Trang

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018

18-11-2018 : (phần II) CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN - KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM


18/11/2018
Chúa Nhật tuần 33 Thường Niên năm B
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Lễ Trọng
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LỄ KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8, 31b-39; Lc 9,23-26
CHÍNH LÚC CHẾT ĐI LÀ KHI VUI SỐNG MUÔN ĐỜI
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24)
Con người luôn lo âu khắc khoải trước đau khổ và cái chết, nhưng đau khổ và sự chết không thể làm gì được những người công chính vì họ biết linh hồn họ luôn ở trong tay Chúa. Đối với họ, đau khổ có khi là cơ hội thử thách giúp họ thanh luyện đức tin và biểu lộ lòng trung thành và tình yêu với Chúa và cái chết vì sự công chính là bước vào cõi sống muôn đời.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I: 2Mcb 7,1.20-23.27b-29
Sách Máccabê đánh dấu một giai đoạn đau thương trong lịch sử của dân Chúa khi Đền thờ và nền phụng tự đã bị quân ngoại bang xâm phạm nặng nề. Đoạn sách Máccabê hôm nay là một thiên hùng ca về những người Do thái sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết để trung thành với Lề luật và Tôn giáo của cha ông.
Đối với người Do thái, tuân giữ Lề luật cách đầy đủ và nghiêm ngặt là một cách chứng tỏ sự trung thành tôn thờ Thiên Chúa. Một người Do thái được xem là công chính khi giữ trọn “mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa” (x. Lc 1,6). Câu chuyện về bà mẹ và bảy người con thà chấp nhận cái chết chứ không chịu vi phạm Lề luật được thuật trong Bài đọc I là biểu hiện rõ nhất về lòng trung tín của dân đối với Thiên Chúa.
Sỡ dĩ bà mẹ và những người con sẵn sàng chấp nhận cái chết là vì họ xác tín rằng sự sống của họ là do Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ “thần khí và sự sống”, chứ không do họ tự tạo ra. Đồng thời, họ cũng tin rằng một khi họ “trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình” đến nỗi dám hy sinh sự sống để bày tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa họ thờ, thì chính Người sẽ trả lại cho họ thần khí và sự sống (x. 2Mcb 7,22-23).
Trong câu chuyện bà mẹ và bảy người con, niềm tin phục sinh và sự sống đời sau đã tỏ lộ. Thật vậy, bà mẹ tin rằng nếu các con bà “chấp nhận cái chết” vì trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, thì “đến ngày Chúa thương xót”, chính Người sẽ trả các con về lại cho bà (x. 2Mcb 7,29). Như thế, việc người công chính chịu đau khổ và cái chết biểu lộ niềm tin phục sinh. Cần biết rằng lúc đầu người Do thái chưa được mạc khải về sự sống đời sau, nhưng kể từ thời Maccabê, điểm giáo lý này mới bắt đầu hình thành và những người theo phái Pharisêu sau này sẽ nhấn mạnh. Từ niềm tin đó, sách Maccabê cho rằng việc thưởng phạt của Thiên Chúa không chỉ nằm ở đời này như quan niệm của truyền thống, mà còn kéo dài sau cái chết. Do vậy, những người chịu chết vì trung thành với Lề luật sẽ được sống lại cả hồn lẫn xác đời sau.
Bà mẹ và bảy anh em (2Mcb 7,1-41) đã tự nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ được xem như là hình bóng của các vị tử đạo trong Kitô Giáo sau này.
2. Bài đọc II: Rm 8, 31b-39
Đoạn thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Rôma là một bài ca tuyệt vời về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua việc trao hiến Đức Giêsu, Con Một của Người.   
Trước hết, việc Thiên Chúa trao ban Đức Giêsu, Con Một của Người cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất của tình yêu cao cả và vô điều kiện mà Người dành cho con người. Khi trao hiến chính Con Một là kho tàng quý giá nhất của mình, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho nhân loại thấy rằng Người đã cho nhân loại tất cả mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Đồng thời, khi Thiên Chúa để cho Đức Giêsu chết cho tội lỗi nhân loại, Người đã thật sự tha thứ cho mọi lỗi lầm của nhân loại.
Hơn nữa, thánh Phaolô còn xác tín rằng một khi được Thiên Chúa yêu thương hết mực như thế, con người không còn gì phải lo lắng hay sợ hãi nữa. Ai hay điều gì có thể tách nhân loại ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Ngài khẳng định rằng dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo (x. Rm 8,35); dù là sự sống hay sự chết, ma vương hay quỷ lực, hiện tại hay tương lai, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một sức mạnh nào, cũng không thể chia cắt con người khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu (x. Rm 8,38-39). Vậy những ai thật sự cảm nhận và xác tín sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thì dám chết để chứng tỏ sự trung thành và sức mạnh vô song của tình yêu ấy.
Cuối cùng, dù được Thiên Chúa yêu thương hết mực và vô điều kiện, con người vẫn không thể tránh khỏi những sự dữ trong thế giới này. Dầu vậy, những thử thách trong thế giới lại là cơ hội để con người chiến đấu mà chứng tỏ sự trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa. Cũng cần lưu ý rằng ngay cả con người có thể chiến thắng trong những cơn thử thách, thì đó không phải do công sức riêng của con người, mà cũng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).
Qua và nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các thánh Tử đạo Việt Nam đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho các vị đến nỗi cái chết cũng không thể chia cắt tình yêu đó.
3. Bài Tin Mừng: Lc 9,23-26
Sau khi Phêrô, đại diện cho các môn đệ, tuyên tín cách hùng hồn rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (x. Lc 9,18-21), Đức Giêsu liền mạc khải cho các môn đệ biết con đường Người phải đi là con đường khổ giá (x. Lc 9,22).
Trước hết, điều kiện để theo Đức Giêsu là “từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Thật vậy, Đức Giêsu cho biết con đường dành cho những ai muốn theo Người là con đường của sự từ bỏ hy sinh để thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Đó còn là con đường chấp nhận vác “thập giá hàng ngày”, đón nhận mọi sự xảy đến trong niềm tin tưởng và phó thác trọn vẹn trong tay Chúa. Đức Giêsu đã đi trên con đường như thế và Người muốn các môn đệ noi theo gương Người.
Hơn nữa, người môn đệ Đức Giêsu phải ghi nhớ rằng tất cả mọi sự, ngay cả sự sống, cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa; và tất cả cuộc sống của người môn đệ hoàn toàn thuộc về Chúa, như lời xác quyết của thánh Phaolô: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,8). Vì thế, cuộc sống của người môn đệ không phải là đi tìm bản thân, tìm sự sống và vinh quang cho mình, nhưng đi tìm cách sống cho Chúa và làm vinh danh Người. Khi người môn đệ dám bỏ mình vì Chúa và sống cho Chúa, thì họ lại tìm được chính bản thân, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
Sau cùng, người môn đệ Đức Giêsu có trách nhiệm làm chứng cho Chúa Giêsu và lời của Người trước mặt người khác. Đó được xem như là điều kiện để họ được Người chứng thực trước mặt Thiên Chúa trong ngày quang lâm. Đức Giêsu nói: “ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình …” (Lc 9,26).
Các thánh tử đạo là những người đã trung tín đi trọn con đường mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: đó là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình với tinh thần phó thác, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm.
II. GỢI Ý MỤC VỤ:
1. “Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.” Bà mẹ và bảy anh em đã tự nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ xác tín rằng một khi họ hết mực trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, Đấng ban cho họ “thần khí và sự sống”, thì Người sẽ ban cho họ sự sống bất diệt. Niềm tin vào sự phục sinh là sức mạnh giúp họ vượt thắng cả cái chết. Sống trong thời hậu phục sinh, Đức Kitô Phục Sinh có là sức mạnh giúp tôi vượt thắng những cám dỗ thường ngày để sống trung tín với Thiên Chúa và giới răn của Người?
Tinh thần làm chứng này được giáo dục trong chính môi trường gia đình. Vậy trong dịp kết thúc Năm thánh Tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam, tôi có dám sống theo lời mời gọi trong thư của HĐGMVN: “Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc”, và xem đó như là cách “tử đạo” trong đời thường?
2. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” Qua và nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho các Người đến nỗi chấp nhận cái chết để minh chứng cho sức mạnh của tình yêu đó. Tôi có mạnh mẽ xác tín rằng Đức Kitô đã chết vì yêu thương tôi, đến nỗi không có gì có thể chia cắt tình yêu của Người dành cho tôi? Tình yêu vô vị lợi của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Kitô có là động lực thúc đẩy tôi yêu thương anh chị em mình hơn?
3. “Được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” Điều kiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình với tinh thần tin-cậy-mến, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm. Tôi có dám chấp nhận từ bỏ ý riêng để xứng với tư cách làm môn đệ Đức Giêsu? Tôi đang tìm cách làm vinh danh Người hay tìm vinh danh tôi? Tôi có sẵn lòng chấp nhận thiệt thòi hiện tại để được kho tàng vĩnh cửu ở trên Trời? Đặc biệt đối với người sống đời thánh hiến, tôi có dám đón nhận lời mời gọi trong thư của HĐGMVN: “hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần ‘thức tỉnh thế giới’” ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Cùng họp nhau hôm nay để tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã hiến dâng mạng sống cho Chúa và gieo mầm đức tin cho con cháu, cộng đoàn chúng ta cùng thành tâm cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Đức Giám mục và hàng giáo sĩ. Xin cho các ngài luôn nhiệt thành và can đảm loan báo Tin Mừng, tận tình chăm sóc hướng dẫn đoàn chiên, cùng nỗ lực hoạt động cho sự hợp nhất của cộng đoàn Dân Chúa.
2. “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” Xin cho những ai đang đau khổ vì bệnh tật, nghèo đói, bất công, và kỳ thị; luôn xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện để che chở nâng đỡ cùng chia sẻ mọi niềm vui và nỗi đau của họ.
3. “Không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu.” Xin cho mọi kitô hữu, cách riêng là các bạn trẻ biết tránh xa lối sống vô cảm, luôn dấn thân phục vụ với tinh thần trách nhiệm, nêu cao tinh thần bác ái tốt đẹp của Kitô giáo.
4. Máu các Thánh Tử Đạo làm nảy sinh hạt giống đức tin. Xin cho tất cả chúng ta luôn ý thức trân trọng di sản đức tin được thừa hưởng từ các bậc tiền nhân, biết can đảm làm chứng cho niềm tin vào Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hằng ngày.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con ca ngợi tình thương và sức mạnh của Chúa đã thể hiện nơi sự yếu đuối mỏng giòn của các Thánh tử đạo Việt Nam. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn trung thành với đức tin và gương sáng tiền nhân để lại. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


SCĐ Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
CHỦ ĐỀ : SỰ ĐỔI ĐỜI CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO.

Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa”
– Đáp ca : “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khập khởi mừng”
– Tin Mừng : “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được người tuyển chọn từ bốn phương”
– Bài đọc II : “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người”.
I.DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Sau bao nhiêu thế kỷ tin theo Kitô giáo, cuối cùng Giáo Hội Việt Nam cũng có được 117 vị thánh của mình, những vị thánh tử đạo dám lấy chính mạng sống để làm chứng niềm tin vững vàng của mình.
Mừng lễ các Thánh Tử đạo VN, chúng ta vui mừng hãnh diện. Chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta noi gương cha ông chúng ta, can đảm làm chứng đức tin của mình trên quê hương đất nước thân yêu và trước mặt những đồng bào ruột thịt của mình.
II.GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhiều lần chúng ta xấu hổ không dám tuyên xưng niềm tin của mình.
– Nhiều lần vì ngại khổ ngại khó, chúng ta đã không chu toàn bổn phận của một tín hữu.
– Chúng ta chưa tích cực loan Tin Mừng cho đồng bào Việt Nam của mình.
III. GỢI Ý GIẢNG
  1. Các Thánh tử đạo
Gia đình của Chúa là một gia đình gồm những người trần mắt thịt, chứ không phải gồm những siêu nhân, những con người siêu đẳng. Kitô hữu không phải là những siêu nhân. Các thánh càng không phải là những siêu nhân, vì các Ngài là những con người có tính cách người nhất trong các con người. Các thánh không phải là những người cao siêu, các Ngài không cần cái cao siêu, họa chăng cái cao siêu cần đến các Ngài. Các thánh không phải là những vị anh hùng kiểu các anh hùng bách chiến bách thắng. Một người anh hùng như chúng ta ảo tưởng là họ vượt khỏi nhân tình, đấng thánh không vượt khỏi nhân tình mà đảm nhận lấy nhân tình. Đấng thánh nỗ lực thể hiện nhân tình một cách tốt nhất. Bạn có hiểu hai điều đó khác nhau ra sao không ? Đấng thánh cố gắng hết sức mình để đạt đến gần giống Đức Giêsu là mẫu gương của mình, nghĩa là gần giống với một Đấng đã hoàn toàn là người, với một sự đơn giản hoàn hảo, điều độ làm chưng hửng các vị anh hùng, nhưng lại làm yên lòng những phàm nhân chúng ta. Bởi vì Đức Kitô không chỉ chết vì những người anh hùng. Ngài còn chết vì những kẻ hèn nhát nữa :Khi bạn bè Ngài quên Ngài thì kẻ thù Ngài có quên Ngài đau. Bạn có biết rằng bọn quốc xã không ngừng đem đối lập cơn hấp hối cực thánh của Đức Kitô trong vườn Cây Dầu với cái chết vui tươi của các thanh niên quốc xã. Nghĩa là Đức Kitô muốn mở ra cho các thánh tử vì đạo của Ngài con đường vinh quang của cái chết không khiếp sợ, nhưng Ngài cũng muốn đi trước mỗi người chúng ta vào trong bóng tối đầy lo âu của sự chết. Một bàn tay vững bàng dũng cảm có thể tìm nơi nương tựa cuối cùng ở bờ vai Ngài, nhưng một bàn tay run rẩy chắc chắn sẽ nắm được bàn tay Chúa… (Georges Bernanos)
2.                  Những con người dám chết
Lễ kính các Thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương ? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quý hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm võ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn ; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác ; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quý nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ :
– Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
– Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
– Và các vị thánh tử đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
3.                  Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách rất dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết : chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “Có chịu bỏ đạo không ?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ :
a/ Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống : sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quý chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy ; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh tử đạo là một điều hữu ích : sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
b/ Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh tử đạo là sự trung thực của các ngài : Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa.
Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa : họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
c/ Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội ? Anh mở đầu như sau : “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quý nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
IV.LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những đấng hết lòng tin tưởng và yêu mến Chúa, trung thành với Giáo Hội, sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận. Với tâm tình cảm phục và mến yêu các bậc anh hùng tiền bối trong đời sống đức tin, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Hội Thánh luôn tha thiết mời gọi các kitô hữu / làm chứng nhân cho Chúa trên chính quê hương đất nước của mình / bằng cách chu toàn mọi bổn phận của người công dân tốt và người tín hữu tốt / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu trên chính quê hương của mình.
2- Trên thế giới ngày nay / nhiều kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ / bị mất đức tin vì hiểu biết giáo lý không đủ / và hầu như không biết đến quyển Kinh Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / để có thể giữ vững niềm tin / cũng như để có thể dấn thân theo Chúa đến cùng / cấn phải học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhất là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng.
3- Các Thánh tử đạo Việt Nam cũng là những con người mỏng dòn yếu đuối như chúng ta / nhưng đã can đảm bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá / và đã anh dũng hiến dâng mạng sống để nói lên lòng mến Chúa của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết luôn cố gắng noi gương các ngài / mà bước trọn con đường Chúa đã đi qua.
4- Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn gắn bó và tin yêu Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời.
CT : Lạy Chúa, Ông bà tổ tiên chúng con đã không ngần ngại hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, để nói lên lòng mến của các ngài đối với Chúa. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con có thể luôn hiên ngang sống đức tin đã lãnh nhận. Nhờ đó, mai sau chúng con cùng được chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc. Chúng con cầu xin…
V.TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Hiệp cùng các Thánh Tử đạo Việt Nam là những người con ưu ái của Chúa, chúng ta hãy dâng lên Cha trên trời lời kinh lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha : “… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin giúp chúng con biết noi gương các Thánh tử đạo can đảm sống đức tin của mình đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…”
VI.GIẢI TÁN
Noi gương các Thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy trở về cuộc sống và làm chứng đức tin của mình trước mặt mọi người.
 —
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
  1. José Feder, Alain Gorius et leur équipe, Célébrer le dimanche, A. Nouvelles éditions Mame, Paris, 1977.
  2. Flor McCarthy, New Sunday and Holy Day Liturgies, Year A, Dominican Publications. Dubblin 1998.
  3. NN, Fiches dominicales, Bulletin de liaison et d’animation des équipes liturgiques du diocèse de Saint-Brieuc et Tréguier. Année A. France, 1994.
  4. Số đặc biệt Giáng sinh năm phụng vụ 1998-1999 của báo Công giáo và Dân tộc.
  5. Jean – Francois Kieffer, Mille images d’Evangile, France 2000.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật XXXIII Thường Niên (B)
Chủ Nhật 18 Tháng Mười Một, 2018

Bài Giảng Cuối Cùng
Mc 13:24-32


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Thiên Chúa toàn năng,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.

2.  Bài Đọc
a)  Tin Mừng:
24 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, 25 ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. 27 Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất.
28 Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. 29 Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. 30 Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. 31 Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
32 “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”.

b)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

3.  Suy Gẫm

a)  Một vài câu hỏi gợi ý:
–  Sau cảnh khốn cực.  Đời sống mang những dấu hiệu của sự lao động, dấu ấn của cái chết cưu mang một đời sống mới.  Chúng ta có thể nào được kể trong số những người được tụ tập lại từ bốn phương không?
–  Con Người ngự đến trên đám mây:  Liệu chúng ta sẽ có khả năng ngước mắt mình khỏi những điều khốn khổ của chúng ta để nhìn thấy Người xuất hiện nơi chân trời câu chuyện của chúng ta không?
–  Học hỏi từ cây vả:  Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi và chúng ta không cần phải tìm kiếm đâu xa.  Thiên nhiên là quyển sách đầu tiên của Thiên Chúa.  Liệu chúng ta có sẵn sàng đọc hết tất cả các trang của nó không hay là chúng sẽ xé bỏ chúng vì nghĩ rằng chúng ta sở hữu chúng?
–  Trời đất sẽ qua đi, chỉ có Lời Chúa là tồn tại muôn đời.  Bao nhiêu là những lời vô ích, những giấc mơ và thú vui vô vị lãng phí thời gian mang đi tất cả mọi thứ mà rồi cũng kết thúc!  Liệu tảng đá mà chúng ta xây dựng đời sống của mình có phải là tảng đá của Lời Chúa hằng sống không?
–  Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được:  chúng ta không được biết.  Chỉ có mình Chúa Cha biết thôi.  Chúng ta có mở lòng để tín thác niềm tin tưởng của mình vào Ngài không?

b)  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:
 Sự thay đổi tuyệt vời của vũ trụ được mô tả bởi thánhMáccô nằm giữa ẩn dụ và thực tế và lời công bố về thời điểm tận thế sắp xảy ra như là lời giới thiệu về một thế giới vô cùng mới mẻ.  Con Người ngự đến trên đám mây mở ra cho nhân loại một chiều kích thiên đàng.  Người không phải là một vị phán quan không nhân nhượng, mà là một Đấng Cứu Thế uy quyền xuất hiện trong sự vinh quang Thiên Chúa để quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn, để họ được chia sẻ cuộc sống đời đời trong ân sủng nước trời.  Máccô không đề cập đến sự phán xét, lời đe dọa hay bản án… để mang lại hy vọng và làm tăng lòng kỳ vọng, ông công bố về chiến thắng sau cùng.
 Các câu 24-25:  Sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ tối tăm… một thực tế mới tương phản với cảnh đại nạn.  Thánh sử nghĩ rằng việc Chúa tái giáng lâm thì rất gần, dù rằng giờ khắc của giờ Chúa đến thì không chắc chắn.  Việc xáo trộn vũ trụ được mô tả trong những từ ngữ đặc trưng của ngôn ngữ khải huyền, trong một hình thức ước lệ và chính xác: bốn nguyên tố được sắp thành từng đôi một song song.  Tham khảo đến sách tiên tri Isaia chương 13:10 thì thật rõ ràng khi Người nói về mặt trời và mặt trăng bị tối tăm và chương 34:4 khi Người nói về các sức mạnh trên trời bị lay chuyển.
Câu 26: Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang.  Đây là tột đỉnh của luận đề cánh chung của Máccô.  Thời gian mong đợi đã mãn, đây là thời gian để khôi phục lại tất cả mọi thứ trong Đức Kitô.  Sự kết thúc của thế gian thì không có gì hơn là lời hứa về sự tái giáng lâm của Con Người được thấy trước trong sách Đanien 7:13.  Đám mây chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng trong tất cả các lần mặc khải của Người đều dùng đám mây để đi xuống thế gian.  Các đặc tính của Thiên Chúa tối cao, quyền năng và vinh quang, được đề cập đến bởi Chúa Giêsu trước Công Nghị (14:62), không phải là mối đe dọa cho nhân loại, mà là lời tuyên bố long trọng của phẩm giá Đấng Mêssia vượt qua nhân tính của Đức Kitô.
Câu 27:  Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho tới tận cùng trái đất.  Bằng vào hành động đầu tiên này của Con Người, ý nghĩa của việc tái giáng lâm thực sự đã được làm cho rõ ràng:  ơn cứu độ cánh chung của dân Thiên Chúa lan rộng khắp tận cùng thế giới.  Tất cả những kẻ được tuyển chọn sẽ được quy tụ.  Không một ai bị lãng quên.  Không có lời đề cập đến sự trừng phạt các kẻ thù nghịch, cũng không nói đến những thảm họa trừng phạt, mà chỉ nói về sự thống nhất.  Đó sẽ là nơi duy nhất bởi vì từ tận cùng trái đất đến tận cùng thiên đàng các thiên thần sẽ quy tụ mọi người chung quanh Đức Kitô.  Điều này, thực sự là một cuộc gặp gỡ vinh quang.
Câu 28:  Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này:  Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến.  Dụ ngôn cây vả cho thấy sự chắc chắn và gần kề của các sự kiện được công bố, đặc biệt là sự xuất hiện của Con Người, được miêu tả trước trong cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại sắp xảy ra.  Điều bắt buộc được nói cho những người lắng nghe:  Hãy tìm hiểu!  Cho thấy ý nghĩa tiềm ẩn trong sự so sánh:  đó là lời mời gọi để thấm nhập sâu xa vào ý nghĩa Lời của Chúa Giêsu để hiểu được chương trình của Thiên Chúa dành cho thế gian.  Khi cây vả rụng lá vào cuối mùa thu, chậm trễ hơn so với các cây khác, thậm chí qua khỏi mùa xuân, nó lại loan báo sự xuất hiện của mùa hè.
Câu 29:  Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi.  Loài người có thể biết kế hoạch của Thiên Chúa từ các sự kiện xảy ra.  Những điều mà phải xảy ra là gì?  Máccô đã nói về sự tàn phá đáng tởm kinh hồn trong câu 14.  Đó là dấu hiệu, dấu hiệu của sự kết thúc là việc tái giáng lâm, sự xuất hiện của Con Người.  Những điều đó là sự khởi đầu các tai ương sẽ đem đến cho nhân loại một sự ra đời mới, bởi vì Người rất gần, ở ngoài cửa rồi.
Câu 30:  Thầy bảo thật các con: thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến.  Nhiều giả thuyết đã được đưa ra liên quan đến ý nghĩa của thế hệ này.  Đó là lời diễn đạt Kitô giáo hơn là lời khẳng định về trình tự thời gian.  Giáo Hội sơ khai tiếp tục khẳng định sự không chắc chắn về thời điểm chính xác, dù rằng nó nắm chặt vào niềm hy vọng rằng Chúa sẽ đến nay mai.  Mọi tín hữu, bất kỳ tuổi tác, khi đọc đến đoạn Tin Mừng này, có thể nghĩ rằng mình là một phần tử của thế hệ này.
Câu 31:  Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.  Chắc chắn rằng những lời của Chúa sẽ không bao giờ qua đi, thêm lòng tự tin cho những ai suy niệm về sự suy tàn của thế gian và những việc về thế gian.  Xây dựng trên Lời Chúa có nghĩa là sự tàn phá đáng tởm kinh hồn sẽ không kéo dài và mặt trời, mặt trăng và các tinh tú sẽ không mất đi vẻ huy hoàng của chúng.  Thời khắc hiện tại của Thiên Chúa trở thành cách duy nhất cho loài người tiến tới bản thể riêng của họ, bởi vì nếu trong lời nói của họ hiện tại không bao giờ trở thành quá khứ, thì họ không cần phải sợ cái chết.
Câu 32:  Nhưng về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi.  Tận thế thì chắc chắn, nhưng sự hiểu biết khi nào nó sẽ xảy đến thì được dành riêng cho Chúa Cha.  Chúa Giêsu không bao giờ nói chính xác về vấn đề này.  Vì vậy, bất cứ ai giả vờ có một số lời giảng dạy giả định của mình, người ấy đang nói dối.  Tận thế là một trong những bí mật không thể thăm dò được vì đó thuộc về Chúa Cha.  Sứ vụ của Chúa Con là thiết lập nước trời, không phải là mặc khải về sự ứng nghiệm lịch sử nhân loại.  Do đó, Chúa Giêsu chia sẻ sâu xa trong tình trạng loài người chúng ta.  Thông qua việc tự nguyện hiến thân của mình, Người thậm chí còn vâng phục với khả năng không biết về ngày nào hoặc giờ nào của việc tận thế.

c)  Suy niệm:                                                                                                              
Khổ đau gian truân giống như lương thực hằng ngày trong đời sống con người và nó là dấu hiệu của sự xuất hiện của Con Thiên Chúa.  Một cuộc sống cưu mang với một khuôn mặt mới, không thể không biết đến sự đau đớn của việc sinh nở.  Con cái của Đấng Tối Cao, phân tán đến tận cùng trái đất, cách xa nhau, sẽ được tề tựu từ khắp bốn phương trời bởi thần khí Thiên Chúa thổi trên trái đất.  Con Người ngự đến tên đám mây khi mà mắt chúng ta nhìn chăm chăm trên đất, trên những công trình bé bỏng của chúng ta, lẫn lộn giữa những giọt nước mắt của ảo tưởng và của thất bại.  Nếu chúng ta có thể ngước mắt khỏi những điều khốn khổ của chúng ta để nhìn thấy Người ngự đến từ chân trời của lịch sử chúng ta, thì cuộc sống chúng ta sẽ được tràn đầy ánh sáng và chúng ta sẽ tìm hiểu để đọc tác phẩm của Người trong cát về những suy tưởng và ý muốn của chúng ta, về những thất bại và ước mơ, về các thái độ và sự học hỏi của chúng ta.  Nếu chúng ta có can đảm để lật qua các trang của đời sống thường nhật và ở đó nhặt nhạnh những hạt giống vương vãi trong các luống cày của con người chúng ta, thì tâm hồn chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an.  Sau đó, những lời hão huyền, thú vui phù phiếm hoang phí thời gian, sẽ chỉ là quên lãng bởi vì tảng đá mà trên đó chúng ta sẽ xây dựng sẽ là tảng đá Lời của Thiên Chúa hằng sống.  Nếu không ai biết ngày nào hoặc giờ nào, thì đó không phải là việc để cho chúng ta suy đoán.  Chúa Cha biết và chúng ta tin cậy nơi Người.

4.  Cầu Nguyện

Sách Khôn Ngoan 9:1-6, 9-11
Lạy Thượng Đế của bậc tổ tiên,
lạy Đức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật,
dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người,
để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên,
và sống sao cho thánh thiện công chính
mà chỉ huy cả vũ trụ này,
cùng được một tâm hồn ngay thẳng
mà phân biệt phải trái.
Xin rộng ban cho con
Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà Chúa.
Xin đừng đuổi con đi mà chẳng nhận làm con.
Vì thân này là tôi tớ, con của nữ tỳ Ngài,
số phận mỏng manh, cuộc đời vắn vỏi,
việc pháp đình lề luật, con bé bỏng hiểu chi!
Quả thế, con người ta dẫu thập toàn đi nữa
mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài,
thì cũng kể bằng không không vậy.
Đức Khôn Ngoan ở kề bên Chúa,
biết những việc Chúa làm,
hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ,
biết rõ những gì đẹp mắt Chúa
và phù hợp với huấn lệnh của Ngài.
Tự cõi trời thánh thiêng Chúa ngự,
xin gửi Đức Khôn Ngoan Ngài tới,
xin phái đến từ toà cao vinh hiển,
để phù trì và đồng lao cộng khổ với con,
cho con biết điều đẹp ý Chúa.
Vì Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả,
sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm,
lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con.
5. Chiêm Niệm
Lạy Chúa, con nhìn lên nhánh cây mong manh của cây vả đó là đời sống của con và con chờ đợi.  Như bóng tối của ban đêm kéo dài dọc theo lối con đi, con nghĩ lại về những lời của Chúa.  Tâm hồn con tràn ngập sự bình an xiết bao khi ý nghĩ của con ở trong Chúa!  Trong thời gian của Chúa, sự mong đợi của con về Chúa sẽ được viên mãn.  Trong thời gian của con, những kỳ vọng của Chúa về con sẽ được hoàn thành.  Thời gian mầu nhiệm thay, quá khứ, tương lai và hiện tại muôn đời!  Những con sóng của hôm nay vượt trên kinh nghiệm đốt cháy của sự hiện diện của Chúa và nhắc nhở con về trò chơi trên cát rằng luôn bị xóa sạch đi bởi sóng biển.  Thế nhưng, con lại hạnh phúc.  Hạnh phúc vì con chẳng là gì, hạnh phúc với cát biển sẽ không tồn tại, bởi vì một lần nữa Lời Chúa tiếp tục được viết.  Chúng con muốn thời gian ngưng đọng, viết và nói, đạt được các công trình của tình yêu có hương thơm của con linh dương ngoan ngoãn đứng yên, có âm thanh của những tiếng nói không có hình dáng rõ rệt là căn bản cho đời sống hằng ngày, hương vị của sự trả thù đẫm máu về một cái ôm trả lại… các công trình không bền vững ngoại trừ ở trong tim của Thiên Chúa và trong tưởng nhớ về người sống là những người nhạy cảm với sự bay bổng của chim bồ câu trong thiên đàng về sự tồn tại của họ.  Tình yêu dịu dàng của linh hồn con, xin cho con mỗi ngày có thể ngước nhìn đám mây và được đốt cháy bởi nỗi mong chờ sự trở lại của Chúa.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét