé, Người đã được cha mẹ đem lên đây để được dâng hiến cho Thiên Chúa (Lc 2,22-39); lúc đến tuổi thành niên về phương diện tôn giáo, Người cũng đã trẩy hội hành hương Yêrusalem (Lc 2,41-49); trong suốt gần 3 năm hoạt động công khai, từ mùa xuân 28 đến mùa xuân 30, thánh Yoan cũng đã ghi lại nhiều lần Ðức Yêsu xuất hiện ở Yêrusalem (Yn 2,23; 7,10-14; 12,12). Nhưng lần này, sự xuất hiện của Người ở đây mang một ý nghĩa đặc biệt: vào Yêrusalem để thực hiện "giờ" của Người.
Quả vậy, đoạn văn của Marcô mở ra cho chúng ta bối cảnh đó: Ðức Yêsu vào Yêrusalem với tư cách là Vị Thiên Sai của Thiên Chúa, Vị Thiên Sai Thiên Chúa hứa ban cho Dân Người, Vị Thiên Sai đã từng được loan báo qua các sấm ngôn của Kinh Thánh:
"Dòng dõi Người sẽ đạp dập đầu ngươi..." (Kn 3,15).
"Vương trượng sẽ không xa lìa khỏi nhà Yuđa, chiếc gậy thủ lãnh cũng sẽ không rời khỏi chân Người, cho đến khi xuất hiện..." (Kn 49,10).
"Ngay trong dân tộc ngươi, ngay giữa anh em ngươi, Yavê Thiên Chúa sẽ gầy dựng cho ngươi một vị tiên tri như Ta! Các ngươi phải nghe theo Người!" (Tl 18,15).
"Ta sẽ củng cố ngai báu của Người đến muôn đời..." (2S 7,12-16).
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan!
Hỡi thiếu nữ Yêrusalem, hãy reo hò!
Này đây Vua ngươi đến cùng ngươi..." (Za 9,9).
Nhưng có thật Ðức Yêsu là Vị Thiên Sai mà mọi người mong đợi không?
Thánh Marcô trong bài ghi lại việc Ðức Yêsu vào Yêrusalem (11,1-11) và cuộc thọ hình của Người (14,1-15,47) sẽ soi sáng cho chúng ta tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi trên:
"Ðấng Thiên Sai đến như một nô bộc!"

1. Ðấng Thiên Sai Ðến
Việc Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem không những khiến chúng ta liên tưởng đến những cuộc đăng quang hay kinh lý của các hoàng đế La Mã, Hylạp ngày xưa, mà còn như diễn lại cảnh lên ngôi của các vị vua trong lịch sử Dothái.
Ðavít đã ra chỉ thị rõ rệt về việc đăng quang của Salômon:
"Các ngươi hãy cho đoàn phòng vệ tháp tùng rồi hãy đặt Salômon ngồi trên chính con lừa của ta, đoạn dẫn người đến thung lũng Ghikhon..." (1V 1,33).
Hoặc trong bối cảnh Yêhu được đặt làm vua, Thánh Kinh thuật lại:
"Tức thì họ cởi áo choàng của mình ra và trải dưới đất người. Họ thổi tù và và la to: "Yêhu là vua!" (2V 9,13).
Khi ghi lại biến cố trên, chắc hẳn Marcô như muốn trình bày cho ta thấy rõ chính dân Yêrusalem đã tiếp đón Ðấng Thiên Sai và rước Người vào thành của mình.
Ngoài ra, hai từ ngữ quan trọng của Marcô giúp ta thêm xác tín về thân thế và sứ mạng của Ðức Yêsu: đó là tước hiệu "Chúa" mà chính Ðức Yêsu gán cho mình, cũng như lời hoan hô của dân chúng: "Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Marcô sử dụng danh từ "Chúa" (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, hoặc dùng trong ngôn ngữ xã giao hằng ngày... như tiếng "ông", tiếng "Ngài" của chúng ta chẳng hạn hoặc để chỉ Ðức Yavê Thiên Chúa theo bản dịch LXX, và khi nói về Ðức Kitô thì từ ngữ thông dụng nhất là "Thầy" hoặc "Con Người", chứ không phải là "Chúa". Câu 3 đoạn 11 là trường hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ "Chúa" được áp dụng cho Ðức Yêsu, mà lại do chính Người nói về mình.
"Nếu có ai hỏi chúng con: "Tại sao các ông làm như thế?", thì các con hãy đáp: "Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau" (Mc 11,3).
Ðó chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức Kitô Phục sinh: "Chúa Yêsu Kitô".
Ðồng thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng mang một ý nghĩa rõ rệt:
"Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến" (Mc 11,9).
Trong khi Luca lại ghi:
"Chúc tụng Ðức Vua..." (Lc 19,38).
Các lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Yêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai đang đến với Dân Người.
Lời hoan hô đó là tiếng nói thoát ra từ tâm tình Thánh vịnh ca ngợi 118,25-26. Dân Dothái thường hát bài tán tụng này vào các dịp đại lễ, đặc biệt dịp lễ Vượt qua để tán dương Thiên Chúa.
Hosanna! Xin hãy thi ân! (2S 14,4).
Có nghĩa: Xin hãy cứu tôi!
Xin dủ tình ban ơn cứu độ!
Trong khung cảnh tưng bừng, giữa tiếng ồn ào náo nhiệt của dân chúng, Marcô ghi thêm: "Ðức Yêsu đã tiến vào đền thờ Yêrusalem".
Người đến như một Vị Thiên Sai. Dân chúng đón tiếp Người với nghi lễ xứng đáng dành cho một Vị Thiên Sai như thấy mô tả trong Kinh Thánh (Za 9,9), nhưng bí mật vẫn bao trùm trên Người:
"Sau khi quan sát chung quanh,
và vì trời đã về chiều,
Người ra khỏi thành để trở về Bêthania với 12 môn đệ!" (Mc 11,11).
Dân chúng hoan hô Người! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê, một Ðavít, một Salômon xưa, hoặc như một lãnh tụ trong ngày công khai ra mắt, nhưng tại sao Người không lưu lại Yêrusalem, hoặc tại sao không đọc một tuyên ngôn vạch rõ chương trình hoạt động?
Người đã khiến đám dân ủng hộ mình phải thất vọng, hoặc chính Người đã phải chua chát trước thái độ vụ hình thức và không hiểu biết của họ...? Hầu như để bổ túc và giải đáp bí ẩn đó, Marcô mới mời gọi chúng ta nghe thuật lại cuộc Khổ nạn của Người (Mc 14,1-15,47).

2. Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Quả thật dân chúng đã không gặp được nơi Ðức Yêsu vinh hiển vào Yêrusalem như một Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, cũng như không tìm thấy nơi Người khuôn mặt kiêu hãnh của một vị lãnh tụ, khả dĩ đáp lại nỗi chờ mong của họ.
Ðức Yêsu đã vào Yêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Sự thật quá phũ phàng!
Có lý nào Ðấng Thiên Sai toàn dân mong đợi trông lại thê thảm và tầm thường như thế?
Bằng một lối tả chân sống động, Marcô loan báo cho ta việc Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi một cách "tréo cẳng ngỗng", không ai có thể ngờ!
Ngoài vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Ðệ nhị Isaia mà Ðức Yêsu đã sống lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại cho chúng ta, sau biến cố vào Yêrusalem, đó là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức Yêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!
Marcô đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Yêsu sau những tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh!
Tại Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người, thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).
Lúc Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn chối từ (Mc 14,62-71). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối:
Ngoài ra, đóng vai thân phận người nô bộc Yavê "bị hành hạ, nhưng Người vẫn khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con trừu bị điệu đi giết, như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng" (Is 53,7).
Qua sự im lặng lạ kỳ này, Ðức Yêsu, như muốn mời gọi và khiêu khích tính tò mò của ta:
"Ông ấy có phải là Ðấng Thiên Sai thật không?"
Những ai chờ đợi nơi Người những hành động phi thường, những biện bác hùng hồn, chắc hẳn đã thất vọng! Vì nếu họ không hiểu được Người, làm thế nào có thể khiêm nhường và im lặng khám phá ra ý nghĩa của nghịch cảnh khổ giá mà Người sẽ chịu sau này?
Trước cảnh lạ đời ấy, có lẽ chỉ có "những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ, những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói" (Lc 4,18; Cf Is 61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.
Ðức Yêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người nô bộc; chân lý đó sau này trong tư thế của "con người ngã ngựa", Phaolô sẽ xưng tụng bằng bài ca tuyệt tác trong Ph 2,6-11 mà lịch sử Giáo hội không ngớt loan truyền và làm chứng. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Yêrusalem xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của dân Dothái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.


Giảng Lễ
Ngày Chúa nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Yêrusalem. Dân chúng đã đón rước Người như trong một cuộc khải hoàn. Họ chặt lá, cởi áo trải ra đường để Người đi qua. Họ tung hô chúc tụng Người là Con Vua Ðavít, là Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa. Họ muốn lần này Người dứt khoát tuyên bố mình là Thiên Sai và thiết lập triều đại mới cho dân tộc đã từng bao năm chờ đợi được giải phóng.
Nhưng nhìn vào Chúa, những người có kinh nghiệm thấy ngay khuôn mặt Người không diễn tả những cảm tình của quần chúng. Người không đến đáp lại những chờ đợi trần gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ tôn nghiêm của Ngôi Ðền Thờ. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương khó tường thuật cuộc Thụ khổ như chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục trên Thập giá.
Hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành, Phụng vụ muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, chúng ta đã rõ. Nhưng hôm nay, Giáo hội muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh. Thế mà có nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng Dothái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày Chúa nhật Lễ Lá nhưng như trong bài Thương khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh Chúa. Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Yêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ: xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng cao cả của Người.
Dĩ nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Dothái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền. Mùa Chay khuyến khích, đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mài có thể bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không. Chỉ có Ðức Maria và một số người rất ít.
Như vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình. Ðiều cốt yếu trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.
Cuộc sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước hạnh phúc trường cửu của mình.
Người biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy sinh tư kỷ cho hạnh phúc của đồng bào, làm gương và giúp ích được cho việc xây dựng quê hương dân tộc. Chúa Yêsu biết trước môn đệ của mình nhút nhát, sợ đi vào con đường Thập giá. Nhưng Người đã hứa ban Thánh Thần cho các ông sau khi sống lại. Và quả thực, khi nhận được Thánh Thần rồi, các tông đồ không còn ham sống, sợ chết nữa, nhưng nhiệt thành xả kỷ theo chân Chúa tiếp tục việc cứu thế. Ngày nay, chúng ta cũng có ơn Thánh Thần để sẵn trong mầu nhiệm Thánh Thể, để ai có lòng tin nhận lấy, sẽ được thêm tinh thần của Ðức Kitô, không ngại xả thân cứu đời, và hằng lập đi lập lại câu nói diễn tả đường lối Thánh Kinh, đường lối dẫn đến hạnh phúc chân thật: "Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang". Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.
Hôm nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của Người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét