25/03/2018
Chúa Nhật tuần 6 Mùa Chay năm B
Lễ LÁ
(phần II)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Lá, Năm
B
Bài đọc: Isa
50:4-7; Phi 2:5-11; Mk 14-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô
Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể
thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng
cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được
thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào
Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng,
gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến
trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan
thiện như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của
Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người
Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi
những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu
phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên
Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong
Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài
gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI
ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu
đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người
ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm
tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự
giải thóat của Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người Tôi Trung của
Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.”
1.2/ Người Tôi Trung biết
nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những
chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng
khác kèm theo: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường … Người Tôi Trung của Thiên
Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ
những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi
nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người
môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường
chịu đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của
Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với
nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn
dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều
này làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra
khỏi thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị
giam hãm trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có
uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện
theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con
người.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu
tôn Đức Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng
lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng
vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu
tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy,
khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn
vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các
tín hữu: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi
người” (Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được
hưởng vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo Thánh Marcô
3.1/ Chuẩn bị Cuộc Thương
Khó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh
Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi;
vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động."
Lễ Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư. Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày sau Lễ
Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người
Do-thái nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khỏang 15 dặm của
Jerusalem, phải lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath áp dụng cho
các lễ này. Các thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp rất
đông ở Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải cầu
viện với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là tại
cứ điểm Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có thể
lên tới 2, 3 triệu người, cứ 10 người sát tế một con chiên. Lễ Vượt Qua có lịch
sử trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong đêm này, sứ thần
của Thiên Chúa sẽ vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập;
nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần sẽ băng ngang qua và không
vào tàn sát.
Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu
một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với
Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi
và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai,
và đưa họ về cho Thiên Chúa.
(1) Xức dầu thơm táng xác Chúa và sự phản bội của Judah Iscarioth:
- “Lúc đó, Chúa Giêsu đang ở làng Bethany, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người
dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm
cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.”
Bethany là một làng nhỏ, nơi mà Chúa thường xuyên lui tới và cho Lazarus sống lại.
Làng này nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Jerusalem, và được kể như vùng ngọai
ô. Khách tới Jerusalem dự lễ có thể hợp pháp trú ngụ tại đây để mừng lễ. Ai là
người phụ nữ đã tỏ hành động yêu thương này với Chúa Giêsu? Có người cho là
Mary, em của Martha, người ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe lời Người, khi
Chúa Giêsu đến dùng bữa với hai chị em lần trước. Theo lệ thường, họ chỉ rửa
chân và xức vài giọt nước hoa trên đó; nhưng người phụ nữ này dường như đã biết
trước những gì sẽ xảy ra cho Chúa Giêsu, cô đập tan nát bình để lấy dầu thơm đổ
trên đầu Người.
- Phản ứng của khách dự tiệc: Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau:
"Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm
quan tiền mà bố thí cho người nghèo." Rồi họ gắt gỏng với cô. Bethany còn
được mệnh danh theo tiếng Do-thái là “nhà của người nghèo, beth aôni.”
Có lẽ đó là lý do mà người ta gắt gỏng với cô. Ba trăm quan là một số tiền lớn,
tương xứng với 300 ngày làm việc.
- Phản ứng của Chúa Giêsu: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy
vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh
mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng
có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để
chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu
trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới
cô." Chúa Giêsu biết rõ ý định của người phụ nữ: ướp xác khi Ngài còn đang
sống. Có những lúc cần phải tiêu những món tiền lớn để tỏ tình yêu và sự quan
tâm đến người mình yêu; chứ không phải lúc nào cũng so đo tính tóan hơn thiệt.
Những gì Chúa Giêsu nói tiên tri trở thành hiện thực. Người phụ nữ tỏ tình yêu
cho Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử; mỗi năm, cô đều được mọi người công khai nhớ
tới.
- Ngược lại với tình yêu chân thành và không tính tóan hơn thiệt của người phụ
nữ là hành động tính tóan và phản bội của Judah Iscarioth: “một người trong
Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng
và hứa cho tiền. Judah liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” Trình thuật của
Matthew nói rõ số tiền bán Chúa là 30 đồng tiền bạc (Mt 16:15). Gioan nói rõ
Judah là quản lý của Nhóm Mười Hai, và thường ăn bớt tiền để tiêu riêng (Jn
12:6). Chúng ta phải rất cẩn trọng, vì lòng ham mê tiền bạc làm con người coi
thường tín nghĩa; nó có thể làm con người quay lưng lại với sự thật, tình yêu,
và sự trung tín.
- Có người cho sở dĩ Judah hành động như thế là để bắt Chúa Giêsu phải ra tay
hành động như một Đấng Thiên Sai uy quyền mà dân chúng mong mỏi; nhưng khi
Judah tìm ra sự thật – Chúa chết đau khổ thực sự - thì đã quá muộn, hắn quăng
tiền trở lại cho người trả hắn; và xấu hổ ra đi thắt cổ tự vẫn! (Mt 27:3-5).
(2) Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần
Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu:
"Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
- Chúa Giêsu luôn sẵn sàng mọi sự, Ngài không để sự gì “nước tới chân mới nhảy.”
Giống như khi Ngài chuẩn bị để có một con lừa để cỡi khi long trọng vào Thành,
Chúa Giêsu cũng chuẩn bị sẵn một căn phòng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ.
Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một
người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào,
các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt
Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng
rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho
chúng ta." Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người
đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
- Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua và lời tiên đóan phản bội: “Chiều đến, Đức
Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo
thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với
Thầy." Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người
chấm chung một đĩa với Thầy. "
- Phản ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế họach của Thiên Chúa.
Ngài có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi
bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng
Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự
do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi
theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng
sinh ra thì hơn!”
- Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người:
"Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai
trong trình thuật của Marcô, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông
có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
(3) Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa
Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói:
"Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng
lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các
ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật
anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy
uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su
và các môn đệ ra núi Ôliu.
- Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu
những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải
dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được
những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé
chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn
Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng
xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến
cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ
Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
* Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra
như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ
ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
* Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo
Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người
Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước
cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một
Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội
cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên
Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của
Chúa Giêsu sắp đổ ra.
- Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết,
nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá,
nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài
cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
(4) Chúa Giêsu tiên đoán sự phản bội của các môn đệ: Chúa Giêsu nói với các
ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người
chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee
trước anh em."
- Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy
dỗ, biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ
chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn
hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
- Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả
có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với
ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần,
thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả
quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất
cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ
xảy ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho
mình. Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay
chính mình nói.
(5) Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Ghetsemane: Sau đó, Chúa Giêsu và các môn
đệ đến một thửa đất gọi là Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi
lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê
và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các
ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức."
Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ
mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả
của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay
hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ
mình:
- Cầu nguyện lần thứ nhất: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu
xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Abba, Cha
ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con
muốn, mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi
những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin
Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của
Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của cuộc đời, con người cũng
sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng vắng mặt. Trong những lúc
như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết.
Rồi Người trở lại tìm sự an ủi nơi con người, Ngài thấy các môn đệ đang ngủ, liền
nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh
em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,
nhưng thể xác lại yếu đuối." Con người hứa hẹn rất nhiều, nhưng khi cần sự
an ủi, chẳng có một ai. Trước giờ kinh hoàng sắp xảy đến, các ông vẫn ngủ; dù
chỉ một giờ Chúa cần để cùng thức với Ngài, các ông cũng không thức nổi. Chúa
nhắc nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không
nghe thấy: Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì
hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người
không chuẩn bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
- Cầu nguyện lần thứ hai: Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi
Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết
trả lời làm sao với Người.
- Cầu nguyện lần thứ ba: Sau khi cầu nguyện, Người trở lại và bảo các ông:
"Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người
bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
3.2/ Cuộc Thương Khó bắt
đầu:
(1) Sự phản bội của Judah: Hắn biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện;
và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn:
"Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận."
Judah tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền
tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau;
người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để
phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình
thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài
nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
- Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được
nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với
tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
- Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo
gậy gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà
các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm."
- Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.”
Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy
và phải chịu thiệt thân.
(2) Cậu thanh niên theo Chúa bỏ chạy: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi
theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm
vải lại, bỏ chạy trần truồng.”
Ai là người thanh niên này? Trước hết, hai câu này chỉ có trong Marcô mà thôi.
Phải có lý do tại sao câu này chỉ có trong trình thuật của Marcô. Nhiều người
suy đoán cậu thanh niên này chính là John Marcô, tác giả Tin Mừng Marcô. Khi những
điều này xảy ra, cậu vẫn còn nhỏ; và nhà cậu ở không xa chỗ Chúa Giêsu dùng Lễ
Vượt Qua bao nhiêu (Acts 12:12). Có người cho cậu thấy Judah dẫn người Do-thái
đến bắt Chúa Giêsu tại nơi dùng Lễ Vượt Qua. Khi nghe Judah nói sẽ dẫn họ tới
Vườn Ghetsemane, cậu vội cuốn tấm vải gai vào người và chạy vội đi loan báo cho
các môn đệ trong đêm tối; nhưng khi đến nơi, họ đã tới trước cậu. Có người cho
cậu đã có mặt trong Vườn Ghetsemane với Chúa ngay từ đầu. Đó là lý do cậu chứng
kiến toàn thể cuộc hấp hối của Chúa Giêsu và tường thuật lại chi tiết, vì các
môn đệ đều ngủ cả; và Chúa Giêsu không có cơ hội để nói lại cho các môn đệ, nhất
là Phêrô, Thầy của Marcô.
Hai câu này có lẽ thuộc về Marcô. Cậu muốn cho mọi người biết cậu là nhân chứng
khi những điều này xảy ra. Có lẽ vì khiêm nhường, cậu không muốn mọi người biết
tên cậu.
(3) Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng
Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm
có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên
các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền
giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền
Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó.
Luật không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng
chỗ, các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải
được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc
riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần
thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có
cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ
Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa
Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng
gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
- Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có
nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba
ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng
ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng
gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c
Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ
thân thể của Ngài.
- Tội phạm thượng: Vị Thượng Tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô,
Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính
thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời
mà đến." Vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì
nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ
sao?"
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật
không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời
có thể liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời
khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối.
Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó
là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời,
Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại
cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc
tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài
chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương
Khó.
Nghe lời Vị Thượng Tế buộc tội Chúa Giêsu, tất cả đều kết án Người đáng chết.
Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người
vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
(4) Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô
theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với
đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn
cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
- Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng
Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa,
bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền
chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra
phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy,
cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
- Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng
đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối.
- Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng
là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền
thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người
các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều
Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy
đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không
dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình,
và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng
cho Chúa Giêsu.
(5) Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với
các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức
Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những
vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi
đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do
chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ
không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật của Luca
ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa
Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại
quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
- Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân
Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng
tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời
gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu
không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng
"Đúng như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải
là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa
tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi
không thuộc về thế gian này ... ” (Jn 18:36).
- Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabba: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông
thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên
là Barabba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi
dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ
yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua
dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp
Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên
Barabba thì hơn.”
- Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi:
"Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?"
Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi:
"Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh
nó vào thập giá!"
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng
thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh
vào thập giá.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường,
tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm
áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái
chào Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên
đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo
điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng
đinh vào thập giá.”
- Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền
quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông
Alexandre và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người
lên một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho
Người, nhưng Người không uống.”
(6) Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá:
- Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập
giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng
đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người
Do-thái." Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải,
một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những
tên phạm pháp).”
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ
phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi
thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
- Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau:
"Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống
khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng
chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
- Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt
đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
"Eloi, Eloi, lama sabacthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên
Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền
nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt
biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói:
"Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không."”
- Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi
tắt thở.Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
- Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa."
- Các phụ nữ dưới chân Thập Giá: 3 phụ nữ? Đức Mẹ Maria? Nhiều bà khác?“ Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Magdala, bà Maria mẹ
các ông Giacôbê Thứ và Joseph, cùng bà Salômê. 41 Các bà
này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilee. Lại có nhiều bà
khác đã cùng với Người lên Jerusalem, cũng có mặt tại đó.”
(7) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu:
- Ông Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp
lễ, tức là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành
Arimathea, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi
Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi
hài Đức Giêsu.”
- Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết,
ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người
đã chết lâu chưa.Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho
ông Joseph lãnh lấy thi hài.”
- Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu
xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi
đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph,
thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
- Đau khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những
người đồng cảnh ngộ.
- Qua Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự
gian dối ác độc của con người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
25/03/2018
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Mc 14,1-15.47
Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Mc 14,1-15.47
ĐÃ ĐẾN LÚC CON NGƯỜI
ĐƯỢC TÔN VINH
Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ Bánh không men, các thượng
tế và kinh sư bày mưu tính kế bắt Đức Giê-su để giết Người; vì họ nói: “Đừng
làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” (Mc 14,1-2)
Suy niệm: Được tôn vinh là đạt đến đỉnh cao của danh dự. Và hành trình đạt đỉnh ấy
bao giờ cũng phải trải qua những gian nan, bởi không qua đau khổ sẽ chẳng
đạt đến vinh quang (Lc 24,26). Ca sĩ phải khổ luyện mới hy vọng có được
giọng hát hay. Vận động viên phải miệt mài với các bài tập để mong đạt được
thành tích tốt. Cũng vậy, con đường đến vinh quang của Đức Giê-su phải trải qua
những đau khổ, mà khởi đầu là việc các thượng tế và kinh sư âm mưu giết hại
Ngài. Đành rằng Ngài phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, nhưng khốn cho kẻ
tra tay hại Ngài (x. Mt 26,24). Xét cho cùng, họ là những người đáng thương hơn
là đáng ghét, chẳng qua vì họ không biết việc họ làm. Thế nên, khi
được tôn vinh, họ là đối tượng đầu tiên được Chúa Giê-su nhớ đến, Ngài đã tha
thiết khẩn cầu ơn tha thứ cho họ (x. Lc 23,34).
Mời Bạn: Một khi mang danh Ki-tô hữu là đời mình đã gắn liền với thập giá Chúa
Ki-tô – bởi vì người Ki-tô hữu được mời gọi vác thập giá theo Chúa mỗi ngày. Vì
thế, bạn không chỉ nỗ lực trở nên giống Ngài trong việc đón nhận thập giá, mà
còn ứng xử giống như Đấng mời gọi bạn vác thập giá ấy.
Sống Lời Chúa: Dâng những hy sinh trong Tuần Thánh để cầu nguyện cho những người đã
hoặc đang gây sự khó cho ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa được tôn vinh trên thánh giá. Xin
cho con biết kết hiệp cùng Chúa luôn.
(5 phút Lời Chúa)
XIN ĐỪNG THEO Ý CON (25.3.2018 – Chúa nhật Lễ Lá)
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế... Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
– Rước lá –
Suy niệm:
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ
vui,
nhưng cũng là ngày tưởng
niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai
đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Ðức
Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang
dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm
liệt trên lưng lừa.
đi trên con đường của
những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám
rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô,
chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây,
chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự
cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi
khi nghe bài Thương Khó,
và thấy mình dửng dưng,
xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và
cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu
mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương
Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua
từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong
lúc khó khăn này.
Cần cảm nghiệm được nỗi
cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ
rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài
một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài
bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài
mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề quen
biết Ngài.
Ðức Giêsu cô đơn trước
đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng
đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua
Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã
nuôi ăn, nay ở đâu?
Những người mới tung hô
Ngài, nay ở đâu?
Ðức Giêsu đã đi đến tột
cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính
Cha cũng vắng bóng:
Lạy Thiên Chúa tôi, tại
sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau
trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của
Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát,
bị đánh túi bụi.
Ðôi mắt với cái nhìn bao
dung ấy
nay bị bịt lại để làm một
trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi
đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho
những trận roi cầy nát.
Ðôi bàn tay đã chữa bệnh
và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì
những mũi đinh.
Ðôi bàn chân từng rong
ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả
thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục
của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn
là điều đáng trọng.
Ðức Giêsu bị bắt làm hề,
đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được
đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái
lạy như vị vua này không?
Ðức Giêsu bị lột áo trước
khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt
trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa
vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của
tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá
của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập
giá của họ.
Ước gì thế giới có thật
nhiều Simon Kyrênê.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ
sức đối diện
với những khó khăn gay
gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm
bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em
được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh
tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng
được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với
trời,
con người nối lại mối dây
liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản
bình an. Amen.
– Thánh lễ –
Suy niệm:
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui,
nhưng cũng là ngày tưởng
niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai
đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Ðức
Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang
dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm
liệt trên lưng lừa.
đi trên con đường của
những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám
rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô,
chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây,
chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự
cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi
khi nghe bài Thương Khó,
và thấy mình dửng dưng,
xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và
cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu mến tôi
(x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương
Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua
từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong
lúc khó khăn này.
Cần cảm nghiệm được nỗi
cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ
rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài
một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài
bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài
mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề
quen biết Ngài.
Ðức Giêsu cô đơn trước
đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng
đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua
Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã
nuôi ăn, nay ở đâu?
Ðức Giêsu đã đi đến tột
cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính
Cha cũng vắng bóng:
Lạy Thiên Chúa tôi, tại
sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau
trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của
Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát,
bị đánh túi bụi.
Ðôi mắt với cái nhìn bao
dung ấy
nay bị bịt lại để làm một
trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi
đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho
những trận roi cầy nát.
Ðôi bàn tay đã chữa bệnh
và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì
những mũi đinh.
Ðôi bàn chân từng rong
ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả
thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục
của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn
là điều đáng trọng.
Ðức Giêsu bị bắt làm hề,
đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được
đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái
lạy như vị vua này không?
Ðức Giêsu bị lột áo trước
khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt
trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa
vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của
tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá
của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập
giá của họ.
Ước gì thế giới có thật
nhiều Simon Kyrênê.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh
trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo
khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến
trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ
sức đối diện
với những khó khăn gay
gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất
công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và
nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em
được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá
nặng nề,
xin cho những người bệnh
tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng
đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng
được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết
trên thập giá,
xin cho đất nối lại với
trời,
con người nối lại mối dây
liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh
trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết
đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản
bình an. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG BA
Người Phụ Nữ Khôn
Sánh
Trong biến cố Truyền
Tin, Đức Maria bày tỏ sự ưng thuận với sứ thần. Bản trình thuật của Luca – dù
thật vắn tắt – vẫn vừa vô cùng hàm súc các nguồn Cựu Ước vừa nổi bật đặc tính mới
mẻ của Kitô giáo. Nhân vật chính trong câu chuyện này là người ‘mệnh phụ’ (Ga
2,4) được tuyển chọn từ đời đời để làm cộng tác viên thiết yếu đệ nhất cho kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó là almah – hay thiếu nữ – đã được ngôn sứ Isaia
báo trước (Is 7,14). Đó là cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc, được gọi là Myriam,
Maria ở Na-da-rét, một làng quê nghèo nàn lẩn khuất nhất miền Ga-li-lê (Ga
1,46). Nét mới mẻ độc đáo của Kitô giáo ở đây chính là sự kiện một phụ nữ được
đặt vào một địa vị cao vời khôn sánh. Sự kiện này thật không thể quan niệm được
đối với não trạng Do Thái thời ấy, cũng như đối với nền văn minh Hy La vốn đang
cường thịnh lúc bấy giờ.
Sứ thần Ga-bri-en đã
chào Maria với những lời lẽ hết sức trịnh trọng đến nỗi làm Maria kinh sợ:
“Khaire – Ave – Mừng vui lên!” Lần đầu tiên, niềm vui cứu độ âm vọng trên mặt đất.
“Kekharitomene – gratia plena – Bà đầy ân phúc!” Đây là Đấng Vô Nhiễm, được chạm
khắc trong sự sung mãn nhiệm mầu của sự tuyển chọn của Thiên Chúa, của sự tiền
định từ đời đời, của sự trong sáng tuyệt diễm. “Dominus tecum – Thiên Chúa ở
cùng Bà!”
Thiên Chúa ở với Đức
Maria, một thành viên của gia đình nhân loại được tuyển chọn để làm Mẹ Đấng
Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” Từ bây giờ và cho đến mãi mãi, Thiên
Chúa sẽ ở với con người. Thiên Chúa sẽ không quay lưng lại và sẽ không bỏ con
người chơi vơi. Thiên Chúa đã tự kết hiệp nên một với con người để cứu con người
và trao ban cho con người chính Con Một của Ngài, là Đấng Cứu Độ. Maria trở
thành một bảo đảm cụ thể và sống động của sự hiện diện cứu độ này của Thiên
Chúa.
Thần sứ yêu cầu Maria
ưng thuận cho Ngôi Lời đến trần gian. Câu trả lời của Maria chính là tiếng vọng
lại hoàn toàn từ tiếng đáp trả của Ngôi Lời đối với Thiên Chúa Cha: “Này con
đây”. Chính nhờ được dẫn trước và được hỗ trợ bởi lời đáp trả “Này con đây” của
Con Thiên Chúa mà Maria đã có thể thưa lên “Này con đây”. Chính tại khoảnh khắc
Maria thốt lên lời ưng thuận, Con Thiên Chúa trở thành Con Người. Ngày Lễ Truyền
Tin, chúng ta cử hành mầu nhiệm nền tảng là cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời. Thư Do
Thái cho phép chúng ta đi sâu vào những chiều sâu khôn dò của sự tự hạ này của
Ngôi Lời – tự hạ vì yêu con người cho đến chết trên thập giá.
“Khi vào trần gian, Đức
Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.
Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về
con.’”Dt 10,5-7
Chúa đã tạo cho con một
thân thể. Việc cử hành Lễ Truyền Tin hôm nay dẫn chúng ta trực tiếp đến với
ngày Giáng Sinh, sau chín tháng. Các anh chị em tín hữu của chúng ta ngay trong
những thế kỷ đầu tiên đã nắm bắt rất rõ ý nghĩa mầu nhiệm này – một mầu nhiệm
đưa dẫn chúng ta tới cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Lễ
Truyền Tin rơi vào Mùa Chay – sự kiện này giúp chúng ta nhận hiểu ý nghĩa cứu
chuộc của nó: Cuộc Nhập Thể gắn kết chặt chẽ với công cuộc cứu chuộc mà Đức
Giêsu hoàn thành bằng việc đổ máu vì chúng ta trên Thập Giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét