18/11/2018
Chúa Nhật tuần 33 Thường Niên năm B
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Lễ Trọng
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Lễ các Thánh tử đạo
Việt Nam
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LỄ KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8, 31b-39; Lc 9,23-26
LỄ KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8, 31b-39; Lc 9,23-26
CHÍNH LÚC CHẾT ĐI LÀ KHI VUI SỐNG MUÔN ĐỜI
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24)
Con người luôn lo âu khắc khoải trước đau khổ và cái
chết, nhưng đau khổ và sự chết không thể làm gì được những người công chính vì
họ biết linh hồn họ luôn ở trong tay Chúa. Đối với họ, đau khổ có khi là cơ hội
thử thách giúp họ thanh luyện đức tin và biểu lộ lòng trung thành và tình yêu với
Chúa và cái chết vì sự công chính là bước vào cõi sống muôn đời.
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I: 2Mcb 7,1.20-23.27b-29
Sách Máccabê đánh dấu một giai đoạn đau thương trong
lịch sử của dân Chúa khi Đền thờ và nền phụng tự đã bị quân ngoại bang xâm phạm
nặng nề. Đoạn sách Máccabê hôm nay là một thiên hùng ca về những người Do thái
sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết để trung thành với Lề luật và Tôn
giáo của cha ông.
Đối với người Do thái, tuân giữ Lề luật cách đầy đủ
và nghiêm ngặt là một cách chứng tỏ sự trung thành tôn thờ Thiên Chúa. Một người
Do thái được xem là công chính khi giữ trọn “mọi điều răn và mệnh lệnh của
Chúa” (x. Lc 1,6). Câu chuyện về bà mẹ và bảy người con thà chấp nhận cái chết
chứ không chịu vi phạm Lề luật được thuật trong Bài đọc I là biểu hiện rõ nhất
về lòng trung tín của dân đối với Thiên Chúa.
Sỡ dĩ bà mẹ và những người con sẵn sàng chấp nhận
cái chết là vì họ xác tín rằng sự sống của họ là do Thiên Chúa, Đấng đã ban cho
họ “thần khí và sự sống”, chứ không do họ tự tạo ra. Đồng thời, họ cũng tin rằng
một khi họ “trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình” đến nỗi dám hy sinh sự sống
để bày tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa họ thờ, thì chính Người sẽ trả lại
cho họ thần khí và sự sống (x. 2Mcb 7,22-23).
Trong câu chuyện bà mẹ và bảy người con, niềm tin phục
sinh và sự sống đời sau đã tỏ lộ. Thật vậy, bà mẹ tin rằng nếu các con bà “chấp
nhận cái chết” vì trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, thì “đến ngày Chúa
thương xót”, chính Người sẽ trả các con về lại cho bà (x. 2Mcb 7,29). Như thế,
việc người công chính chịu đau khổ và cái chết biểu lộ niềm tin phục sinh. Cần
biết rằng lúc đầu người Do thái chưa được mạc khải về sự sống đời sau, nhưng kể
từ thời Maccabê, điểm giáo lý này mới bắt đầu hình thành và những người theo
phái Pharisêu sau này sẽ nhấn mạnh. Từ niềm tin đó, sách Maccabê cho rằng việc
thưởng phạt của Thiên Chúa không chỉ nằm ở đời này như quan niệm của truyền thống,
mà còn kéo dài sau cái chết. Do vậy, những người chịu chết vì trung thành với Lề
luật sẽ được sống lại cả hồn lẫn xác đời sau.
Bà mẹ và bảy anh em (2Mcb 7,1-41) đã tự nguyện chấp
nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa
mà họ tôn thờ. Họ được xem như là hình bóng của các vị tử đạo trong Kitô Giáo
sau này.
2. Bài
đọc II: Rm 8, 31b-39
Đoạn thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Rôma là một
bài ca tuyệt vời về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua việc trao hiến
Đức Giêsu, Con Một của Người.
Trước hết, việc Thiên Chúa trao ban Đức Giêsu, Con Một
của Người cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất của tình yêu cao cả và vô điều
kiện mà Người dành cho con người. Khi trao hiến chính Con Một là kho tàng quý
giá nhất của mình, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho nhân loại thấy rằng Người đã
cho nhân loại tất cả mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Đồng thời, khi
Thiên Chúa để cho Đức Giêsu chết cho tội lỗi nhân loại, Người đã thật sự tha thứ
cho mọi lỗi lầm của nhân loại.
Hơn nữa, thánh Phaolô còn xác tín rằng một khi được
Thiên Chúa yêu thương hết mực như thế, con người không còn gì phải lo lắng hay
sợ hãi nữa. Ai hay điều gì có thể tách nhân loại ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa? Ngài khẳng định rằng dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ hay gươm giáo (x. Rm 8,35); dù là sự sống hay sự chết, ma vương hay quỷ lực,
hiện tại hay tương lai, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một sức mạnh nào,
cũng không thể chia cắt con người khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức
Giêsu (x. Rm 8,38-39). Vậy những ai thật sự cảm nhận và xác tín sâu sắc về tình
yêu Thiên Chúa dành cho mình, thì dám chết để chứng tỏ sự trung thành và sức mạnh
vô song của tình yêu ấy.
Cuối cùng, dù được Thiên Chúa yêu thương hết mực và
vô điều kiện, con người vẫn không thể tránh khỏi những sự dữ trong thế giới
này. Dầu vậy, những thử thách trong thế giới lại là cơ hội để con người chiến đấu
mà chứng tỏ sự trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa. Cũng cần lưu ý rằng
ngay cả con người có thể chiến thắng trong những cơn thử thách, thì đó không phải
do công sức riêng của con người, mà cũng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: “Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm
8,37).
Qua và nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu,
Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện
và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các
thánh Tử đạo Việt Nam đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho các
vị đến nỗi cái chết cũng không thể chia cắt tình yêu đó.
3. Bài
Tin Mừng: Lc 9,23-26
Sau khi Phêrô, đại diện cho các môn đệ, tuyên tín
cách hùng hồn rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (x. Lc
9,18-21), Đức Giêsu liền mạc khải cho các môn đệ biết con đường Người phải đi
là con đường khổ giá (x. Lc 9,22).
Trước hết, điều kiện để theo Đức Giêsu là “từ
bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Thật vậy, Đức
Giêsu cho biết con đường dành cho những ai muốn theo Người là con đường của sự
từ bỏ hy sinh để thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Đó còn là con đường chấp nhận
vác “thập giá hàng ngày”, đón nhận mọi sự xảy đến trong niềm tin tưởng và phó
thác trọn vẹn trong tay Chúa. Đức Giêsu đã đi trên con đường như thế và Người
muốn các môn đệ noi theo gương Người.
Hơn nữa, người môn đệ Đức Giêsu phải ghi nhớ rằng tất
cả mọi sự, ngay cả sự sống, cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa; và tất cả cuộc sống
của người môn đệ hoàn toàn thuộc về Chúa, như lời xác quyết của thánh
Phaolô: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho
Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,8). Vì
thế, cuộc sống của người môn đệ không phải là đi tìm bản thân, tìm sự sống và
vinh quang cho mình, nhưng đi tìm cách sống cho Chúa và làm vinh danh Người.
Khi người môn đệ dám bỏ mình vì Chúa và sống cho Chúa, thì họ lại tìm được
chính bản thân, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều
mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
Sau cùng, người môn đệ Đức Giêsu có trách nhiệm làm
chứng cho Chúa Giêsu và lời của Người trước mặt người khác. Đó được xem như là
điều kiện để họ được Người chứng thực trước mặt Thiên Chúa trong ngày quang
lâm. Đức Giêsu nói: “ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người
cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình …” (Lc
9,26).
Các thánh tử đạo là những người đã trung tín đi trọn
con đường mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: đó là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi
sự xảy đến trong đời mình với tinh thần phó thác, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng
sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy”
trong ngày Đức Kitô quang lâm.
II. GỢI
Ý MỤC VỤ:
1. “Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại
cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người
hơn bản thân mình.” Bà mẹ và bảy anh em đã tự nguyện chấp nhận khổ đau
và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn thờ.
Họ xác tín rằng một khi họ hết mực trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, Đấng
ban cho họ “thần khí và sự sống”, thì Người sẽ ban cho họ sự sống bất diệt. Niềm
tin vào sự phục sinh là sức mạnh giúp họ vượt thắng cả cái chết. Sống trong thời
hậu phục sinh, Đức Kitô Phục Sinh có là sức mạnh giúp tôi vượt thắng những cám
dỗ thường ngày để sống trung tín với Thiên Chúa và giới răn của Người?
Tinh thần làm chứng này được giáo dục trong chính
môi trường gia đình. Vậy trong dịp kết thúc Năm thánh Tôn vinh các Thánh Tử
đạo Việt Nam, tôi có dám sống theo lời mời gọi trong thư của HĐGMVN: “Các
gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để
làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc”, và
xem đó như là cách “tử đạo” trong đời thường?
2. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” Qua và
nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương
nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ
ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc
tình yêu Thiên Chúa dành cho các Người đến nỗi chấp nhận cái chết để minh chứng
cho sức mạnh của tình yêu đó. Tôi có mạnh mẽ xác tín rằng Đức Kitô đã chết vì
yêu thương tôi, đến nỗi không có gì có thể chia cắt tình yêu của Người dành cho
tôi? Tình yêu vô vị lợi của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của
Đức Kitô có là động lực thúc đẩy tôi yêu thương anh chị em mình hơn?
3. “Được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình
hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” Điều kiện để trở thành môn đệ Đức
Giêsu là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình với tinh thần
tin-cậy-mến, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho Chúa Kitô,
với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm.
Tôi có dám chấp nhận từ bỏ ý riêng để xứng với tư cách làm môn đệ Đức Giêsu?
Tôi đang tìm cách làm vinh danh Người hay tìm vinh danh tôi? Tôi có sẵn lòng chấp
nhận thiệt thòi hiện tại để được kho tàng vĩnh cửu ở trên Trời? Đặc biệt đối với
người sống đời thánh hiến, tôi có dám đón nhận lời mời gọi trong thư của
HĐGMVN: “hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời
khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô
giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần ‘thức tỉnh thế giới’” ?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ
tế: Anh chị em thân mến! Cùng họp
nhau hôm nay để tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã hiến dâng mạng sống cho Chúa và
gieo mầm đức tin cho con cháu, cộng đoàn chúng ta cùng thành tâm cảm tạ Chúa và
tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Đức Giám mục
và hàng giáo sĩ. Xin cho các ngài luôn nhiệt thành và can đảm loan báo Tin Mừng,
tận tình chăm sóc hướng dẫn đoàn chiên, cùng nỗ lực hoạt động cho sự hợp nhất của
cộng đoàn Dân Chúa.
2. “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng
đã yêu mến chúng ta.” Xin cho những ai đang đau khổ vì bệnh tật, nghèo đói, bất
công, và kỳ thị; luôn xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện để che chở nâng đỡ
cùng chia sẻ mọi niềm vui và nỗi đau của họ.
3. “Không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu
của người thí mạng sống vì bạn hữu.” Xin cho mọi kitô hữu, cách riêng
là các bạn trẻ biết tránh xa lối sống vô cảm, luôn dấn thân phục vụ với tinh
thần trách nhiệm, nêu cao tinh thần bác ái tốt đẹp của Kitô giáo.
4. Máu các Thánh Tử Đạo làm nảy sinh hạt giống đức
tin. Xin cho tất cả chúng ta luôn ý thức trân trọng di sản đức tin được thừa hưởng
từ các bậc tiền nhân, biết can đảm làm chứng cho niềm tin vào Đức Kitô trong mọi
hoàn cảnh của cuộc sống hằng ngày.
Chủ
tế: Lạy
Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con ca ngợi tình thương và sức mạnh của
Chúa đã thể hiện nơi sự yếu đuối mỏng giòn của các Thánh tử đạo Việt
Nam. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn trung thành
với đức tin và gương sáng tiền nhân để lại. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con.
SCĐ Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
CHỦ ĐỀ : SỰ ĐỔI ĐỜI CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO.
Sợi chỉ
đỏ :
– Bài
đọc I : “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa”
– Đáp
ca : “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khập khởi mừng”
– Tin
Mừng : “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được người
tuyển chọn từ bốn phương”
– Bài
đọc II : “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài, và sự yếu đuối nơi
Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người”.
I.DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Anh
chị em thân mến
Sau
bao nhiêu thế kỷ tin theo Kitô giáo, cuối cùng Giáo Hội Việt Nam cũng có được
117 vị thánh của mình, những vị thánh tử đạo dám lấy chính mạng sống để làm chứng
niềm tin vững vàng của mình.
Mừng
lễ các Thánh Tử đạo VN, chúng ta vui mừng hãnh diện. Chúng ta cũng xin Chúa ban
cho chúng ta noi gương cha ông chúng ta, can đảm làm chứng đức tin của mình
trên quê hương đất nước thân yêu và trước mặt những đồng bào ruột thịt của
mình.
II.GỢI
Ý SÁM HỐI
– Nhiều
lần chúng ta xấu hổ không dám tuyên xưng niềm tin của mình.
– Nhiều
lần vì ngại khổ ngại khó, chúng ta đã không chu toàn bổn phận của một tín hữu.
–
Chúng ta chưa tích cực loan Tin Mừng cho đồng bào Việt Nam của mình.
III.
GỢI Ý GIẢNG
- Các Thánh tử đạo
Gia
đình của Chúa là một gia đình gồm những người trần mắt thịt, chứ không phải gồm
những siêu nhân, những con người siêu đẳng. Kitô hữu không phải là những siêu
nhân. Các thánh càng không phải là những siêu nhân, vì các Ngài là những con
người có tính cách người nhất trong các con người. Các thánh không phải là những
người cao siêu, các Ngài không cần cái cao siêu, họa chăng cái cao siêu cần đến
các Ngài. Các thánh không phải là những vị anh hùng kiểu các anh hùng bách chiến
bách thắng. Một người anh hùng như chúng ta ảo tưởng là họ vượt khỏi nhân tình,
đấng thánh không vượt khỏi nhân tình mà đảm nhận lấy nhân tình. Đấng thánh nỗ lực
thể hiện nhân tình một cách tốt nhất. Bạn có hiểu hai điều đó khác nhau ra sao
không ? Đấng thánh cố gắng hết sức mình để đạt đến gần giống Đức Giêsu là mẫu
gương của mình, nghĩa là gần giống với một Đấng đã hoàn toàn là người, với một
sự đơn giản hoàn hảo, điều độ làm chưng hửng các vị anh hùng, nhưng lại làm yên
lòng những phàm nhân chúng ta. Bởi vì Đức Kitô không chỉ chết vì những người
anh hùng. Ngài còn chết vì những kẻ hèn nhát nữa :Khi bạn bè Ngài quên Ngài thì
kẻ thù Ngài có quên Ngài đau. Bạn có biết rằng bọn quốc xã không ngừng đem đối
lập cơn hấp hối cực thánh của Đức Kitô trong vườn Cây Dầu với cái chết vui tươi
của các thanh niên quốc xã. Nghĩa là Đức Kitô muốn mở ra cho các thánh tử vì đạo
của Ngài con đường vinh quang của cái chết không khiếp sợ, nhưng Ngài cũng muốn
đi trước mỗi người chúng ta vào trong bóng tối đầy lo âu của sự chết. Một bàn
tay vững bàng dũng cảm có thể tìm nơi nương tựa cuối cùng ở bờ vai Ngài, nhưng
một bàn tay run rẩy chắc chắn sẽ nắm được bàn tay Chúa… (Georges Bernanos)
2.
Những
con người dám chết
Lễ
kính các Thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại
sao tuyên dương ? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quý hơn mạng sống”.
Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để
thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá
đã kiếm cỏ, kiếm võ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn ;
có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của
người khác, đã dành ăn với người khác ; thậm chí có người còn dám ăn thịt người
trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không
có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy
nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không
nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quý nhất, mà còn có những giá trị không cao
hơn nhiều. Thí dụ :
–
Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với
đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng
nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn
đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
– Hay
như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo
vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản
thân.
– Và
các vị thánh tử đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
3.
Tất
cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng
các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể
thoát chết cách rất dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết : chỉ cần nói với
quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn
chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “Có chịu bỏ đạo không ?”, hay đơn giản hơn nữa,
không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta
khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy,
các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều
suy nghĩ :
a/ Điều
thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống : sống không phải chỉ là tồn tại,
tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người
không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống,
lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quý chuộng lý tưởng của mình thì không
làm những gì nghịch với lý tưởng ấy ; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng,
hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung
thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một
trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất
là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác
hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người
ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy
ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những
cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác
thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng
du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh tử đạo
là một điều hữu ích : sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải
là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
b/ Điều
thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh tử đạo là sự trung thực của các ngài :
Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và
nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là
các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người
ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa,
linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa.
Thực
tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa : họ nói rất hay nhưng họ
không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì
sợ bị thiệt thòi…
c/ Và
điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho
chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những
nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ
chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên
là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên
nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi
hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng
trong xã hội ? Anh mở đầu như sau : “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các
bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ.
Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng
triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài
của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y
như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì
nghĩ đến các thánh tử đạo : các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã
dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của
họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quý nhất ở trần gian để
đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
IV.LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Các
Thánh tử đạo Việt Nam là những đấng hết lòng tin tưởng và yêu mến Chúa, trung
thành với Giáo Hội, sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận. Với tâm tình cảm phục
và mến yêu các bậc anh hùng tiền bối trong đời sống đức tin, chúng ta cùng dâng
lời cầu nguyện.
1- Hội
Thánh luôn tha thiết mời gọi các kitô hữu / làm chứng nhân cho Chúa trên chính
quê hương đất nước của mình / bằng cách chu toàn mọi bổn phận của người công
dân tốt và người tín hữu tốt / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết
sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu trên chính quê hương của mình.
2-
Trên thế giới ngày nay / nhiều kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ / bị mất
đức tin vì hiểu biết giáo lý không đủ / và hầu như không biết đến quyển Kinh
Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / để có thể
giữ vững niềm tin / cũng như để có thể dấn thân theo Chúa đến cùng / cấn phải học
hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhất là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng.
3-
Các Thánh tử đạo Việt Nam cũng là những con người mỏng dòn yếu đuối như chúng
ta / nhưng đã can đảm bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá / và đã anh
dũng hiến dâng mạng sống để nói lên lòng mến Chúa của mình / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho các kitô hữu biết luôn cố gắng noi gương các ngài / mà bước trọn
con đường Chúa đã đi qua.
4-
Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn gắn bó và tin yêu Chúa
giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời.
CT : Lạy Chúa, Ông bà tổ tiên chúng con đã không ngần ngại hy
sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, để nói lên lòng mến của các ngài đối với
Chúa. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con có thể luôn hiên ngang sống đức
tin đã lãnh nhận. Nhờ đó, mai sau chúng con cùng được chung hưởng vinh quang với
các ngài trên thiên quốc. Chúng con cầu xin…
V.TRONG
THÁNH LỄ
– Trước
kinh Lạy Cha : Hiệp cùng các Thánh Tử đạo Việt Nam là những người con ưu ái của
Chúa, chúng ta hãy dâng lên Cha trên trời lời kinh lạy Cha.
– Sau
kinh Lạy Cha : “… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin giúp chúng con biết
noi gương các Thánh tử đạo can đảm sống đức tin của mình đang khi chúng con đợi
chờ ngày hồng phúc…”
VI.GIẢI
TÁN
Noi
gương các Thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy trở về cuộc sống và làm chứng đức
tin của mình trước mặt mọi người.
—
TÀI
LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
- José Feder, Alain
Gorius et leur équipe, Célébrer le dimanche, A. Nouvelles éditions Mame,
Paris, 1977.
- Flor McCarthy, New
Sunday and Holy Day Liturgies, Year A, Dominican Publications. Dubblin
1998.
- NN, Fiches
dominicales, Bulletin de liaison et d’animation des équipes liturgiques du
diocèse de Saint-Brieuc et Tréguier. Année A. France, 1994.
- Số đặc biệt Giáng
sinh năm phụng vụ 1998-1999 của báo Công giáo và Dân tộc.
- Jean – Francois
Kieffer, Mille images d’Evangile, France 2000.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật XXXIII Thường Niên (B)
Chủ
Nhật 18 Tháng Mười Một, 2018
Bài
Giảng Cuối Cùng
Mc 13:24-32
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Thiên Chúa toàn năng,
Chúa
đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin
hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để
cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.
Nguyện
xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo
choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và
xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng
của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin
hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin
hãy mang đến cho chúng con,
Với
than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những
người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm
thánh.
2.
Bài Đọc
a)
Tin Mừng:
24 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt
trăng sẽ mất sáng, 25 ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các
sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ
thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. 27 Và
bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển
chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất.
28 Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ
ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. 29 Cũng
vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là
Người đã tới gần ngoài cửa rồi. 30 Thầy bảo thật các con:
Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. 31 Trời
đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
32 “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một
ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có
mình Cha biết thôi”.
b)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để
cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.
3.
Suy Gẫm
a)
Một vài câu hỏi gợi ý:
– Sau
cảnh khốn cực. Đời sống mang những dấu hiệu của sự lao động, dấu
ấn của cái chết cưu mang một đời sống mới. Chúng ta có thể nào được
kể trong số những người được tụ tập lại từ bốn phương không?
– Con
Người ngự đến trên đám mây: Liệu chúng ta sẽ có khả năng ngước mắt
mình khỏi những điều khốn khổ của chúng ta để nhìn thấy Người xuất hiện nơi
chân trời câu chuyện của chúng ta không?
– Học
hỏi từ cây vả: Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi và chúng ta
không cần phải tìm kiếm đâu xa. Thiên nhiên là quyển sách đầu tiên của
Thiên Chúa. Liệu chúng ta có sẵn sàng đọc hết tất cả các trang của
nó không hay là chúng sẽ xé bỏ chúng vì nghĩ rằng chúng ta sở hữu chúng?
– Trời
đất sẽ qua đi, chỉ có Lời Chúa là tồn tại muôn đời. Bao nhiêu là
những lời vô ích, những giấc mơ và thú vui vô vị lãng phí thời gian mang đi tất
cả mọi thứ mà rồi cũng kết thúc! Liệu tảng đá mà chúng ta xây dựng đời
sống của mình có phải là tảng đá của Lời Chúa hằng sống không?
– Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một
ai biết được: chúng
ta không được biết. Chỉ có mình Chúa Cha biết thôi. Chúng
ta có mở lòng để tín thác niềm tin tưởng của mình vào Ngài không?
b)
Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:
Sự thay đổi tuyệt vời của vũ trụ được mô
tả bởi thánhMáccô nằm giữa ẩn dụ và thực tế và lời công bố về thời điểm tận
thế sắp xảy ra như là lời giới thiệu về một thế giới vô cùng mới mẻ. Con
Người ngự đến trên đám mây mở ra cho nhân loại một chiều kích thiên
đàng. Người không phải là một vị phán quan không nhân nhượng, mà là
một Đấng Cứu Thế uy quyền xuất hiện trong sự vinh quang Thiên Chúa để quy tụ những
kẻ đã được tuyển chọn, để họ được chia sẻ cuộc sống đời đời trong ân sủng nước
trời. Máccô không đề cập đến sự phán xét, lời đe dọa hay bản án… để
mang lại hy vọng và làm tăng lòng kỳ vọng, ông công bố về chiến thắng sau cùng.
Các
câu 24-25: Sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ tối tăm… một thực tế mới tương phản với cảnh
đại nạn. Thánh sử nghĩ rằng việc Chúa tái giáng lâm thì rất gần, dù
rằng giờ khắc của giờ Chúa đến thì không chắc chắn. Việc xáo trộn vũ
trụ được mô tả trong những từ ngữ đặc trưng của ngôn ngữ khải huyền, trong một
hình thức ước lệ và chính xác: bốn nguyên tố được sắp thành từng đôi một song
song. Tham khảo đến sách tiên tri Isaia chương 13:10 thì thật rõ
ràng khi Người nói về mặt trời và mặt trăng bị tối tăm và chương 34:4 khi Người
nói về các sức mạnh trên trời bị lay chuyển.
Câu
26: Bấy
giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh
quang. Đây là tột đỉnh của luận đề cánh chung của
Máccô. Thời gian mong đợi đã mãn, đây là thời gian để khôi phục lại
tất cả mọi thứ trong Đức Kitô. Sự kết thúc của thế gian thì không có
gì hơn là lời hứa về sự tái giáng lâm của Con Người được thấy trước trong sách
Đanien 7:13. Đám mây chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng trong
tất cả các lần mặc khải của Người đều dùng đám mây để đi xuống thế
gian. Các đặc tính của Thiên Chúa tối cao, quyền năng và vinh quang,
được đề cập đến bởi Chúa Giêsu trước Công Nghị (14:62), không phải là mối đe dọa
cho nhân loại, mà là lời tuyên bố long trọng của phẩm giá Đấng Mêssia vượt qua
nhân tính của Đức Kitô.
Câu
27: Và
bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển
chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho tới tận cùng trái đất. Bằng vào hành động đầu tiên
này của Con Người, ý nghĩa của việc tái giáng lâm thực sự đã được làm cho rõ
ràng: ơn cứu độ cánh chung của dân Thiên Chúa lan rộng khắp tận cùng
thế giới. Tất cả những kẻ được tuyển chọn sẽ được quy tụ. Không
một ai bị lãng quên. Không có lời đề cập đến sự trừng phạt các kẻ
thù nghịch, cũng không nói đến những thảm họa trừng phạt, mà chỉ nói về sự thống
nhất. Đó sẽ là nơi duy nhất bởi vì từ tận cùng trái đất đến tận cùng
thiên đàng các thiên thần sẽ quy tụ mọi người chung quanh Đức
Kitô. Điều này, thực sự là một cuộc gặp gỡ vinh quang.
Câu
28: Nhìn
vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này: Khi nó đâm chồi nảy lộc,
các con biết rằng mùa hè gần đến. Dụ ngôn cây vả cho thấy sự
chắc chắn và gần kề của các sự kiện được công bố, đặc biệt là sự xuất hiện của
Con Người, được miêu tả trước trong cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại sắp
xảy ra. Điều bắt buộc được nói cho những người lắng
nghe: Hãy tìm hiểu! Cho thấy ý nghĩa tiềm ẩn
trong sự so sánh: đó là lời mời gọi để thấm nhập sâu xa vào ý nghĩa
Lời của Chúa Giêsu để hiểu được chương trình của Thiên Chúa dành cho thế
gian. Khi cây vả rụng lá vào cuối mùa thu, chậm trễ hơn so với các
cây khác, thậm chí qua khỏi mùa xuân, nó lại loan báo sự xuất hiện của mùa hè.
Câu
29: Cũng
vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con biết là Người
đã tới gần ngoài cửa rồi. Loài người có thể biết kế hoạch của
Thiên Chúa từ các sự kiện xảy ra. Những điều mà phải xảy ra là
gì? Máccô đã nói về sự tàn phá đáng tởm kinh hồn trong câu
14. Đó là dấu hiệu, dấu hiệu của sự kết thúc là việc tái giáng lâm,
sự xuất hiện của Con Người. Những điều đó là sự khởi đầu các tai
ương sẽ đem đến cho nhân loại một sự ra đời mới, bởi vì Người rất gần, ở
ngoài cửa rồi.
Câu
30: Thầy bảo thật các con: thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi
sự đó xảy đến. Nhiều
giả thuyết đã được đưa ra liên quan đến ý nghĩa của thế hệ này. Đó
là lời diễn đạt Kitô giáo hơn là lời khẳng định về trình tự thời
gian. Giáo Hội sơ khai tiếp tục khẳng định sự không chắc chắn về thời
điểm chính xác, dù rằng nó nắm chặt vào niềm hy vọng rằng Chúa sẽ đến nay
mai. Mọi tín hữu, bất kỳ tuổi tác, khi đọc đến đoạn Tin Mừng này, có
thể nghĩ rằng mình là một phần tử của thế hệ này.
Câu
31: Trời
đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi. Chắc chắn rằng những lời của Chúa sẽ không bao giờ
qua đi, thêm lòng tự tin cho những ai suy niệm về sự suy tàn của thế gian và những
việc về thế gian. Xây dựng trên Lời Chúa có nghĩa là sự tàn phá đáng
tởm kinh hồn sẽ không kéo dài và mặt trời, mặt trăng và các tinh tú sẽ không mất
đi vẻ huy hoàng của chúng. Thời khắc hiện tại của Thiên Chúa trở
thành cách duy nhất cho loài người tiến tới bản thể riêng của họ, bởi vì nếu
trong lời nói của họ hiện tại không bao giờ trở thành quá khứ, thì họ không cần
phải sợ cái chết.
Câu
32: Nhưng về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các
thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi. Tận thế thì chắc chắn, nhưng
sự hiểu biết khi nào nó sẽ xảy đến thì được dành riêng cho Chúa
Cha. Chúa Giêsu không bao giờ nói chính xác về vấn đề
này. Vì vậy, bất cứ ai giả vờ có một số lời giảng dạy giả định của
mình, người ấy đang nói dối. Tận thế là một trong những bí mật không
thể thăm dò được vì đó thuộc về Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Con là thiết
lập nước trời, không phải là mặc khải về sự ứng nghiệm lịch sử nhân loại. Do
đó, Chúa Giêsu chia sẻ sâu xa trong tình trạng loài người chúng
ta. Thông qua việc tự nguyện hiến thân của mình, Người thậm chí còn
vâng phục với khả năng không biết về ngày nào hoặc giờ nào của việc tận thế.
c)
Suy niệm:
Khổ
đau gian truân giống như lương thực hằng ngày trong đời sống con người và nó là
dấu hiệu của sự xuất hiện của Con Thiên Chúa. Một cuộc sống cưu mang
với một khuôn mặt mới, không thể không biết đến sự đau đớn của việc sinh nở. Con
cái của Đấng Tối Cao, phân tán đến tận cùng trái đất, cách xa nhau, sẽ được tề
tựu từ khắp bốn phương trời bởi thần khí Thiên Chúa thổi trên trái đất. Con
Người ngự đến tên đám mây khi mà mắt chúng ta nhìn chăm chăm trên đất, trên những
công trình bé bỏng của chúng ta, lẫn lộn giữa những giọt nước mắt của ảo tưởng
và của thất bại. Nếu chúng ta có thể ngước mắt khỏi những điều khốn
khổ của chúng ta để nhìn thấy Người ngự đến từ chân trời của lịch sử chúng ta,
thì cuộc sống chúng ta sẽ được tràn đầy ánh sáng và chúng ta sẽ tìm hiểu để đọc
tác phẩm của Người trong cát về những suy tưởng và ý muốn của chúng ta, về những
thất bại và ước mơ, về các thái độ và sự học hỏi của chúng ta. Nếu
chúng ta có can đảm để lật qua các trang của đời sống thường nhật và ở đó nhặt
nhạnh những hạt giống vương vãi trong các luống cày của con người chúng ta, thì
tâm hồn chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an. Sau đó, những lời hão huyền,
thú vui phù phiếm hoang phí thời gian, sẽ chỉ là quên lãng bởi vì tảng đá mà
trên đó chúng ta sẽ xây dựng sẽ là tảng đá Lời của Thiên Chúa hằng sống. Nếu
không ai biết ngày nào hoặc giờ nào, thì đó không phải là việc để cho chúng ta
suy đoán. Chúa Cha biết và chúng ta tin cậy nơi Người.
4.
Cầu Nguyện
Sách
Khôn Ngoan 9:1-6, 9-11
Lạy
Thượng Đế của bậc tổ tiên,
lạy Đức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật,
dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người,
để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên,
và sống sao cho thánh thiện công chính
mà chỉ huy cả vũ trụ này,
cùng được một tâm hồn ngay thẳng
mà phân biệt phải trái.
Xin rộng ban cho con
Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà Chúa.
Xin đừng đuổi con đi mà chẳng nhận làm con.
Vì thân này là tôi tớ, con của nữ tỳ Ngài,
số phận mỏng manh, cuộc đời vắn vỏi,
việc pháp đình lề luật, con bé bỏng hiểu chi!
Quả thế, con người ta dẫu thập toàn đi nữa
mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài,
thì cũng kể bằng không không vậy.
lạy Đức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật,
dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người,
để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên,
và sống sao cho thánh thiện công chính
mà chỉ huy cả vũ trụ này,
cùng được một tâm hồn ngay thẳng
mà phân biệt phải trái.
Xin rộng ban cho con
Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà Chúa.
Xin đừng đuổi con đi mà chẳng nhận làm con.
Vì thân này là tôi tớ, con của nữ tỳ Ngài,
số phận mỏng manh, cuộc đời vắn vỏi,
việc pháp đình lề luật, con bé bỏng hiểu chi!
Quả thế, con người ta dẫu thập toàn đi nữa
mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài,
thì cũng kể bằng không không vậy.
Đức
Khôn Ngoan ở kề bên Chúa,
biết những việc Chúa làm,
hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ,
biết rõ những gì đẹp mắt Chúa
và phù hợp với huấn lệnh của Ngài.
Tự cõi trời thánh thiêng Chúa ngự,
xin gửi Đức Khôn Ngoan Ngài tới,
xin phái đến từ toà cao vinh hiển,
để phù trì và đồng lao cộng khổ với con,
cho con biết điều đẹp ý Chúa.
Vì Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả,
sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm,
lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con.
biết những việc Chúa làm,
hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ,
biết rõ những gì đẹp mắt Chúa
và phù hợp với huấn lệnh của Ngài.
Tự cõi trời thánh thiêng Chúa ngự,
xin gửi Đức Khôn Ngoan Ngài tới,
xin phái đến từ toà cao vinh hiển,
để phù trì và đồng lao cộng khổ với con,
cho con biết điều đẹp ý Chúa.
Vì Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả,
sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm,
lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con.
5.
Chiêm Niệm
Lạy
Chúa, con nhìn lên nhánh cây mong manh của cây vả đó là đời sống của con và con
chờ đợi. Như bóng tối của ban đêm kéo dài dọc theo lối con đi, con
nghĩ lại về những lời của Chúa. Tâm hồn con tràn ngập sự bình an xiết
bao khi ý nghĩ của con ở trong Chúa! Trong thời gian của Chúa, sự
mong đợi của con về Chúa sẽ được viên mãn. Trong thời gian của con,
những kỳ vọng của Chúa về con sẽ được hoàn thành. Thời gian mầu nhiệm
thay, quá khứ, tương lai và hiện tại muôn đời! Những con sóng của
hôm nay vượt trên kinh nghiệm đốt cháy của sự hiện diện của Chúa và nhắc nhở
con về trò chơi trên cát rằng luôn bị xóa sạch đi bởi sóng biển. Thế
nhưng, con lại hạnh phúc. Hạnh phúc vì con chẳng là gì, hạnh phúc với
cát biển sẽ không tồn tại, bởi vì một lần nữa Lời Chúa tiếp tục được viết. Chúng
con muốn thời gian ngưng đọng, viết và nói, đạt được các công trình của tình
yêu có hương thơm của con linh dương ngoan ngoãn đứng yên, có âm thanh của những
tiếng nói không có hình dáng rõ rệt là căn bản cho đời sống hằng ngày, hương vị
của sự trả thù đẫm máu về một cái ôm trả lại… các công trình không bền vững ngoại
trừ ở trong tim của Thiên Chúa và trong tưởng nhớ về người sống là những người
nhạy cảm với sự bay bổng của chim bồ câu trong thiên đàng về sự tồn tại của họ. Tình
yêu dịu dàng của linh hồn con, xin cho con mỗi ngày có thể ngước nhìn đám mây
và được đốt cháy bởi nỗi mong chờ sự trở lại của Chúa. Amen.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét