THỨ TƯ SAU CHÚA NHẬT X THƯỜNG
NIÊN
BÀI ĐỌC I:1 V 18, 20-39
"Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa
đã hoán cải lòng họ".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Vua
Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel
và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel .
Bấy
giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến
khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên
chúa, thì hãy theo nó đi!" Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói
tiếp: "Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì
có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy
một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi,
tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Đoạn các ông hãy
kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Đấng
nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Đấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng
thanh đáp: "Đề nghị hay đấy!"
Vậy
Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò
và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các
ông, nhưng đừng châm lửa". Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt.
Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin
nghe lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ
nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ
rằng: "Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là
tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức
dậy". Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho
đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật
thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.
Bấy
giờ Êlia nói với toàn dân rằng: "Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến
gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười
hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời
Chúa phán như sau: "Ngươi sẽ gọi là Israel ". Ông dùng các hòn đá ấy
làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt
giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi.
Đoạn ông nói: "Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi".
Và họ làm như thế. Ông còn dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai".
Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần
thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.
Khi
đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là
Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa
truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời
con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ".
Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất,
đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp
mặt xuống đất mà nói rằng: "Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8.
11
Đáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm
nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy
Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con. - Đáp.
2)
Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần
tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc
tên chúng trên môi. - Đáp.
3)
Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của
con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ
không nao núng. - Đáp.
4)
Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 17-19
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để
kiện toàn".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để
huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy
trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ
bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể
là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những
điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Đó là lời Chúa.
LỜI CHÚA MỖI
NGÀY
Thứ tư sau CN X TN B
Bài đọc: 1 Kgs 18:20-39; Mt 5:17-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Biết phân biệt những gì thuộc
Thiên Chúa hay thuộc con người
Sống trong cuộc đời vàng thau lẫn lộn, sự
thật trộn với sự sai lầm, người tín hữu cần Chúa Thánh Thần để nhận ra sự thật
từ biết bao sự sai lầm trong thế gian.
Các bài đọc hôm nay nêu bật một số nguyên
tắc giúp người tín hữu nhận ra sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah bày ra
cuộc thi đấu giữa ông và tất cả nhà vua, 450 ngôn sứ của Baal, và toàn thể nhà Israel . Mục
đích của ngôn sứ là để cho tất cả nhận ra đâu là Thiên Chúa đích thực để thờ
phượng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phân biệt Luật của Thiên Chúa
và luật của con người. Luật của Thiên Chúa thì bất biến trong khi luật của con
người có thể thay đổi và bị hủy diệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu Đức Chúa là
Thiên Chúa, các ngươi hãy từ bỏ thần Baal và thờ phượng Người.
1.1/ Vua chúa và hầu hết con cái Israel
chạy theo thần Baal: Con người rất dễ quên và hay thay đổi. Dưới thời vua Ahab, nhà
vua và hầu hết dân chúng đã chạy theo thần Baal của người Sidon
và Canaan . Họ hầu như quên hẳn những gì Thiên
Chúa đã làm cho tổ tiên của họ. Một số những lý do làm cho con người quay lưng
với sự thật:
(1) Sự thật mất lòng: Thiên Chúa đòi con
người phải đi con đường hẹp, nhưng con người lại thích đường rộng rãi thênh
thang và cuộc sống dễ dãi. Đa số những người vô thần không phải họ không biết
có Thiên Chúa, nhưng họ sợ nếu tin họ phải giữ các giới răn của Thiên Chúa, hay
ít nhất họ sẽ phải cắn rứt lương tâm khi làm điều sai trái; vì thế, họ từ chối
luôn Chúa để dễ dàng phạm tội. Đã không tin Thiên Chúa thì chớ, nhiều khi họ
còn khó chịu khi thấy người khác biểu tỏ niềm tin vì làm cho lương tâm của họ bị
cắn rứt; nên họ nhân danh tự do để đòi chính phủ phải cấm luôn những biểu lộ
này. Thật vô lý khi họ được tự do để sống vô thần nhưng lại bắt các người khác
không được sống hữu thần!
(2) Lý do chính trị: Vua Israel, sau khi
đất nước bị chia đôi, không muốn dân của mình xuống Jerusalem tham dự các lễ
nghi, vì sợ họ nếu cứ xuống đó, sẽ theo vua Judah thì sẽ mất dân; nên nhà vua
đã cho làm hai tượng bò vàng bắt dân thờ: một tượng đặt ở Bethel giữa biên giới
của hai vương quốc Israel và Judah, tượng kia đặt ở Dan giữa biên giới của
Israel với Syria.
(3) Lợi nhuận và hưởng thụ vật chất: Quỉ thần và thế
gian biết chiếc mồi hiệu nghiệm nhất cho con người là tiền của. Với sức mạnh của
đồng tiền cám dỗ, ít người có thể thắng nổi.
(4) Chiều theo ý của người khác: Nhiều người biết
sự thật nhưng không có can đảm để sống theo sự thật. Vua Ahab chiều theo ý của
bà hoàng Jezebel vì sợ phật lòng mỹ nhân. Một số con cái chiều theo ý của cha mẹ
không dám theo đạo hay đi tu vì sợ mang tội bất hiếu.
1.2/ Cuộc thi đấu giữa ngôn sứ Elijah và 450
ngôn sứ của Baal
(1) Đề nghị của ngôn sứ Elijah: Để chứng tỏ đâu là
Thiên Chúa thật, ngôn sứ Elijah đề nghị cách thức giải quyết bằng cách mỗi bên
lập đền thờ của mình, sát tế bò làm của lễ nhưng không đốt lửa, rồi kêu cầu với
Thiên Chúa của mình. Thần nào cho lửa thiêu xuống đốt của lễ, đó là thần thật
mà mọi người phải thờ phượng. Đây là:
+ Một đề nghị can đảm: Chỉ một mình ngôn sứ
Elijah chống lại vua Ahab, 450 ngôn sứ của Baal, và tất cả con cái Israel, để
làm chứng cho sự thật. Elijah mời gọi tất cả phải xét lại niềm tin vô lý của họ: “Các ngươi nhảy khập
khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người;
còn nếu là Baal thì cứ theo nó!”
+ Một đề nghị rất táo bạo: nhưng nói lên niềm
tin vững mạnh của ngôn sứ Elijah vào Thiên Chúa. Nếu kết quả không như nguyện ước,
ngôn sứ sẽ mất mạng vào tay vua Ahab và các ngôn sứ của Baal.
+ Một đề nghị rất hữu hiệu: Chẳng gì hữu hiệu
cho bằng mắt thấy tai nghe. Đề nghị này chẳng những giúp con cái Israel nhận ra
uy quyền của Thiên Chúa, mà còn thấy sự vô hiệu của việc thờ các thần khác.
1.3/ Kết quả cuộc thi đấu
(1) Cố gắng của 450 ngôn sứ của Baal: Họ kêu cầu danh
thần Baal từ sáng tới trưa: "Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi!" Nhưng không một tiếng
nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng.
Theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi
mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng
nói, không ai trả lời, không người để ý. Trả lời sao được khi Baal chỉ là sản
phẩm tưởng tượng do con người làm ra!
(2) Elijah chứng tỏ quyền năng của Thiên
Chúa:
Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Elijah tiến ra và nói: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của
Abraham, Isaac và Israel !
Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Israel Ngài là Thiên Chúa và con là
tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời
con, lạy Đức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Đức Chúa,
Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ." Bấy giờ lửa của Đức
Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn
luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: "Đức Chúa quả là
Thiên Chúa! Đức Chúa quả là Thiên Chúa!"
2/ Phúc Âm: Ai tuân hành và dạy
làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
Tất cả Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều
tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất từ Thiên Chúa và có khả năng giúp
con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở phía con người. Chúa Giêsu xác quyết: "Anh em đừng tưởng
Thầy đến để bãi bỏ Luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để
bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua
đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự
được hoàn thành.” Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1) Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và
phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi
và thờ phượng Chúa; chứ không phải để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến
sự sống như: có nên chữa bệnh nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để
ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc lãnh vực bảo vệ sự sống.
(2) Tạo thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật
của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể
những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa
thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do con người làm ra có thể thay đổi
hay hủy bỏ.
Khi Chúa tranh luận những việc liên quan đến
Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của
con người. Các kinh sư tranh luận với Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội
Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên
lý đứng đang sau là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ
cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chân lý không bao giờ lệ thuộc vào số
đông người vì số đông có khuynh hướng tương đối hóa chân lý theo sở thích. “Gió chiều nào
che chiều đó” sẽ không bao giờ dẫn con người tới đích điểm.
- Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo sở thích
của đám đông, nhưng phải bảo vệ những gì chân thật và tốt lành. Chúng ta phải sống
làm sao để đạt mục đích cuộc đời chứ không theo những đòi hỏi của thế gian và
xác thịt.
Lm.An-tôn Đinh Minh
Tiên,OP.
13/06/12 THỨ TƯ TUẦN 10 TN
Th. Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 5,17-19
Th. Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 5,17-19
MỖI NGƯỜI MỘT VIỆC
“Cả anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” (Mt 20,4)
Suy niệm: Theo qui luật, hễ nền kinh tế suy thoái, thì nạn thất nghiệp gia tăng vì các ông chủ thường tìm cớ sa thải công nhân. Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn lại không hành động theo qui luật kinh tế thị trường. Thợ được kêu vào làm vườn nho cho ông bất kể thời gian làm việc nhiều hay ít vẫn hưởng trọn số lương của một ngày lao động. “Lẽ công bằng” của ông là không ai phải thất nghiệp, trái lại “mỗi người một việc” ai cũng có một vai trò trong vườn nho của ông và vì thế đáng hưởng lương một đồng theo đúng lẽ công bằng.
Bạn thân mến, mỗi người chúng ta đầu là con cái Chúa và được Ngài yêu thương; mỗi người đều có một phẩm giá độc đáo trước mặt Ngài, đi kèm với những nghĩa vụ phải hoàn thành theo phận sự riêng, ơn gọi riêng của mình trong Đức Kitô. Mỗi người đều phải nhận biết ơn gọi của mình và dành tất cả tài năng, sức lực phục vụ Nước Chúa với tâm tình người con cái Chúa.
Chia sẻ: Cộng đoàn, giáo xứ không phải thiếu nhân lực, vật lực, nhưng công việc chung nhiều khi vẫn bị dở dang, trì trệ. Vì sao? Làm thế nào để mọi người đều tham gia trong công cuộc xây đắp Giáo Hội trong tinh thần hiệp thông?
Sống Lời Chúa: Sẵn sàng từ bỏ ý riêng của mình để tham gia công việc vì lợi ích chung của cộng đoàn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã mời con vào làm vườn nho của Chúa với tư cách là người con, chứ không phải kẻ làm thuê. Xin cho con biết nỗ lực làm việc cho Nước Chúa không phải vì tìm kiếm phần thưởng hay lợi lộc nhưng vì tình yêu của người con thảo hiếu đối với Chúa là Cha của con.
Để kiện toàn
Suy niệm:
Đã có thời người
ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc
cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết
cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi
phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không
dám theo đạo,
vì sợ theo đạo
thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh
Mátthêu, một số người Do Thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức
Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ
làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do Thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới
mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc
về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu khẳng định:
“Đừng tưởng Thầy
đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải
là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra
là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm
vụ trao lại cho dân Do Thái và giải thích Luật ấy.
Người Do Thái từ
bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng
mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định
của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt
bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải
thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết
rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng
trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức
Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi
là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới
trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục
này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời
chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách
giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn
thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật
Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc
Do Thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ
các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức
Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để
các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự
xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị
của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống
viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất
căn tính là người Việt Nam
hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều
kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị
cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn
trở nên con của loài người,
con của trái đất,
con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến
dân tộc của Chúa
dù họ từ khước
Tin Mừng
và đóng đinh
Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng
con biết yêu mến quê hương,
một quê hương
còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm
dài chiến tranh,
một quê hương
đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn
giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền
đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng
con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an
toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết
trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều
gì đó thật cụ thể
cho những đồng
bào quanh chúng con.
Ước gì chúng
con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc,
quả tim và đôi tay.
Và ước gì
chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với
muôn người thiện chí.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện
toàn".
Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn
là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau.
Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội
có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu
tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính
là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng
không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng
ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các
Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ
không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự
mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công
chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người
không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương
và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của
Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là
tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân
giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới
có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn
theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến
Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên
tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo
Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan
báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng
loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc
tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với
người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như
Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức
sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta
chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phục tùng Thiên Chúa
Timothy McVeigh, người
đã đặt bom sát hại một trăm sáu mươi tám người, trong đó có mười chín trẻ em dưới
sáu tuổi, tại Oklahoma City hồi năm 1995, đã bị đưa lên ghế điện và tắt thở vào
lúc bảy giờ mười bốn phút sáng ngày 6/6/2001. Người tử tội này không nói một lời
cuối nào nhưng thay vào đó, anh tự tay viết một bản tuyên ngôn, trong đó anh
trích dẫn bài thơ nổi tiếng bằng tiếng Latinh Vô Ðịch của thi sĩ William Ernest
Henry. Lời cuối của bài thơ được người tử tội trích dẫn là:
"Tôi làm chủ số phận của tôi
tôi là người chỉ huy của linh hồn
tôi".
Mượn hai câu thơ ấy, Timothy McVeigh muốn
nói lên thái độ không chút hối hận của anh. Anh muốn chứng tỏ cho mọi người thấy
rằng anh làm chủ không những sự sống của anh, mà ngay cả số phận của những người
khác nữa. Anh muốn sát hại ai là quyền của anh. Timothy McVeigh làm chủ số phận
của anh. Anh đã chọn cái chết, nhưng cái chết của thân xác anh không là điều
đáng nói. Biết bao nhiêu tử tội cũng đã bị đưa lên ghế điện và chết như anh. Ðiều
ái ngại hơn cả chính là cái chết của lòng hối hận, cái chết của lương tâm, cái
chết của sự hiểu biết về thiện ác nơi con người, cái chết đích thực của con người.
"Tôi làm chủ số phận của tôi
tôi là người chỉ huy của linh hồn
tôi".
Hai câu thơ của thi sĩ Henri được
Timothy McVeigh trích dẫn như một tuyên ngôn về cái chết do chính anh chọn lựa
gợi lên cho chúng ta thảm kịch đã xảy ra ở khởi đầu của lịch sử nhân loại. Ma
quỉ xúi giục ông bà nguyên tổ loài người ăn trái biết lành biết dữ: "Ngày
nào các ngươi ăn trái này, các ngươi sẽ nên giống như Chúa, nghĩa là các ngươi
sẽ không còn ai làm chủ trên các ngươi. Các ngươi sẽ làm chủ số phận các ngươi.
Các ngươi sẽ là người chỉ huy của linh hồn các ngươi". Thảm kịch do ông bà
nguyên tổ loài người khai mở chính là gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, là
không chấp nhận quyền chủ tể của Thiên Chúa. Thảm kịch ấy đã được nhân lên với
một cường độ khủng khiếp trong lịch sử nhân loại. Chính vì gạt bỏ Thiên Chúa ra
khỏi cuộc sống mà con người mới có thể chối bỏ phẩm giá và sự sống của người đồng
loại của mình. Tất cả những cuộc sát tế dọc theo lịch sử nhân loại thiết yếu là
một sự chối bỏ Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng
ta lắng nghe và suy niệm hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định quyền chủ tể đối với
con người. Qua Môisen và các tiên tri, Thiên Chúa ban bố Lề Luật cho con người.
Duy chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ tể trên con người. Lề Luật do Ngài ban
bố là thể hiện của quyền chủ tể ấy. Chúa Giêsu đã đến như một con người. Nói
như thánh Phaolô: "Ngài nên giống con người trong tất cả mọi sự, ngoại trừ
tội lỗi. Trong thân phận con người, Ngài đã thưa hai tiếng xin vâng trọn vẹn với
quyền chủ tể của Thiên Chúa". Chính trong ý nghĩa ấy mà Ngài khẳng định rằng
Ngài đến để kiện toàn Lề Luật. Ông bà nguyên tổ loài người đã phủ nhận quyền chủ
tể của Thiên Chúa và như vậy đã đưa sự chết vào trong thế gian.
Chúa Giêsu đã thưa xin vâng với quyền
chủ tể ấy. Chính nhờ cử chỉ phục tùng tuyệt đối ấy mà Ngài sáng lập sự sống của
loài người. Từ đây, con người chỉ thực sự sống và sống sung mãn khi phục tùng
Thiên Chúa mà thôi. Lời Chúa hôm nay gợi lên thập điều mà Thiên Chúa đã ban bố
cho loài người qua trung gian của Môisen. Ý nghĩa của thập điều lại được làm nổi
bật qua giới răn thứ nhất: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn,
hết trí khôn, hết sức lực ngươi". Giới răn ấy đã khiến cho thánh Phêrô
dõng dạc tuyên bố trong công nghị của người Do Thái: "Thà vâng lời Thiên
Chúa hơn vâng lời loài người". Trong một chế độ muốn lấy luật pháp tuỳ tiện
của loài người để thay thế cho ý muốn của Thiên Chúa, thiết tưởng các tín hữu
Kitô cần phải đặt Thiên Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của họ và có đủ can đảm
để nói không với tất cả những gì chối bỏ hay đi ngược lại với quyền chủ tể của
Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật
Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện
toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người
Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm
hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy
người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay
đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người
tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng
Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa
Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một
điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa
hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền
tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta
không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những
điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số
những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai
nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà
Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 6
13 THÁNG SÁU
Hơn Hết Mọi Loài Thụ Tạo
Chúng ta vừa nới mô tả
khuôn mặt độc đáo của con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý
để đạt đến sự thật trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa
làm điều đúng và tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu
đích thực của đồng loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người
được mời gọi đảm nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến
chính mình cho người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối
hiệp nhất này là nền móng của gia đình và xã hội.
Nhưng tất cả không chỉ
có vậy. con người còn được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả
thật, con người không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của
Thiên Chúa. Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc
thiết lập giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình
thuật về cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước
của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không
thay đổi xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước
vĩnh cửu với con người trong Đức Giêsu Kitô.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Antôn Pađôva, Linh mục,
tiến sĩ Hội Thánh;
1V 18, 20-39; Mt 5, 17-19.
LỜI SUY NIỆM: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật
Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện
toàn.” (Mt 5, 17).
Luật Môsê được Thiên Chúa ban bố cho
dân riêng của Ngài, để dẫn đưa dân Ítraen đi đúng con đường vào sự sống; khỏi
phải chết. Nhưng dân Ítraen không xem Luật như là một phương tiện để tiến thân
trên đường thánh thiện, nhưng họ lại xem Luật là cứu cánh của họ, nên họ đã biến
Luật trở thành một ông chủ và Luật trở thành một gánh nặng cho con người.
Chúa Giêsu muốn chúng ta phải nhận ra
Luật là những nguyên tắc giúp cho chúng ta trở thành người tốt khi sống với
nhau, cũng như phụng thờ Thiên Chúa. Khi đó chúng ta sẽ yêu mến Luật và giúp
nhau sống trong Lề Luật của Ngài.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-06:
Thánh ANTÔN PADUA
Linh mục và
tiến sĩ Hội Thánh (1195 - 1231)
Lòng tôn
sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự
kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô.
Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua
nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne.
Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm
tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra
vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimbra
có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi
và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.
1. Biến cố
thay đổi
Ngày kia với
nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco .
Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước
hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.
Nôn nóng với
ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng
Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận
cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài
ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là
An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc
họp ở Assisi .
Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần
ở Forli gần
Emilia để làm những công việc hèn hạ.
2. Biến cố
hai.
Dầu vậy một
biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân.
Trong một lễ nghi phong chức ở Forli
nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền
cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay
trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời không
Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia. Đây là một thời mà
Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc
thuyết.
Kể từ đó nhà
tế bần Forli
không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới
miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng
của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến
nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng
trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới
những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến
nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên
họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường
như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại
được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.
3. Chủ
trương.
Ngài thường
mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội
đường thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một
giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges , dưới sự chủ tọa
của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu "Tibi loquor
cornute" (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh
nhân tố giác vị giám mục mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.
Cũng tại Bourges , nên ghi lại một
phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do
thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.
Thánh nhân
nói : - Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình
bánh thì ông có tin không ?
Người Do
thái nhận lời thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp
chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi
qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.
Mùa chay cuối
cùng thánh Antôn giảng ở Padua .
Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa
phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới.
Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa
về nhà thờ Đức Maria ở Padua
để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà
dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.
Tại đây, người
ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua
đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
13 Tháng Sáu
Hãy Mai Táng Chính Mình
Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến
rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa Nhật nọ,
dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: "Một nhân vật trong giáo xứ vừa
qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới". Nghe lời loan báo ấy,
cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là
ai.
Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong
giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ,
không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố
cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp
quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai
cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi
vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một
tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung
nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức
từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: "Như anh chị em đã có thể nhận thấy,
tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy
trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng, đúng
thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình... Thánh
lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta".
Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng
cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi
người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết và nhờ đó cứu rỗi
nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại đã được diễn tả
qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như cửa ngõ để đưa
chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu
nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta khởi
đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chúng ta có nghĩa là
chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho tội
lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta cũng
là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi, cũng
thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 13
Có ba đối tượng: lửa, cái nồi và lương thực. Lửa cháy dưới nồi;
lương thực trong nồi. Trong lúc này, lửa không chạm đến lương thực dù vậy, nung
nóng, thanh luyện và nấu chín
Lửa là Thánh Thần; thân xác con người là nồi; linh hồn: lương thực. Cũng như lương thực được nấu chín trong nồi nhờ sức nóng của lửa, cũng thế bí tích Rửa tội bằng nước, được Thánh Thần nung nóng, trong khi đụng chạm đến thân xác từ bên ngoài, thanh luyện bên trong khỏi mọi tội lỗi.
Thánh Thần ngự xuống ở sông Gio-đan trên Đức Kitô được thanh tẩy; Người đến mỗi ngày trong dòng nước rửa tội trên tất cả mọi Kitô hữu; họ nhờ sức mạnh này, từ là con của cơn giận trở thành con của ân sủng. Vì thế Đức Kitô nghe được lời này: "Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 5,17).
Trong nghĩa đạo đức, bí tích Rửa tội bằng
nước và Thánh Thần là sám hối. Bí tích phun trào tinh thần sám hối và từ nước của
việc xưng thú đầy nước mắt vì khóc cho tội lỗi. Vì thế ai đã đánh mất sự vô tội
của mình vì tội lỗi và hồng ân tái sinh có thể đón nhận lại sức mạnh của việc
tái sinh.
Thánh Antôn thành Pađua
Thứ Tư 13-6
Thánh Antôn ở Padua
(1195-1231)
uy tắc
đời sống của Thánh Antôn là "từ bỏ mọi sự và theo Ðức Kitô,"
đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các
hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để
phục vụ Ðức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Vị
thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Ðào Nha, và tên rửa tội là "Ferdinand."
Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine và sau đó đã gia
nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển hướng. Lúc bấy giờ,
ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử
đạo ở
Thầy
Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự
thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Mãi cho đến khi có buổi lễ tấn phong,
và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã được chọn để diễn giảng.
Những năm tìm kiếm Ðức Kitô trong sự cầu nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ
Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần
Khí dùng đến khả năng của thầy. Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc
và từ đó trở đi, cho đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã
đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm
để đến nghe ngài giảng.
Ðược
công nhận là một người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh và thần học,
Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác. Kiến thức
uyên thâm của thầy lại được Thiên Chúa dùng để rao giảng cho những người lạc
giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
Người
thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã
xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy
Antôn từ trần ở Arcella, gần
Người
ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài.
Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức
Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là "Tiến Sĩ Tin Mừng,"
hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh.
Lời
Bàn
Nhiều
khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của chúng
ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Ðó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn giúp chúng
ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có thể đem lại cho đời,
hơn là nhận được từ người đời.
Lời
Trích
Trong một
bài giảng, Thánh Antôn nói: "Các thánh giống như các vì sao. Trong sự
quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước
mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải sẵn sàng hy
sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một khi tâm hồn họ
nhận ra đó là lời mời của Ðức Kitô."
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét