23/08/2019
Thứ Sáu tuần 20
thường niên
BÀI ĐỌC I: R 1, 1. 3-6.
14b-16. 22
“Bà Nôêmi cùng nàng dâu người
Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem”.
Khởi đầu sách truyện
Bà Ruth.
Khi các quan án cầm
quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người
thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền
Môab.
Và Elimêlech, chồng bà
Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ:
một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm,
thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi
không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về
quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.
Bà Orpha hôn mẹ chồng
và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: “Kìa,
chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị
con”. Bà Ruth thưa lại rằng: “Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu
thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ
là Thiên Chúa của con”.
Vậy bà Nôêmi cùng nàng
dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt
lúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 145, 5-6. 7.
8-9a. 9bc-10
Đáp:Linh hồn tôi
ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Phúc thay người được
Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của
mình: Người là Đấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa
đựng. – Đáp.
2) Người là Đấng trả lại
quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu
gỡ những người tù tội. – Đáp.
3) Thiên Chúa mở mắt
những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên
Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.
4) Thiên Chúa nâng đỡ
những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ
làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang
đời khác. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia!
– Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm
nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là
Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt
phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau
lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy,
trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng:
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng
giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể
lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Giới Răn Yêu
Thương
Tuần báo Newsweek số
ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư
máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu
cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu
kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể
cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái
Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu
ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy
nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một
điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm
của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ
có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực
sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc
lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ,
Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và
yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến
Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu
thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình
yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và
các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện
và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là
những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng
tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên
ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả
hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục,
nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện
toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ
Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn
là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy
tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức:
"Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến
Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương
người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống
của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là
Yêu Thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 20 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: Ruth
1:1, 3-6, 14b-16, 22; Mt 22:34-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.
Ngày xưa, khi còn ở Việt-nam,
các con dâu rất sợ mẹ chồng và sợ làm dâu cho gia đình chồng, vì có những bà mẹ
chồng rất khắc nghiệt. Họ quan niệm phải trả thù con dâu, vì ngày xưa khi làm
dâu, họ cũng từng bị đối xử như vậy. Ngày nay, bên các xứ Âu Mỹ này, các mẹ chồng
lại sợ con dâu, và nhiều còn gọi là “bà dâu.” Họ sợ con dâu bầy ra những lý do
để cho họ vào viện dưỡng lão, và nhất là sợ con dâu sẽ ly dị để con trai mình
phải ở góa. Cả hai thái cực đều quá đáng, và cả mẹ chồng lẫn con dâu Công Giáo
cần phải thay đổi thái độ. Khi đối xử với nhau xung khắc như thế, họ đã không
giữ giới răn “mến Chúa yêu người” như Chúa dạy. Ngoài ra, họ còn đặt con trai
hay người chồng của họ vào vị thế phải điên đầu chọn lựa giữa “bên tình, bên hiếu.”
Chọn bên nào cũng không được vì Thiên Chúa đòi phải chọn cả hai.
Các Bài Đọc hôm nay
cung cấp các chất liệu cho mọi người, cách riêng mẹ chồng con dâu, những chất
liệu để suy tư. Trong Bài Đọc I, tác giả cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về
mối liên hệ giữa mẹ chồng Naomi và con dâu Ruth. Bà Naomi phải cư xử với con
dâu đặc biệt thế nào, đến nỗi khi con trai của Bà chết rồi mà nàng Ruth có thể
thưa với Bà: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về không theo mẹ nữa, vì mẹ đi
đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ
là Thiên Chúa của con.” Trong Phúc Âm, khi một kinh sư đến hỏi thử Chúa Giêsu:
“Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Chúa
Giêsu đã tuyên bố rõ ràng hai giới răn: Mến Chúa, yêu người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa
của con.
1.1/ Hoàn cảnh đáng
thương của bà Naomi: Tác giả kể: “Vào thời
các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và
hai con trai bỏ Bethlehem miền Judah mà đến ở trong cánh đồng Moab. Rồi ông
Elimelech, chồng bà Naomi, chết đi, còn lại bà Naomi và hai đứa con. Hai người
này lấy vợ Moab, một người tên là Orpah, người kia tên là Ruth. Họ ở lại đó chừng
mười năm. Rồi Mahlon và Chilion cả hai đều chết, còn lại bà Naomi mất chồng, mất
con.”
Không thể sống trong cảnh
góa bụa nơi đất khách quê người, bà Naomi quyết định bỏ cánh đồng Moab để trở về
quê hương là Bethlehem, vì Bà nghe nói là Đức Chúa đã viếng thăm dân Người và
cho họ có bánh ăn ở đó.
1.2/ Sự trung thành và
kính mến mẹ chồng của bà Ruth.
(1) Lời khuyên của bà
Naomi cho hai nàng dâu người Moab: Trước khi lên đường, bà Naomi gọi hai người
con dâu tới mà nói với họ: vì hai con trai của Bà đã chết, và Bà cũng chẳng có
người con trai nào nữa cho họ kết hôn; nên họ không có bổn phận phải đi theo
Bà. Họ có thể ở lại quê hương của họ và tái hôn như lòng họ mong muốn.
(2) Phản ứng của hai
nàng dâu ngoại quốc: Hai người con dâu lại oà lên khóc. Orpah ôm hôn từ giã mẹ
chồng, còn Ruth thì cứ khắng khít theo bà. Bà Naomi nói: “Kìa chị dâu con trở về
với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về
đi!” Ruth đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi
đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ
là Thiên Chúa của con.”
Đây là một lời khuyên
xứng đáng được người Do-thái cho vào lịch sử vì những lý do sau:
+ Tình cảm đặc biệt giữa
mẹ chồng và nàng dâu: Mối liên hệ này thường không tốt đẹp. Để nàng Ruth có thể
thốt lên những lời này, nhất là khi chồng nàng không còn nữa, đòi bà Naomi phải
chiếm được cảm tình đặc biệt của con dâu mình.
+ Mối liên hệ giữa người
Do-thái và người Moab: Truyền thống Do-thái có thói quen khinh thường mọi dân tộc
khác; họ không muốn có liên hệ gì với những người dân ngoại. Để nàng Ruth có thể
thốt lên câu “dân của mẹ là dân của con,” đòi bà Naomi đối xử với con dâu mình
như một người Do-thái. Hơn nữa, đây cũng là điềm tiên báo khi Đấng Cứu Thế đến,
sẽ không còn chia cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại như thánh Phaolô mô tả.
+ Tình người giữa hai
mẹ con dẫn nàng Ruth tới chỗ chấp nhận “Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của
con.” Cuộc sống của bà Naomi đã trở nên gương sáng cho nàng Ruth biết và tin
vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Hai điều răn quan trọng nhất
2.1/ Kính mến Thiên Chúa
trên hết mọi sự: Khi nghe tin Đức Giêsu đã
làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại.
Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy,
trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu đáp:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết
trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”
Đây là điều răn thứ nhất
trong Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho người Do-thái qua ông Moses trên núi
Sinai. Người Do-thái gọi điều răn này là Shema; và để cho khỏi
quên, họ viết vào giấy rồi đeo nó trên đầu như thẻ kinh, và đựng vào hai cái hộp
nhỏ để đeo trên hai cánh tay mỗi khi cầu nguyện. Ngoài ra họ còn dán trên cửa
nhà và cửa thành, để nhắc nhở cho những ai qua lại phải nhớ. Một giới răn quan
trọng và được dán khắp mọi nơi như thế, mà các kinh-sư và biệt-phái còn hỏi
Chúa Giêsu! Chúng ta không tìm thấy lý do nào khác ngoài lý do họ khinh thường
Chúa.
Điều răn này tuy dễ để
nhớ, nhưng không dễ để thi hành, cho cả người Do-thái xưa lẫn các Kitô hữu ngày
nay. Người Do-thái biết phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vẫn đúc
bê vàng để thờ hay chạy theo các thần ngoai bang khác. Người tín hữu ngày nay vẫn
đặt các thứ thần khác lên trên Thiên Chúa như các thần: tiền, danh vọng, chức
quyền, khoái lạc … Họ có thể bỏ lễ Chủ Nhật hay các việc thờ phượng để làm việc,
coi football, đi du lịch …
2.2/ Yêu người thân cận
như chính mình: “Còn điều răn thứ hai, cũng
giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Hai luật “mến
Chúa, yêu người” không thể tách rời nhau, nhưng bổ xung cho nhau. Thánh Gioan
tuyên bố: Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối, và sự thực
không có nơi người ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Khi con dâu thương mẹ
chồng là nàng thương chồng. Điều răn thứ tư dạy phải thảo hiếu cả bố mẹ ruột lẫn
bố mẹ chồng; đừng ích kỷ chỉ biết thảo hiếu bố mẹ ruột của mình mà thôi.
– Khi mẹ chồng thương
con dâu là thương con trai mình. Các bà mẹ đừng bao giờ để con trai mình phải
chọn giữa mẹ và vợ. Thiên Chúa muốn con mình vừa phải thảo hiếu cha mẹ, vừa phải
trung thành với vợ cho đến chết.
– Kính mến Thiên Chúa
là phải yêu thương tha nhân và giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/08/19 – THỨ NĂM TUẦN 20 TN
Th. Rô-sa Lima, trinh nữ
Mt 22,34-40
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều
răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình.” (Mt 22,37-39)
Suy niệm: Đạo Công giáo là đạo yêu
thương: mến Chúa yêu người là nét đặc trưng của đạo này. Tính yêu thương ấy bắt
nguồn từ Thiên Chúa, Ngài chính là Tình Yêu (1Ga 4,7-8). Phần con người, được tạo
dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, Công đồng Vatican II gọi là “thiên chức toàn
vẹn của con người” (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, 11), con người có khả năng
yêu thương và được mời gọi để yêu thương. Vì thế, muốn mến Chúa thì phải yêu
người: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Chỉ có thể làm được điều đó
trong Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã đồng hóa mình với con người,
đặc biệt với người nghèo khổ.
Mời Bạn: Khi nói tới yêu thương, phải
nghĩ ngay đến việc dấn thân phục vụ. Bởi qua sự chân thành phục vụ, chúng ta mới
cảm nghiệm được sự đồng cảm, chia sẻ và khích lệ nâng đỡ nhau trong từng cảnh đời
cụ thể. Vì vậy, khi bạn chấp nhận nhau, quảng đại, yêu thương và tha thứ cho
tha nhân, bạn mới thấm thía được sự yêu thương của Chúa dành cho mỗi người
chúng ta.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm yêu như Chúa
yêu, để rồi phục vụ mà không so đo tính toán, dấn thân mà không bon chen ích kỷ,
sống chân thành và tôn trọng mọi người Chúa Giê-su đang hiện diện trong họ, để
khi phục vụ yêu mến họ, là ta đang phục vụ yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Hát Kinh Hòa
Bình.
(5 Phút Lời Chúa)
Điều răn trọng nhất (23.8.2019 –
Thứ Sáu Tuần 20 Thường niên)
Suy niệm
Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Lời nguyện
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa.
Thánh Âu Tinh
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa.
Thánh Âu Tinh
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG TÁM
Chúng Ta Đang Ở Giữa
Một Trận Chiến
“Như lời Chúa phán (Mt
24,13), cả lịch sử nhân loại là một trận chiến cam go chống lại quyền lực bóng
tối, khời đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng. Dấn
thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự
thiện và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình sau khi hết sức cố gắng với
sự trợ giúp của ơn Chúa” (MV 37).
Chúng ta có thể kết luận
rằng mặc dù không được đồng hóa sự phát triển của Nước Thiên Chúa với sự phát
triển và tiến bộ thế tục, song quả thực rằng Nước Thiên Chúa có mặt ngay nơi thế
giới và, nhất là, nơi con người sống và hoạt động trong thế giới. Người Kitôhữu
biết rằng xuyên qua những nỗ lực của chính mình cùng với sự giúp đỡ của ơn
Chúa, mình đang làm cho Nước Thiên Chúa trở thành hiện thực. Công việc của mọi
Kitô hữu dẫn đến sự hoàn thành của mọi sự trong Đức Kitô, theo kế hoạch quan
phòng của Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23/8
Thánh Rôsa Lima, trinh
nữ
R 1,
1.3-6.14b-16.22; Mt 22, 34-40.
LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy,
trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Khi người thông luât đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật
Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36) Chúa Giêsu đáp: “ngươi
phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi, đó là điều răn quan trọng nhất. Còn điều răn thứ hai, cngx giống điều
răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính minh. Tất cả Lề Luật và các
Sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-4). Mười Điều Răn phải
được giải thích dưới ánh sáng của điều răn tu hai mà một, là đức mến, đó là
viên mãn của lề luật.
Lạy Chúa Giêsu. Trong thư Rôma cho chúng con biết: “Đã yêu thương thì không làm
hại người đồng loại, yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy!” (Rm 13,9-10). Xin cho
mỗi người chúng con luôn sống biết yêu thương, tha thứ và nâng đỡ nhau trong cuộc
sống để tất cả được Chúa yêu thương.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-8
Thánh ROSA LIMA
Đồng Trinh (1586 –
1617)
Có những vị thánh chỉ
đáng cho chúng ta thán phục hơn là bắt chước. Thánh Rosa thuộc loại này. Chúng
ta tôn kính và thán phục sự thánh thiện của Ngài nhưng không phải tìm cách bắt
chước theo đường lối Ngài đã theo để nên thánh. Thánh Rosa chính là người đầu
tiên ở tân thế giới được phong thánh. Ngài trở nên quan trọng vì chứng tỏ rằng
giữa sự bất công và phi nhân dính liền với cuộc chinh phục Mỹ Châu của người
Tây Ban Nha. Men Kitô giáo vẫn hoạt động.
Rosa sinh tại Lima nước
Peru năm 1568. Cha mẹ Ngài, ông Caspar del Flores và Maria del Oliva đặt tên
cho Ngài là Isabelle. Nhưng vì sắc đẹp của Ngài, người ta gọi Ngài bằng tên một
loài hoa Rosa. Khi đến tuổi có trí khôn thánh nữ đã muốn được gọi là Rosa
Maria, để tỏ lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ. Ngài còn có lòng yêu mến đặc biệt
thánh nữ Catarina Siena và can đảm bắt chước vị thánh này vì lòng yêu mến sống
thinh lặng, hãm mình cũng như chuyên chăm cầu nguyện. Dường như được ơn Chúa
gìn giữ đặc biệt, nên ngay vào buổi mà các trẻ em khác chưa có trí khôn, thánh
nữ đã có những nét thánh thiện, đáng ghi nhớ. Năm tuổi, Ngài đã hứa giữ mình
trinh khiết. Sáu tuổi Ngài đã ăn chay 3 lần trong tuần, chỉ ăn bánh và uống nước
thôi.
Gia đình nghèo túng,
Rosa mất ngủ lại thiếu ăn lại còn tự ý hãm mình để giảm đi sức hấp dẫn tự
nhiên. Khi khách đến thăm khen ngợi sắc đẹp của mình, thánh nữ thoa hồ tiêu lên
má cho sưng phồng lên. Cẩn thận ngâm tay vao vôi khiến cả tháng không một việc
được. Khi người mẹ kết một vòng hoa lên đầu cho Ngài, thánh nữ kín đáo kết gai
vào trong cho đau đớn để cảnh giác tính xa hoa.
Gia đình gặp bước khó
khăn, thánh Rosa đã tận tụy làm vườn suốt ngày, đêm về lại thức giấc vá may.
Thánh nữ luôn luôn vâng lời cha mẹ. Dầu vậy trên mười năm rời, Ngài đã dốc quyết
từ khuốc bước vào hôn nhân. Ngài còn cắt ngắn mái tóc đẹp hiếm hoi của mình. Sự
từ khước đã gây nên nhiều phản ứng khốc liệt. Người ta bắt dầu vu oan giá hoạ
cho Ngài đủ điều, nhưng Ngài đã nhẫn nại chịu đựng tất cả. Năm 1606, Ngài gia
nhập dòng ba Đaminh và nhận thánh Catarina như gương mẫu đời mình.
Ngoài những hy sinh
hãm mình tự ý. Thánh Rosa còn phải trải qua những năm bị hiểu lầm, mù tối trong
chính nội tâm. Dầu vậy Ngài vẫn nhẫn nại, khiêm tốn chịu dựng và không bao giờ
mất niềm tín thác vào lòng từ bi vô bờ của Chúa. Ngài tìm săn sóc những trường
hợp ghê tởm nhất.
15 năm khủng khiếp
trôi qua. Tâm hồn trung tín anh hùng đã được ân thưởng. Thánh Rosa gặp lại được
ánh sáng. Ngài mời gọi mọi tạo vật hợp ý ca ngợi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài
nói: – Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đón
tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là cái giá khôn sánh
đáp đền cho lòng nhẫn nại.
Đối với phép Thánh Thể
Ngài nói : – Điều mà mặt trời thực hiện trong thế giới hữu hình, sự thông hiệp
Thánh Thể sẽ phát sinh trong tôi.
Quả quyết tình Chúa
quan phòng còn lớn gấp bội những khốn khổ và yếu đuối của con người, Ngài nói:
– Tôi có một hôn phu có thể làm điều lớn lao nhất, sở hữu điều họa hiếm nhất.
Tôi thấy mình mới chỉ biết trông đợi nơi Người có một chút đỉnh thôi.
Từ đây, Ngài luôn được
an bình, Ngài sống trong một cái chòi như một nhà ẩn tu. Năm 1614, Ngài ở dưới
sự bảo trợ của ông Don Gonzalo de Massa và vợ ông. Họ cho Ngài trọ và săn sóc
Ngài trong cơn bệnh dài trước khi chết.
Vào đầu tháng tám cuối
đời, cơn bệnh đau đớn dữ dội. Ngài thú nhận: – Tôi không hiểu được tại sao bao
nhiêu đau đớn như vậy lại đổ trên đầu một tạo vật.
Nhưng đầy can đảm Ngài
nói : – Lạy Chúa xin tăng thêm những đau đớn, miễn là Chúa cũng thêm lòng yêu mến
cho con.
Ngày 24 tháng 8 năm
1617 thánh nữ qua đời với lời cuối cùng trên môi : – Chúa Giêsu, Chúa Giêsu,
Chúa ở với tôi .
(daminhvn.net)
23 Tháng Tám
Hoa Ðầu Mùa Của Mỹ Châu
Hôm nay Giáo Hội
kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ. Thánh nữ có hai đặc điểm
mà dường như vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống khắc khổ.
Chọn thánh nữ
Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sợ nhan sắc
của mình có thể quyến rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho chính mình,
Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến mình thành một người xấu xí. Cô cũng lấy
thép cuốn thành vòng gai nhọn đội trên đầu.
Nhưng Rosa không phải
là một con người mơ mộng viển vông. Khi thấy gia đình gặp khó khăn về kinh tế,
Rosa đã hy sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá suốt đêm để kiếm
tiền đắp đổi cho gia đình. Sống cho cha mẹ, lo cho gia đình, nhưng Rosa vẫn quyết
tâm dâng hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để chống lại ý định của cha
mẹ nhằm cưỡng bách cô phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì cha mẹ cũng không chấp
nhận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba thánh Ða Minh. Như thế cô vừa
sống được lý tưởng tu dòng vừa sống thánh giữa đời.
Trong những năm cuối
đời, Rosa dành một phòng trong nhà để đón tiếp trẻ em không nhà không cửa và những
người già cả bệnh tật. Ðây là một trong những hình thức hoạt động xã hội đầu
tiên tại Pêru.
Rosa qua đời năm 31
tuổi. Cả thành phố Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết hợp tinh thần
chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.
Thánh Rosa kể lại rằng
trong một giấc mơ, ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc dành cho những
người muốn nên thánh. Thánh nhân chứng kiến cảnh không biết bao nhiêu người
đang ngồi trước các khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong một tác phẩm
nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục đẽo trên một phiến đá sần sù, cứng nhắc.
Thánh nữ cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và đặt ngồi trước một
phiến đá lớn. Người mẫu của tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên Chúa đã đặt để
từ đời đời trong thánh nữ.
Mỗi ngày chúng ta kính
nhớ một vị thánh. Mỗi một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta về ơn gọi nên thánh
của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào giống vị thánh nào. Không ai bắt
buộc phải sống khuôn dập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi người là một vị thánh
cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: đó là họa lại hình ảnh của Thiên
Chúa trong cuộc đời của mình.
Và hình ảnh mà Thiên
Chúa muốn mỗi người chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính mình là Ðức Giêsu
Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Ðức Kitô, mà còn sống bằng chính Ðức
Kitô. Họa lại Ðức Kitô cũng có nghĩa là để cho Ðức Kitô uốn nắn, tạc vẽ cho đến
khi nào chúng ta đạt được tầm mức của Ngài.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét