31/03/2018
Thứ bảy tuần thánh
Ðêm Thánh Vọng Chúa Phục Sinh
(phần I)
(Ðề nghị đọc chín
bài đọc, bảy bài Trích ở Cựu Ước và hai bài trích ở Tân Ước. Nếu hoàn cảnh
không cho phép, và khi có lý do đặc biệt, có thể bớt số bài đọc. Nhưng phải đọc
ít là ba bài trích ở Cựu Ước trước Thánh Thư và Tin Mừng; còn nếu gấp quá, thì
đọc ít là hai bài đọc trước Thánh Thư và Tin Mừng. Nhưng không khi nào được bỏ
bài trích sách Xuất Hành (Xh 14, 15 - 15, 1) nói về việc qua Biển Ðỏ.)
Bài Ðọc I: St 1, 1 - 2,
2 {hoặc 1, 1. 26-31a}
"Thiên Chúa thấy
mọi sự Người đã làm thật là tốt đẹp".
Trích sách Sáng Thế.
Từ nguyên thuỷ Thiên
Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực
thẳm, và thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.
Thiên Chúa phán:
"Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp,
Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm
là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa phán:
"Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước"; và Thiên
Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía dưới vòm trời với nước phía trên
vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều
và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
Thiên Chúa phán:
"Nước dưới trời hãy tụ lại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như
vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên
Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh
tươi mang hạt giống; và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái
có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc
xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo
loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó
là ngày thứ ba.
Thiên Chúa còn phán:
"Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở
thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi
sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn:
Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; Và
Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng
trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên
Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa lại phán:
"Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát, và loài chim bay trên mặt đất,
dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà
nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy
chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở
cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất". Qua
một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa lại phán:
"Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã
thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên
dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc, và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống.
Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên
con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã
thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất".
Vậy Thiên Chúa đã tạo
thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh
Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên Chúa chúc phúc
cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống
trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang
hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta
ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim
trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy.
Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ sáu.
Thế là trời đất và mọi
trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc
Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người
nghỉ ngơi.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn
này: St 1, 1. 26-31a
Trích sách Sáng Thế.
Từ nguyên thuỷ Thiên
Chúa đã tạo thành trời đất. Và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con
người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú
khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất".
Vậy Thiên Chúa đã tạo
thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh
Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên Chúa chúc phúc
cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống
trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang
hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta
ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim
trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy.
Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 4-5.
6-7. 12-13. 20 và 22
Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).
Xướng: 1) Vì lời Chúa
là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều
công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
2) Do lời Chúa mà trời
xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu
nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng.-
Ðáp.
3) Phúc thay quốc gia
mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao
Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái loài người. - Ðáp.
4) Linh hồn chúng tôi
mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. - Lạy Chúa,
xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: St 22, 1-18 (Bài dài)
"Của lễ hiến tế
của Abraham, Tổ phụ chúng ta".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham". Ông đáp lại:
"Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu
của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu
trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Sáng ngày, Abraham dậy sớm, thắng lừa và
đem theo hai đứa đầy tớ của ông, cùng với Isaác con ông, ông chẻ củi dùng vào lễ
thượng hiến, đoạn ông lên đường đến chỗ Thiên Chúa đã tỏ cho ông.
Ngày thứ ba, Abraham
ngước mắt lên và thấy chỗ ấy từ đàng xa. Abraham mới bảo tôi tớ: "Các anh ở
lại đây với con lừa; còn ta và đứa trẻ, chúng ta phải đi tới đằng kia mà thờ lạy,
rồi chúng tôi sẽ về lại với các anh". Abraham lấy củi lễ thượng hiến và
cho Isaác vác đi, còn ông thì cầm lấy lửa và dao phay, rồi cả hai cùng bước.
Isaác cất tiếng nói với Abraham cha cậu rằng: "Cha!" Ông đáp:
"Ta đây, con!" Cậu hỏi: "Này đây đã có lửa và củi, vậy hy sinh
thượng hiến ở đâu?" Abraham đáp: "Chính Thiên Chúa sẽ tự liệu ra hy
sinh thượng hiến, con ạ". Rồi cả hai cùng bước.
Khi hai người đến nơi
Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt
lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ
thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại:
"Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến
nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con
duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực
đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Chỗ
ấy Abraham gọi tên là "Thiên Chúa sẽ liệu", khiến ngày nay người ta
còn nói: "Trên núi Thiên Chúa sẽ liệu".
Thiên thần Chúa gọi
Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm
điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta
chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời,
như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc
trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời
Ta".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn
này: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham". Ông đáp lại:
"Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu
của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu
trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".
Khi hai người đến nơi
Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt
lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ
thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại:
"Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến
nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con
duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực
đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình.
Thiên thần Chúa gọi
Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm
điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta
chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời,
như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc
trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời
Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 5 và 8.
9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa
Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là phần
gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. Con luôn
luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
- Ðáp.
2) Bởi thế, lòng con
vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an
toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân
của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con
biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc
bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài Ðọc III: Xh 14, 15
- 15, 1
"Con cái
Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy,
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ
lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra,
cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng
người Ai-cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ
vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết.
Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ
binh của vua ấy biết".
Sứ thần Thiên Chúa thường
đi trước hàng ngũ Israel, liền bỏ trở lại sau họ. Cột mây thường đi phía trước,
cũng theo sứ thần trở lại phía sau, đứng giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ
Israel. Và đám mây thường soi sáng ban đêm trở thành mù mịt, đến nỗi suốt đêm,
hai bên không thể tới gần được. Môsê giơ tay trên biển, thì bằng một cơn gió
đông thổi mạnh suốt đêm, Chúa dồn biển lui và làm cho biển khô cạn. Nước rẽ ra
và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước dựng lên như bức thành
hai bên tả hữu.
Người Ai-cập đuổi
theo, toàn thể binh mã của Pharaon, chiến xa và kỵ binh đi theo sau Israel vào
giữa lòng biển. Lúc gần sáng, qua cột mây lửa, Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập,
gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người lật đổ bánh xe, khiến xe tiến tới thật
vất vả. Người Ai-cập nói: "Ta hãy chạy trốn Israel, vì Chúa chiến đấu giúp
họ, chống chúng ta".
Chúa phán bảo Môsê:
"Hãy giơ tay trên biển để nước trở lại vùi dập người Ai-cập, chiến xa và kỵ
binh của chúng". Môsê giơ tay trên biển, và lúc tảng sáng, biển trở lại
như cũ. Người Ai-cập chạy trốn, gặp ngay nước biển ập lại. Chúa xô chúng ngã giữa
lòng biển. Nước trở lại, vùi dập chiến xa và kỵ binh. Toàn thể quân lực của
Pharaon đã theo dân Israel xuống biển, không còn tên nào sống sót. Còn con cái
Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước dựng như bức thành hai bên tả hữu.
Ngày đó Chúa cứu Israel khỏi tay Ai-cập. Và họ thấy xác người Ai-cập trôi dạt đầy
bờ, và thấy cánh tay oai hùng của Thiên Chúa đè bẹp Ai-cập. Toàn dân kính sợ
Chúa, tin vào Chúa và vào Môsê tôi tớ người.
Bấy giờ Môsê cùng với
con cái Israel hát mừng Chúa bài ca này:
(Không đọc: Ðó
là lời Chúa).
Ðáp Ca: Xh 15, 1-2.
3-4. 5-6. 17-18
Ðáp: Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả (c.
1a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng
Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống biển khơi. Chúa
là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được cứu thoát. Người
là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ tôi, tôi sẽ hát
ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Chúa như là người
chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ và đạo binh của
Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Ðỏ các tướng lãnh của ông. - Ðáp.
3) Các vực thẳm đã
chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa, tay hữu Chúa biểu
dương sức mạnh; lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù. - Ðáp.
4) Chúa đem con cái
Israel trồng trên núi gia nghiệp Chúa, nơi vững chắc Chúa làm nơi cư ngụ, ôi lạy
Chúa, là cung thánh tay Chúa đã lập nên; Chúa sẽ thống trị muôn đời muôn kiếp.
- Ðáp.
Bài Ðọc IV: Is 54, 5-14
"Trong tình
yêu vĩnh cửu, Chúa Cứu Chuộc đã xót thương ngươi".
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Ðấng đã tạo thành
ngươi thống trị ngươi, danh Người là Chúa các cơ binh, Ðấng Cứu Chuộc ngươi là
Ðấng Thánh Israel, Người sẽ được tôn xưng là Thiên Chúa khắp địa cầu.
Thiên Chúa ngươi đã
phán: "Chúa gọi ngươi như gọi người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, và
như người vợ bị bỏ rơi lúc còn xuân xanh. Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ
ngươi, nhưng Ta sẽ lấy lượng từ bi cao cả mà tụ họp ngươi lại. Trong lúc nóng
giận, Ta tạm ẩn mặt Ta, nhưng vì lòng nhân từ vô biên, Ta thương xót ngươi,
Chúa là Ðấng cứu chuộc ngươi đã phán như vậy.
Cũng như trong thời
Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ngập đất nữa, thì Ta cũng đã thề
rằng Ta sẽ không giận ngươi, không quở trách ngươi nữa.
Dù núi có dời, đồi có
di chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không thay đổi, và giao ước bình an của
Ta cũng sẽ không lay chuyển, Chúa nhân từ của ngươi đã phán như vậy.
Hỡi thành vô phúc, bị
bão táp tàn phá và không ai an ủi, này đây Ta sẽ sắp xếp các viên đá của ngươi
cho trật tự, sẽ đặt nền móng ngươi trên ngọc thạch, sẽ lấy đá hồng xây cửa đồn
ngươi, sẽ lấy thuỷ tinh làm cửa thành ngươi, sẽ dùng đá quý xây tường thành
ngươi.
Tất cả con cái ngươi sẽ
được Chúa dạy bảo, chúng sẽ vui hưởng một nền hoà bình lâu dài. Ngươi sẽ đứng vững
trong công lý, và xa mọi đàn áp, ngươi sẽ không còn sợ, và sống xa mọi khủng bố,
vì sẽ không có ai hãm hại được ngươi nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4.
5-6. 11 và 12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c.
2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy
Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người
đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của
Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài
chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều
hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.- Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm
lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi
lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ
tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc V: Is 55, 1-11
"Hãy đến cùng
Ta và hồn các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ ký kết với
các ngươi một giao ước vĩnh cửu".
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Ðây Chúa phán: Hỡi tất
cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua
lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác
gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà
mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ và các ngươi sẽ được
thưởng thức món ăn mĩ vị.
Hãy lắng tai và đến
cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một
giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít: Ðây Ta đặt ngươi làm
nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư cho các dân tộc. Này ngươi sẽ kêu
gọi dân mà trước ngươi không biết, và các dân trước chưa biết ngươi, sẽ chạy đến
cùng ngươi, vì Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng Thánh Israel, bởi vì Chúa làm
cho ngươi được hiển vinh.
Hãy tìm Chúa khi còn
tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối
mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người
sẽ thương xót, hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải
đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối
Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các
ngươi thể ấy.
Như mưa tuyết từ trời
rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất
phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm
bánh ăn; cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không
sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3.
4bcd. 5-6
Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ
(c. 3).
Xướng: 1) Ðây Thiên
Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì
Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. -
Ðáp.
2) Hãy ca tụng Chúa và
kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại
danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca tụng, vì Người
làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người
cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa
ngươi. - Ðáp.
Bài Ðọc VI: Br 3, 9-15.
32 - 4, 4
"Ngươi hãy đi
trong đường ánh sáng của Chúa".
Trích sách Tiên tri
Barúc.
Hỡi Israel, hãy nghe
các giới răn ban sự sống; hãy lắng tai nghe để hiểu biết sự khôn ngoan.
Hỡi Israel, bởi đâu
ngươi ở trong đất nước quân thù, ngươi mòn mỏi trên đất khách, nhiễm lây nhơ bẩn
của người chết, bị liệt vào kẻ phải xuống địa ngục? Ngươi đã lìa bỏ nguồn khôn
ngoan. Vì chưng nếu ngươi theo đường lối Chúa, thì ngươi đã luôn sống trong
bình an. Ngươi hãy học xem đâu là sự khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là sự
thông hiểu, để ngươi cũng hiểu biết đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh
sáng con mắt và bình an. Ai là người sẽ tìm được nơi cư ngụ của sự khôn ngoan,
ai đi vào trong kho tàng của nó? Chính Ðấng thấu suốt mọi sự, Người biết nó:
Người thấu suốt nó do đức khôn ngoan của Người.
Người là Ðấng đã an
bài vũ trụ đến muôn đời, và cho các gia súc và các thú bốn chân sống đầy mặt đất.
Người sai ánh sáng đi thì nó đi, gọi nó lại thì nó run sợ vâng lời Người. Các
ngôi sao ở vị trí mình mà chiếu sáng và đều vui mừng. Người gọi chúng thì chúng
trả lời rằng: "Có mặt". Chúng vui mừng chiếu sáng trước mặt Ðấng sáng
tạo chúng.
Người là Thiên Chúa
chúng ta, và không có chúa nào khác sánh được với Người. Người đã biết mọi đường
lối khôn ngoan, đã ban nó cho Giacóp tôi tớ Người và cho Israel kẻ người yêu mến.
Sau đó, Người xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người.
Ðó là sách ghi các giới
răn Chúa và lề luật tồn tại muôn đời, tất cả những ai tuân giữ lề luật thì được
sống, còn ai bỏ thì phải chết. Hỡi Giacóp, hãy trở về và nắm giữ lề luật; hãy
nhờ ánh sáng của Người mà tiến đến sự huy hoàng của Người. Ðừng trao vinh quang
ngươi cho kẻ khác, cũng đừng trao đặc ân ngươi cho dân ngoại. Hỡi Israel, chúng
ta có phúc, vì chúng ta đã được biết những gì là đẹp lòng Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9.
10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6,
69).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa
toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính
trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa
thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.
- Ðáp.
4) Những điều đó đáng
chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy từ tàng ong.
- Ðáp.
Bài Ðọc VII: Ed 36,
16-17a. 18-28
"Ta sẽ đổ trên
các ngươi nước trong sạch và sẽ ban cho các ngươi quả tim mới".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Ðây lời Chúa phán cùng
tôi rằng: "Hỡi con người, khi dân Israel cư ngụ trên đất mình, họ đã làm
dơ bẩn đất ấy bằng đời sống và việc làm của họ. Và Ta đã nổi giận họ, vì họ đã
đổ máu trên phần đất ấy, và vì các thần tượng họ thờ làm dơ bẩn phần đất ấy. Ta
đã phân tán họ đi khắp các dân tộc, và cho họ sống rải rác trong các nước; Ta
đã xét xử theo đời sống và việc làm của họ. Họ đã đi đến các dân tộc và ở đó họ
xúc phạm thánh danh Ta, vì thiên hạ nói về họ rằng: "Này là dân của Chúa,
họ bị đuổi ra khỏi đất của Người". Và Ta đã thương hại thánh danh Ta mà
nhà Israel đã xúc phạm nơi các dân tộc họ đến cư ngụ.
Vì thế, ngươi hãy nói
với nhà Israel rằng: "Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: Hỡi nhà Israel, không
phải vì các ngươi mà Ta hành động, nhưng vì thánh danh Ta đã bị các ngươi xúc
phạm nơi các dân tộc mà các ngươi đi đến cư ngụ. Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta
đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để
các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá
nơi các ngươi trước mặt họ.
Ta sẽ kéo các ngươi ra
khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất
các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được
rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần.
Ta sẽ ban cho các
ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi
quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa
các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân
giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ
phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các
ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 3. 5bcd;
Tv 42, 3. 4
Ðáp: Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát
Chúa, Chúa Trời ôi! (c. 41, 2)
Xướng: 1) Hồn con khát
Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống: ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? -
Ðáp.
2) Tôi nhớ lúc xưa đi
giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng
reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.
3) Xin chiếu giãi
quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên
núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn
thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây
cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Hoặc (khi có Rửa tội): Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c.
12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa,
xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người
con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi
con. - Ðáp.
2) Xin Chúa lại cho
con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ
bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng
ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng,
lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm
cung. - Ðáp.
Bài Ðọc Thánh Thư: Rm
6, 3-11
"Chúa Kitô, một
khi tự trong cõi chết sống lại, Người không chết nữa".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả
chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự
chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy
trong sự chết của người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại
từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế.
Vì nếu chúng ta được
liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì
chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết
điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt
tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người
đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi.
Mà nếu chúng ta đã chết
với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng
Ðức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn
làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội
lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy
tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2.
16ab-17. 22-23
Ðáp: Alleluia, alleluia, alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng
lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã
hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng
tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Phiến đá mà những người
thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc
đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
Phúc Âm Năm B: Mc
16,1-8
"Giêsu Nazarét
chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà
Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức
xác Chúa Giêsu.
Và từ sáng sớm ngày thứ
nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ
lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta".
Khi đưa mắt nhìn, các
bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh.
Mà tảng đá đó rất lớn.
Các bà đi vào trong mồ,
thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ.
Nhưng người đó bảo các
bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng
đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa.
Ðây là chỗ người ta đã
đặt Người.
Các bà hãy đi nói với
các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người
đã từng nói trước".
Nhưng các bà chạy ra
khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi.
Ðó là Lời Chúa.
Suy Niệm: Chờ Ðón Chúa Phục Sinh
Lối xóm gọi anh là Tư
Còm, vì anh ốm o gầy còm lại mắc chứng bệnh "sáng xỉn, chiều say, tối lăn
quay, ngày mai nhậu tiếp". Mỗi lần nhậu vào thì lời ra, anh chửi bới xóm
làng, không trừ một ai. Một số người tìm hiểu hoàn cảnh của anh được biết anh
có một vợ và năm người con. Ngày ngày anh đạp xe xích lô nhưng cũng không có đủ
để nuôi sống gia đình. Các con anh lần lượt bỏ học vì không có tiền để đóng học
phí. Nhà của anh nằm trên vũng sình lầy và bị dột nát. Sống trong hoàn cảnh cơ
cực kéo dài suốt tháng này, qua năm khác như thế, anh thất vọng nên mượn rượu để
giải sầu. Nhưng chén rượu càng vơi thì chén sầu càng đầy ắp.
Hiểu được hoàn cảnh
đáng thương của anh, lối xóm quyết định kẻ bỏ công, người bỏ của để cất lại cho
gia đình anh một căn nhà chắc chắn và kín đáo trên đất liền, để gia đình anh có
thể che nắng che mưa được. Rồi xóm làng cũng đưa đến những lon gạo, những bó củi,
cái nồi, con dao, cái chén, dĩa... thế là anh có đủ những vật dụng cần thiết
trong gia đình và một căn nhà đàng hoàng, bảo đảm cho sức khỏe. Còn các con anh
cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ cho học phí, tất cả đều được đi học
trở lại. Quá cảm động trước tấm lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư Còm đã bỏ
rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình của anh.
Theo một ý nghĩa nào
đó, chúng ta có thể nói anh Tư Còm đã Phục Sinh từ cõi chết của những ngày say
sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại cho tình
yêu thương của Chúa và của mọi người.
Anh chị em thân mến!
Chúng ta đã trải qua
40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho việc đón mừng mầu nhiệm Phục
Sinh bằng sám hối, ăn năn, hãm mình, đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta
sắp mừng ngày lễ Phục Sinh của Chúa, chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô đã sống lại
từ cõi chết. Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài. Qua việc lập
lại lời tuyên hứa khi chịu Phép Rửa trong nghi thức vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng
định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội lỗi nhiều hơn để sống lại
với Chúa trọn vẹn hơn.
Trong biến cố Phục
Sinh bằng quyền năng của Thiên Chúa, ngôi mồ chôn cất Ðức Giêsu được mở ra và
Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng bằng quyền năng của Thiên Chúa, những hòn đá chôn
vùi cuộc đời của chúng ta sẽ bị lăn đi, nó có thể là hòn đá của ích kỷ, chỉ biết
đến lợi ích riêng mình. Ðức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá đó đi, để
biết dấn thân phục vụ Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Nó có thể là hòn đá tham
lam, mê ăn uống đã từng đè nặng trên tâm hồn và thân xác chúng ta. Nó có thể là
hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và phục vụ
anh chị em. Nó có thể là hòn đá an phận nhút nhát, khiến chúng ta chỉ giữ đạo
trong Chúa nhật qua việc xem lễ, đọc kinh. Chúa Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta
sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái một cách tràn đầy tình mến hơn.
Anh chị em thân mến!
Mỗi năm khi mừng lễ Phục
Sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta và
chúng ta đón nhận sức mạnh của Chúa Kitô Phục Sinh để phá vỡ những hòn đá chôn
vùi cuộc đời của mình. Ðể thực sự sống với Chúa Kitô đêm nay, trong suốt ngày
thứ Bảy Tuần Thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng
để thử tìm hòn đá nào cần phải được lăn đi. Phải chăng đó là sự thiếu trong sạch,
không lương thiện, lười biếng, kiêu căng, giận hờn, ghen tương... Cùng với sự
giúp đỡ của Chúa Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời của mình để hưởng
niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình thôi chưa đủ,
chúng ta còn có bổn giúp thân nhân, bạn bè và đồng loại cùng hưởng ơn Phục
Sinh.
Lạy Ðức Giêsu, cùng
với những giây phút Chúa nằm yên trong mồ, xin cho tâm hồn chúng con cũng lắng
dịu để kiểm điểm cuộc đời mình, tìm hiểu xem hòn đá nào đã và đang ngăn cản
chúng con không tiến sâu được vào tình yêu của Chúa và không gặp gỡ đươc tha
nhân. Và khi đã biết được nhờ sức mạnh của Chúa Kitô Phục Sinh, thì xin Chúa
cho chúng con có nghị lực để lăn những hòn đá ấy ra khỏi cuộc sống, để chúng
con thực sự chết cho những tính hư nết xấu và chỗi dậy ra khỏi mồ để sống cuộc
sống xứng với công nghiệp cứu rỗi mà Chúa đã phải trả một giá rất đắt qua khổ
hình và cái chết Thập Giá của Chúa. Chúa đã chết để cho chúng con được sống.
Con xin quyết tâm tiếp tục cuộc sống Phục Sinh của Chúa, đó là cuộc sống dám sống
cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình Chúa đã yêu thương
con, chúng con xin tận hiến cuộc đời để sống trọn vẹn luật yêu thương: "Mến
Chúa và Yêu Người". Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Phục Sinh
Bài đọc: Gen
1:1-2:2; Exo 14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk
16:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ
ĐỀ: Lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa
Thiên Chúa chúng ta thờ
là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này. Sự kiện Ngài cho Con của Ngài, Đức
Giêsu Kitô, từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này. Nhìn lại lịch sử
cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều khiển muôn loài.
Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài
trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù con người đã phản bội
Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố Xuất Hành, qua việc giải
phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự kiện nổi bật nhất trong
lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân xác con người để chuộc tội
cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ nạn và sống lại vinh quang
là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử hành đêm nay.
Trong phần phụng vụ Lời
Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn các tín hữu nhìn lại lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa,
bắt đầu với việc tạo dựng vũ trụ và con người, và kết thúc bằng biến cố Phục
Sinh của Đức Kitô. Nơi nào hòan cảnh cho phép, Giáo Hội khuyến khích đọc cả 7
bài; nơi nào hòan cảnh không cho phép, phải đọc đọc 3 bài: Biến cố Xuất Hành, ý
nghĩa của Bí-tích Rửa Tội trong Thư Rôma, và Biến cố Phục Sinh theo Marcô.
Thông thường, các giáo xứ đọc 5 bài: trình thuật tạo dựng trong Sáng Thế Ký,
trình thuật tái tạo một quả tim mới và thần khí mới của tiên tri Ezekiel, và 3
bài phải đọc. Hai bài từ Sách Isaiah về sự trung thành yêu thương của Thiên
Chúa, và những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới, cho những nơi
có hòan cảnh đọc cả 7 bài.
KHAI TRIỂN BÀI
ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo trời đất và mọi lòai trong đó.
Trình thuật tạo dựng
này rất quan trọng cho những ai đang muốn tước quyền sống của thai nhi, người
già cả, và các bệnh nhân phải chịu bệnh lâu ngày. Con người không có quyền trên
sự sống, họ được trao quyền để bảo vệ sự sống mà thôi. Lương thực Thiên Chúa dựng
nên không bao giờ cạn, vì các hạt giống đều có tiềm năng sinh nhiều hạt giống
khác, chim trời không ngừng đẻ trứng, cá biển mang những buồng trứng khổng lồ,
súc vật cũng có khả năng sinh sôi nẩy nở vô số. Vì thế, Thiên Chúa cũng truyền
cho con người phải sinh sản cho đầy mặt đất. Con người không được nhân danh thiếu
đồ ăn để tước đi quyền sống của bất cứ ai.
(1) Ngày thứ nhất,
Thiên Chúa dựng nên ánh sáng và bóng tối: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời
đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần
khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: "Phải có ánh
sáng." Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa
phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày," bóng
tối là "đêm." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
(2) Ngày thứ hai,
Thiên Chúa dựng nên trời: “Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối
nước, để phân rẽ nước với nước." Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ
nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó
là "trời." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.”
(3) Ngày thứ ba, Thiên
Chúa dựng nên đất và các lòai thảo mộc: “Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới
trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi
chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là "biển." Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ
mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt
giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo
loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế
là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.”
(4) Ngày thứ tư, Thiên
Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các tinh thể trên vòm trời: “Thiên Chúa
phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để
làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm
trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng
sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển
đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời
để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với
bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ tư.”
(5) Ngày thứ năm,
Thiên Chúa dựng nên chim trời, cá biển: “Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh
ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới
vòm trời." Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy
vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy
sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên
mặt đất." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.”
(6) Ngày thứ sáu,
Thiên Chúa dựng nên thú vật và con người.
- Tạo dựng thú vật:
“Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc,
loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra
dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
- Tạo dựng con người:
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và
Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất,
và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò
trên mặt đất." Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ
mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm
lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới
đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực.
Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!
Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
(7) Ngày thứ bảy,
Thiên Chúa nghỉ ngơi: “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi
công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.”
2/ Bài đọc II: Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Cuộc xuất hành của Israel
ra khỏi Ai-cập: Sau khi ông Giuse qua đời, vị
vua mới, Pharaoh, lên ngôi. Ông không còn nhớ gì tới công ơn của Giuse; nhưng
hành hạ người Do-thái sống trên đất Ai-cập, bắt họ sống kiếp nô lệ cho người
Ai-cập. Dân chúng kêu cầu lên Thiên Chúa, và Ngài đã chọn ông Moses và Aaron để
cứu dân thóat khỏi tay người Ai-cập.
(1) Kế họach cứu độ
dân được mặc khải cho ông Moses: “Đức Chúa phán với ông Moses: "Có gì mà
phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên,
giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để
con cái Israel đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá.
Chúng sẽ tiến vào sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh
bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập
sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại
Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
(2) Dân Israel đi qua
Biển Đỏ ráo chân: Để thóat khỏi đất Ai-cập, dân chúng phải vượt Biển Đỏ. Làm
sao dân chúng có thể vượt biển mà không có thuyền bè, nhất là cho một đám đông
dân Do-thái như vậy? Thiên Chúa làm rẽ nước biển làm hai, dựng đứng như hai bức
tường thành để dân Ngài đi qua: “Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ
Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về
phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên kia, mây toả mịt
mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại
gần nhau được. Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông
thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra,
và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành
hai bên tả hữu.”
(3) Chúa tiêu hủy toàn
bộ quân đội của Pharaoh trong Biển Đỏ: Thấy dân Do-thái đi qua Biển Đỏ. “Quân
Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến vào giữa
lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa
nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm
cho chiến xa kẹt bánh khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo
nhau: "Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập
để giúp họ."”
Đức Chúa phán với ông
Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng
với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Moses giơ tay trên mặt biển, và biển
ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển,
Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và
kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharaoh đã theo dân Israel đi vào lòng
biển. Không một tên nào sống sót.”
(4) Dân Israel nhận ra
quyền lực của Thiên Chúa và tin vào Ngài: “Con cái Israel đã đi giữa lòng biển
khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày đó, Đức Chúa đã cứu
Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển.
Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức
Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người. Bấy giờ ông
Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng:
"Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người
xô xuống đại dương.””
3/ Bài đọc III: Thiên Chúa trung thành yêu thương dân Ngài đến muôn đời.
3.1/ Tình nghĩa chồng vợ
giữa Thiên Chúa và Israel:
- Thiên Chúa được ví
như người chồng: “Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã
tác thành ngươi, tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về,
chính là Đức Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.”
- Israel được ví như
người vợ bất trung: “Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như người đàn bà bị ruồng
bỏ, tâm thần sầu muộn. "Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho
đành?" Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng
bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa
giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa
ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán
như vậy.”
3.2/ Tình yêu Thiên Chúa
với Israel sẽ bền vững muôn đời.
- Chúa đánh phạt rồi
Ngài lại xót thương: “Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó, Ta đã thề rằng hồng
thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận
và hăm doạ ngươi đâu. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của
Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển
lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.”
- Ngài sẽ cho dân về để
tái thiết thành Jerusalem: “Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi, không người
ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền móng ngươi, Ta đặt trên
lam ngọc, lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc, các cửa thành ngươi,
bằng pha lê, tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.”
- Ngài sẽ bảo vệ con
cái của Israel: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng
thái bình. Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính; ngươi sẽ thoát khỏi
áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì kinh hoàng sẽ không
đến gần ngươi nữa.”
4/ Bài đọc IV: Những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới.
4.1/ Lời tiên đóan về
Bí-tích Thánh Thể: “Đến cả đi, hỡi những người
đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua
rượu mua sữa, không phải trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi
sống, tốn công vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe
Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng
tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.”
4.2/ Lời tiên đóan về
giao ước mới: Giòng dõi David sẽ làm vua cai
trị dân Người.
(1) Giao ước mới và
vĩnh cửu: “Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa
với David. Này, Ta đã đặt David làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh chỉ
huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một
dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.”
- Người sẽ là Vua của
các dân tộc, chứ không phải chỉ là Vua của Israel mà thôi.
(2) Kêu gọi dân trở về
với Thiên Chúa: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người
ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ
tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa - và Người sẽ xót thương - về với
Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.”
4.3/ Sự khác biệt giữa
Thiên Chúa và con người:
(1) Về tư tưởng và đường
lối họat động: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của Đức Chúa.
Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các
ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
(2) Hiệu quả của Lời
Chúa: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm
xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt
giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng
Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
5/ Bài đọc V: Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới
vào lòng các ngươi.
5.1/ Israel đã làm cho đất
ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng: Tiên tri Ezekiel và dân tộc Israel phải sống trong các nơi lưu đày vì
tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Sống trong nơi lưu đày, Thiên Chúa
kêu gọi họ hãy bỏ đàng tội lỗi và quay về với Lề Luật của Thiên Chúa; nhưng họ
đã không nghe: cuộc sống của họ nơi đất khách quê người càng làm ô danh Thiên
Chúa và làm cho đất đai, nơi họ đang sinh sống, ra ô uế.
Tiên tri Ezekiel tường
thuật những gì Thiên Chúa phán với ngài: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: Hỡi
con người, con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy
ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta
cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Ta đã trút xuống trên chúng
cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế
vì các việc ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các
nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử. Chúng đã
làm cho Danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về
chúng rằng: "Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người."
Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel xúc phạm giữa các dân mà
chúng đi đến.”
5.2/ Vì Danh Thánh, Thiên
Chúa sẽ thanh tẩy dân Ngài: “Vì thế, ngươi
hãy nói với nhà Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Israel,
không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các
ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.
Ta sẽ biểu dương Danh
thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc
phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa - sấm ngôn
của Đức Chúa là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các
ngươi ngay trước mắt chúng.” Ba điều Thiên Chúa sẽ làm cho Israel:
(1) Cho dân Israel hồi
hương: “Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại
từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.”
(2) Thanh tẩy dân
chúng: “Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh
sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi
một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng
đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.
Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi
theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.”
(3) Ngài sẽ nối lại mối
liên hệ với Israel: “Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các
ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”
6/ Bài đọc VI: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống
lại với Người.
6.1/ Ý nghĩa của Bí tích
Rửa Tội: Thánh Phaolô nhấn mạnh đến hai chiều
kích của Bí-tích:
(1) Chiều đi xuống là
dìm mình trong cái chết của Đức Kitô: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được
dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào
trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng
ta đã cùng được mai táng với Người.”
(2) Chiều đi lên là
cùng được sống lại vinh hiển với Người: “Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại
từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống
một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết
như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại
như Người đã sống lại.”
6.2/ Làm thế nào để sống
đức tin của Bí tích Rửa Tội?
(1) Phải từ bỏ con người
cũ và nếp sống tội lỗi: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị
đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã
bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết,
thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.”
(2) Phải mặc lấy Đức
Kitô và sống đời sống mới cho Thiên Chúa (nhân đức và ân sủng): “Nếu chúng ta
đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin
của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi
chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với
Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống,
là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi,
nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.”
7/ Phúc Âm: Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa.
7.1/ Lối suy nghĩ của con
người: Các bà này là những người đã chứng kiến
cuộc tử nạn, tháo đanh, và táng xác Chúa Giêsu trong hang đá. Khi táng xác, các
bà không kịp ướp xác Chúa, vì là ngày Sabbath; nên các bà nóng lòng chờ đến
ngày hôm sau để ra mộ ướp xác Ngài. Truyền thống Do-thái tin: người chết mà
không được ướp xác là điều xỉ nhục.
(1) Chuẩn bị ướp xác
Chúa: “Vừa hết ngày Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và
bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất
trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.”
(2) Nỗi lo sợ không đủ
sức để lăn tảng đá khỏi cửa mộ: Các tông đồ đã bỏ trốn cả vì sợ người Do-thái.
Các bà có thể đi lại dễ dàng, nhưng không thể tìm một người đàn ông để giúp
mình lăn tảng đá ra khỏi mộ, vì là một tảng đá nặng. Đang khi đi đường, các bà
bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?" Nhưng vừa
ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
7.2/ Tin Mừng Phục Sinh: Các bà không thể hiểu “từ cõi chết sống lại có nghĩa gì;”
vì truyền thống Do-thái tin chết là hết. Các bà không thể tin Chúa Giêsu đã sống
lại từ cõi chết.
(1) Thiên thần cắt
nghĩa cho các bà: “Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng
sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy
rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!” Đã không thấy xác Chúa, lại
còn gặp một thanh niên lạ mặt, các bà còn hỏang sợ hơn nữa. Làm sao có thể tin
những lời thanh niên này nói? Nhưng vì quá sợ, nên các bà không dám hỏi. Có lẽ
các bà nghĩ như Maria trong trình thuật Gioan: chắc ông này đã lấy xác Chúa!
(2) Các tông đồ sẽ được
nhìn thấy Chúa tại Galilee: Người thanh niên nói tiếp: “Xin các bà về nói với
môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các ông. Ở đó, các
ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông."
- Phản ứng của các bà:
“Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng
nói gì với ai, vì sợ hãi.”
ÁP DỤNG TRONG
CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa chúng ta
thờ là Thiên Chúa thật; Ngài có uy quyền dựng nên tất cả, giải thoát dân khỏi mọi
nguy hiểm, và trung thành yêu thương chúng ta đến cùng.
- Thiên Chúa dựng nên
con người với một mục đích là cho con người được chung hưởng vinh quang với
Ngài sau cuộc đời trên dương thế này.
- Vì Đức Kitô đã chịu
chết và sống lại vinh hiển, cho nên, nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng
ta cũng sẽ cùng được sống lại vinh hiển với Người.
- Chúng ta phải cố gắng
để đạt tới đích điểm là chung hưởng cuộc sống vinh quang với Thiên Chúa trên
thiên đàng.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét