Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

04-01-2014 : (THỨ BẢY) TRONG MÙA GIÁNG SINH

Ngày 4 tháng Giêng
Mùa Giáng Sinh


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 7-10
"Người ấy không phạm tội được, vì đã sinh ra bởi Thiên Chúa".
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.
Hỡi các con bé nhỏ, đừng để ai lừa gạt các con.
Ai thi hành sự công chính là người công chính, cũng như chính Người là Ðấng công chính.
Ai phạm tội thì bởi qủy mà ra, vì qủy là kẻ phạm tội từ ban đầu.
Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá hủy công việc của ma qủy.
Bất cứ ai đã sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, vì mầm giống của Người ở trong kẻ ấy.
Kẻ ấy không phạm tội được, vì đã bởi Thiên Chúa mà sinh ra.
Do đó, mà nhận ra được con của Thiên Chúa và con cái ma quỷ.
Bất cứ ai không phải là người công chính, và không thương yêu anh em mình, thì không bởi Thiên Chúa mà ra.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 97,7-8,9
Ðáp: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (3c)
Xướng 1) Hãy gầm lên, biển cả và mọi vật dưới biển, cả vũ trụ với vạn vật dân cư. Sông ngòi, hãy vổ tay mừng, núi non, hãy đồng nhảy mừng. - Ðáp.
2) Trước mặt Thiên Chúa, vì Người ngự đến, vì Người ngự đến thống trị địa cầu, Người thống trị địa cầu cách công minh, Người thống trị muôn dân cách chính trực. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, Alleluia. - Thủa xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông, nhưng đến thời sau hết, Người đã nói nơi Chúa Con. Alleluia.

Phúc Âm: Ga 1,35-42
"Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?"
Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?"
Người đáp: "Hãy đến mà xem".
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu.
Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô".
Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá".
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Chúng Tôi Ðã Gặp Ðấng Cứu Thế
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: "Mỗi người có một ông quan trong bụng". Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: "Coi trời bằng vung" hay "coi trời bằng ngọn rau má" là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: "Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông", chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Ðấng ông loan báo, Ðấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Ðấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, là Ðấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô" và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Ðức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức "Mến Chúa và Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.

(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 4 tháng 1 GS
Bài đọc: 1 Jn 3:7-10; Jn 1:35-42.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao để khỏi lầm đường lạc lối?
Ai trong chúng ta cũng đều có những kinh nghiệm bị lạc đường và phải gánh chịu những nguy hiểm do lạc đường mang tới; chẳng hạn, bỏ lỡ một lối ra có thể làm chúng ta mất hàng giờ để vòng lại. Để tránh bị lạc đường, chúng ta cần coi bản đồ cách chi tiết, và hỏi những người có kinh nghiệm về những trở ngại nếu có trên đường.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta học những kinh nghiệm để tránh bị lạc đường trên con đường đi tới đích điểm của cuộc đời. Trong bài đọc I, thánh Gioan dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, người chúng ta cần học hỏi hơn cả là Đức Kitô. Ngài có khôn ngoan của Thiên Chúa và kinh nghiệm của cuộc đời để chỉ cho chúng ta đường lối hoàn hảo và chắc chắn nhất tới Thiên Chúa. Thứ hai, phải tránh con đường đầy bóng tối tội lỗi của quỉ thần và thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả chỉ đường cho hai môn đệ của ông đến với Đức Kitô để được học hỏi. Chúa Giêsu khuyến khích các ông “đến và xem” cách sống và hành xử của ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính, như Đức Giêsu là Đấng Công Chính.
1.1/ Hai con đường: sống công chính hay sống tội lỗi. Theo Gioan, chỉ có hai con đường chính trong cuộc đời: con đường ánh sáng của Thiên Chúa và con đường bóng tối của quỉ thần. Đi theo con đường ánh sáng là đi trong sự thật, một người sẽ tìm được niềm vui, sự bình an và đạt được cuộc sống đời đời. Đi theo con đường bóng tối là đi trong sự gian trá của quỉ thần và thế gian, người chọn đi con đường này sẽ phải chịu buồn sầu, bất an, và sẽ không đạt được đích điểm của cuộc đời. Trong trình thuật hôm nay, Gioan đưa ra hai người lãnh đạo của hai con đường.
(1) Chúa Kitô là nhà lãnh đạo của con đường ánh sáng: Gioan khuyên các tín hữu đến cùng Đức Giêsu vì ngài là Đấng Công Chính: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường. Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính, như Đức Giêsu là Đấng Công Chính.” Chúa Giêsu xuống trần để xóa bỏ tội lỗi cho con người; trong khi công việc của ma quỉ làm là gây ra tội lỗi.
(2) Quỉ thần là kẻ gây ra tội và cám dỗ con người theo chúng: Theo thánh sư Thomas Aquinas, Lucifer phải sa ngã trước ông Adam và bà Evà. Chính Lucifer và đồng bọn, vì ghen tương, đã cám dỗ hai ông bà phạm tội và họ đã rơi vào bẫy của chúng. Gioan dường như có cùng quan niệm với Thomas, khi ông nói: “Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.”
1.2/ Làm sao để sống công chính và từ bỏ tội lỗi?
(1) Phải được tái sinh bởi Thiên Chúa: Chắc chắn Gioan không có ý muốn nói người Kitô hữu không thể phạm tội; vì ngài đã phân biệt tội mang đến cái chết và tội không mang đến cái chết. Điều Gioan có lẽ muốn nói tới ở đây là tội mang đến cái chết. Nếu một Kitô hữu tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa, tội mang đến cái chết sẽ không đụng tới được ông; vì “mầm sống của Thiên Chúa” là Đức Kitô đã ở trong người tín hữu ấy. Hơn nữa, ông chỉ cần vào tòa cáo giải thú nhận tội của mình, là tất cả mọi tội đều được Thiên Chúa tha thứ.
(2) Phải tuân giữ giới luật yêu thương: Ai yêu thương anh em, người đó là con cái Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em mình là con cái ma quỉ.
2/ Phúc Âm: Người bảo họ: "Đến mà xem!”
2.1/ Gioan giới thiệu Đức Kitô cho 2 môn đệ của ông: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." Khi một người giới thiệu môn đệ của mình với một Thầy hay hơn mình là chấp nhận mất môn đệ. Gioan không giữ môn đệ cho mình, ông chỉ cho hai môn đệ đi theo Thầy tốt hơn; vì ông quan tâm đến lợi ích cho môn đệ chứ không giữ lợi ích cho mình. Mấy ai trong chúng ta có được thái độ như của Gioan? Chúng ta đã đề cập đến nguồn gốc lịch sử của câu “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Chúa Giêsu chính là Con Chiên, lễ vật hy sinh để đền tội cho con người.
2.2/ Phản ứng của hai môn đệ: Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Hai môn đệ của Gioan có lẽ ngượng ngùng không biết mở lời làm sao, nên cứ tiếp tục theo đàng sau Chúa Giêsu. Để dễ dàng cho họ phản ứng, Chúa Giêsu mở lời trước: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?"
Chúng ta có thể nhận ra cả 3 yếu tố quan trọng đều có ở đây: (1) Gioan, người trung gian chỉ đường cho hai ông đến với Chúa; (2) chính hai ông phải vượt qua xấu hổ, ngượng ngùng để đi theo Ngài; và (3), Chúa Giêsu mở lời trước để đánh tan ngượng ngùng lúc ban đầu, và mời gọi hai ông đến và xem. Câu hỏi Chúa đặt cho hai ông: “Các anh tìm gì thế?” là câu hỏi nền tảng nhất trong đời sống con người. Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra tại sao chúng ta đi tìm hay không đi tìm Thiên Chúa. Nếu câu trả lời là đi tìm của cải, danh vọng, chức quyền; chúng ta đừng đến với Chúa, vì Ngài sẽ không thỏa mãn khát vọng của ta. Nếu câu trả lời như của người thanh niên trẻ: “Tôi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?” Hãy đến với Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời.
2.3/ Lời mời gọi của Đức Kitô: Người bảo họ: "Đến mà xem." Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Người khác có thể nói về Chúa cho chúng ta nghe, hay giới thiệu chúng ta đến với Chúa; nhưng để nhận ra Chúa là ai, chúng ta cần kinh nghiệm của cá nhân chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân biết Chúa, lúc đó Chúa mới thực sự thuyết phục chúng ta. Các môn đệ đáp trả lời mời của Chúa Giêsu; họ đến và ở với Ngài suốt ngày hôm đó. Giờ thứ mười của Do-Thái là khỏang 4 giờ chiều của chúng ta.
2.4/ Người nhận ra tiếng gọi theo Chúa trở thành người mời gọi: “Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messiah" (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).” Yêu ai thực sự là muốn điều tốt nhất cho người ấy. Anrê đã gặp Đấng Thiên Sai, và đây là Tin Mừng quan trọng nhất cho những người Do-Thái. Thương em, Anrê dắt em mình tới giới thiệu với Đức Kitô. Tuy mới gặp ông lần đầu, Chúa Giêsu đã biết rõ con người Phêrô là ai, và Ngài đã có sẵn cho ông một sứ vụ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải tìm đường để đi tới đích. Nếu không biết đường, cần hỏi người biết đường.
- Con đường đó Đức Kitô đã đi qua và đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta hãy can đảm đi theo con đường đó, và tuyệt đối tránh đi con đường bóng tối của ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẢY MẦM


Ga 1,35-42

A. Hạt giống...
Tin Mừng thứ tư trình bày ơn gọi như một cuộc hành trình qua nhiều giai đoạn :
1- Trước hết được giới thiệu cho biết Chúa (câu 36)
2- Tiếp đó là “đi theo” Chúa (câu 37)
3- Tìm đến tận “địa chỉ” của Chúa (câu 38)
4- “Lưu lại” với Chúa (câu 39)
5- Rồi tới phiên mình, giới thiệu cho người khác nữa được biết Chúa (các câu 40-42)

B.... nẩy mầm.

1. Hình như cuộc hành trình của chúng ta chỉ mới đi được 2 giai đoạn đầu.
2. Để thuyết phục các môn đệ, Chúa Giêsu không nói nhiều, Ngài mời họ “Đến mà xem”. Phải đến tận nơi Chúa ở, phải xem thật rõ con người của Ngài thì mới có thể trung thành đi theo Ngài.
3. “Hai ông lưu lại với Ngài ngày hôm ấy” : Có những việc diễn ra một lần nhưng ảnh hưởng đến suốt đời, chẳng hạn như một cuộc tĩnh tâm sốt sắng, một cuộc linh thao nghiêm túc, hoặc một giờ cầu nguyện thực sự kết hợp với Chúa.
4. “Đức Giêsu quay lại thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình thì hỏi : “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp : “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Người bảo họ : “Đến mà xem” (Ga 1,38-39)
Sáng thứ hai vừa qua, một đoàn tiếp thị đã đến xưởng tôi làm việc để quảng cáo cho dầu gội đầu Pantene, với những kiểu cách hết sức sinh động hấp dẫn. Đặc biệt, còn tặng cho mỗi người một món quà lưu niệm. Nhờ quảng cáo, to được biết nhiều cái mới, cái hay, cái lạ. Nhưng quảng cáo cũng chi phối khi tôi phải lựa chọn.
Chúa Giêsu của tôi thì khác. Ngài mời gọi tôi theo Ngài, nhưng chỉ bảo “Đến mà xem”. Ngài không quảng cáo ồn ào, cũng không phô trương để mê hoặc tôi, vì Ngài muốn tôi theo Ngài với chọn lựa tự do.
Lạy Chúa, xin ban cho con, như hai người môn đệ hôm nào, biết “đến và ở lại với Ngài”, vì chỉ nơi Chúa con mới tìm được hạnh phúc đích thực. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

04/01/14 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TRƯỚC LỄ HIỂN LINH
Ga 1,35-42

VÌ CHÚA VÀ CHO CHÚA MÀ THÔI
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan lên tiếng nói :”Đây Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu
(Ga 1,36-37)
Suy niệm: Gioan Tẩy Giả có tầm ảnh hưởng rất lớn trong thời của ông: Dân chúng coi ông như một ngôn sứ lớn, thậm chí còn tưởng ông là Đấng Mêsia. Bạo chúa như Hêrôđê cũng phải kiêng nể uy tín của Gioan. Nhưng bất cứ khi nào Gioan nói, ông cũng đều qui hướng về Đức Giêsu “Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”; ông từ chối nói về bản thân mình chỉ nhận mình chỉ là“tiếng kêu trong hoang địa” “làm phép rửa bằng nước” đồng thời ông lại tán dương Đức Giêsu là “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Hơn nữa, thay vì củng cố uy tín thanh thế của mình bằng cách lôi kéo, ràng buộc các môn đệ vây quanh mình, Gioan sẵn sàng “lu mờ đi” để Chúa được “nổi bật lên” khi ông giới thiệu các môn đệ của mình đến với Chúa, Người mà ông xác quyết là “Chiên Thiên Chúa.” Sứ mạng của ông là vì Chúa và cho Chúa mà thôi, và khi làm như thế, ông biết rằng sứ mạng của ông sắp hoàn tất.
Mời Bạn: Cám dỗ lớn trong chúng ta khi làm việc loan báo Chúa cho người khác đó là lôi kéo ảnh hưởng về cho chính mình, phe nhóm mình hơn là đưa họ về với Thiên Chúa. Vấp phạm này đã làm xấu đi mục đích việc truyền giáo. Mời bạn theo tấm gương “tự xoá mình đi” của Gioan Tẩy Giả.
Sống Lời Chúa: Trong việc tông đồ, luôn ý thức khiêm tốn, tự xoá mình đi “để làm vinh danh Chúa hơn.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin cho con biết giới thiệu Chúa là Con Thiên Chúa cho mọi người, để họ cũng được hạnh phúc như con.

Hãy đến mà xem 

Suy nim:
“Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.35).
Gioan Tẩy giả nói với hai anh môn đệ đang đứng với mình như thế
khi ông thấy Đức Giêsu tình cờ đi ngang qua.
Gioan đã gặp Ngài, đã thấy Thần Khí ngự xuống trên Ngài (Ga 1,32).
Ông biết Ngài là Đấng đến sau ông, nhưng lại có trước ông (1,15.30).
Trong một cử chỉ khiêm hạ làm cho mình nhỏ lại,
ông đã giới thiệu cho các môn đệ mình một vị Thầy cao trọng hơn.
Ông để cho họ đi theo vị Thầy mới, còn ông đứng lại đó một mình.
“Các anh tìm gì thế?”: Đức Giêsu là người mở lời với hai bạn trẻ
đang đi theo mình, lúng túng vì chưa biết cách làm quen.
Câu hỏi này chờ một câu trả lời nói lên điều mình thao thức.
“Thưa Rabbi, Thầy đang ở lại đâu?”
 Họ muốn biết nhà của Thầy, cũng là biết chính bản thân Thầy.
“Hãy đến và các anh sẽ thấy”.
Thầy Giêsu mời các bạn ấy đến thăm nhà mình.
Căn nhà ở Galilê xưa thường chỉ có một, hai phòng nhỏ.
Ngài mời họ đi vào thế giới riêng tư của mình.
Và họ đã mau mắn đáp lời, đã đến, và đã thấy nơi Ngài đang ở lại.
Lúc đó đã bốn giờ chiều rồi.
Thầy Giêsu hẳn đã giữ họ lại, vì sợ họ về trời tối đường xa.
Ngày hôm ấy họ đã ở lại với vị Thầy mới quen.
Qua cuộc chuyện trò suốt đường đi, nhất là khi về nhà,
họ đã có kinh nghiệm cá nhân về con người Thầy Giêsu,
kinh nghiệm đầu tiên, chưa thật sâu, nhưng không sao quên được.
Họ đã ở lại nhà Thầy, đã bị lôi cuốn bởi nhân cách của Thầy,
và thấy Thầy chính là Đấng mà họ đang tìm kiếm.
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia” nghĩa là Đấng Kitô.
Anrê vui sướng reo lên như vậy khi ông gặp Simon trước tiên.
Anrê là một trong hai người đã đi theo và ở lại nhà Đức Giêsu.
Bây giờ ông coi Thầy Giêsu là Đấng Mêsia, chứ không chỉ là một rabbi,
nên ông nóng lòng muốn đưa Simon đến tiếp xúc với Ngài.
Thầy Giêsu đặt cho Simon một tên mới, tên này người Do Thái ít dùng.
Anh sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá, là Thạch (c.42).
Không thấy Simon nói gì hay dẫn ai đến gặp ngay Đức Giêsu.
Phải đợi sau này ta mới nghe ông đại diện anh em tuyên xưng:
Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa (6,69).
Chúng ta sắp mừng Lễ Hiển Linh, Lễ Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa đã tỏ mình cho Gioan, Anrê và Simon qua gặp gỡ trực tiếp,
nhưng Chúa cũng tỏ mình cho họ qua người khác giới thiệu.
Chúng ta cần những người có kinh nghiệm sâu lắng với Đức Giêsu,
để giúp Ngài được hiển linh trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyn:
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy là vị Tôn Sư tuyệt vời.
Thầy gọi các môn đệ theo Thầy
đi trên những nẻo đường quanh co của xứ Pa-lét-tin.
Thầy không mở trường, không viết sách.
Thầy giúp môn đệ học bài học của Thầy,
bài học của trái tim, hiền lành và khiêm tốn.
Thầy dạy học trên đường.
Thầy tập cho môn đệ nhìn những biến cố mỗi ngày
với cái nhìn của Thiên Chúa.
Thầy giúp họ thấy giá trị nơi đồng xu nhỏ của bà góa nghèo,
thấy vẻ đẹp của hoa huệ, và sự vô tư của chim trời.
thấy nét cao quý của trẻ thơ, và phẩm giá của người phụ nữ.
Thầy tập cho họ trưởng thành,
tập đương đầu ban đêm một mình với sóng gió,
tập tin vào Thiên Chúa khi phải nuôi ăn đám đông,
tập can trường đối diện với cái chết nhục nhã và đau đớn.
Thầy kéo họ ra khỏi cái tôi háo danh
khi họ cãi nhau trên đường xem ai là người lớn nhất,
Thầy đòi họ bỏ mọi sự mà theo Thầy,
và đặt Thầy lên trên cả mạng sống và tình ruột thịt.
Lạy Thầy Giêsu,
Khoa sư phạm của Thầy là huấn luyện môn đệ bằng tình yêu.
Một tình yêu kiên nhẫn khi họ yếu đuối và cứng lòng.
Một tình yêu bênh vực và bảo vệ lúc họ bị tấn công.
Một tình yêu chia sẻ khi cho họ cộng tác trong sứ vụ.
Thầy đã diễn tả tình yêu đến cùng của Thầy
khi cúi xuống rửa chân cho họ.
Xin cho chúng con suốt đời học với Thầy,
nhận Thầy mãi mãi là vị Tôn Sư của chúng con.
Và cùng với Thầy, chúng con đi khắp thế gian,
để làm cho muôn dân thành môn đệ.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ người mà ông khẳng định là cao trọng và có trước ông. Hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu. Qua những trao đổi đầu tiên, họ đã đáp lời mời “hãy đến” của Đức Giêsu. Bị hấp dẫn bởi con người và sứ mạng của Đức Giêsu, họ đã “ở lại” với Ngài.
Hôm nay, cuộc sống với những vòng xoáy thời gian và công việc, khiến nhiều người xao lãng hay xem thường việc “đến xem” và “ở lại” với Chúa qua thánh lễ, cầu nguyện, bí tích…

Mong sao, ở lại với Thầy Giêsu luôn là chọn lựa căn bản và ưu tiên của tôi trong đời Kitô hữu.
Mong sao, nhờ kiên trì ở lại với Thầy Giêsu, tôi sẽ có được những kinh nghiệm ngày càng sâu lắng và xác tín về Thiên Chúa.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG GIÊNG
Ánh Sao Của Đức Tin
Các nhà thông thái từ phương Đông xa xôi ấy đã nhận ra thông điệp của ánh sao bằng con mắt đức tin của họ. Đức tin đã thúc giục họ lên đường vào cuộc hành trình vạn dặm. Họ nhắm hướng Giê-ru-sa-lem, kinh thành của Israel, nơi mà sự thật về cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia đã được cho biết trước từ thế hệ này qua thế hệ khác. Các ngôn sứ đã tiên báo việc Ngài xuất hiện, các tác giả Sách Thánh đã viết về Đấng Mêsia. Thiên Chúa – Đấng tự biểu lộ về mình trong cõi lòng thầm kín của các nhà thông thái – cũng đã ngỏ lời với dân riêng Ngài trong suốt hàng bao thế kỷ.
Cuộc xuất hiện được đợi chờ đằng đẵng ấy đã hoàn toàn trở thành hiện thực trong đêm Chúa giáng sinh ở Bê-lem. Đêm ấy vốn đã là một cuộc hiển linh của Chúa rồi; Chúa được sinh ra bởi một trinh nữ và được đặt nằm trong máng cỏ.
Vị Thiên Chúa ấy đã muốn xuất hiện một cách thật âm thầm bằng cuộc sinh hạ hết sức đơn sơ, nghèo nàn và lặng lẽ tại Bê-lem. Phải chăng ở đây Ngài đang linh hiển sự khiêm nhường thần nhiệm của Ngài! Chỉ một vài người chăn súc vật đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.
Rồi tới lượt các nhà thông thái đến. Thiên Chúa, trong khi ẩn tránh những người ở rất gần xung quanh Ngài, đã muốn mạc khải chính Ngài cho những con người này – là những kẻ đến từ xa. Chính ánh sao của đức tin, ánh sao mạc khải vị Cứu Chúa, đã soi dẫn nẻo bước cho những con người này. Và như thế, lời tiên báo của Isaia đã trở thành hiện thực: “Các quốc gia sẽ bước đi dưới ánh sáng của ngươi – và các vua chúa sẽ được ánh quang ngươi soi dẫn. Hãy hướng mắt nhìn xem, tất cả đều qui tụ để tiến đến với ngươi” (Is 60, 3 – 4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04-01
1Ga 3, 7-10; Ga 1, 35-42.

LỜI SUY NIỆM: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”
Gioan biết Chúa Giêsu, liền giới thiệu cho hai môn đệ của mình. Hai người môn đệ này đã đi theo Chúa Giêsu đến chỗ Người ở và ở lại với Người. Anrê khi đã biết Chúa Giêsu lại giới thiệu cho Si-mon Phêrô. Đây là một truyền thống của Giáo Hội. Chúng ta đã nhận biết Chúa, chúng ta cũng phải tích cực giới thiệu Chúa cho người khác, để truyền thống này được tiếp nối và tỏa rộng khắp nơi.
Lạy Chúa Giêsu. Như hai người môn đệ của Gioan đã ở lại với Chúa và giới thiệu cho người thân của mình. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình của chúng con, được ở lại trong Chúa và học biết về Chúa để giới thiệu Chúa cho nhau.
Mạnh Phương


04 Tháng Giêng
"Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ"
Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.
Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.
Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ông tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.
Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Ðôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Ðô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.
Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc chốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.
Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.
Ðối với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Ðâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Ðâu là lý tưởng của chúng ta? Ðâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người không?
(Lẽ Sống)


4-1
Thánh Elizabeth Ann Seton
(1774 - 1821)

M
ẹ Seton là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Elizabeth Ann Bayley Seton quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Ðược nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Richard Bayley, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho Elizabeth một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ và chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông William Magee Seton. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elizabeth đã là một goá phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Ðồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Ðức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Ðức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu đã tẩy chay bà khi trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.
Ðể nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Seton để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Lời Bàn
Thánh Elizabeth Seton không có những khả năng phi thường. Ngài không phải là một vị thần bí hay được in năm dấu thánh. Ngài không được ơn tiên tri hay nói tiếng lạ. Ngài chỉ có hai điều thành tâm: từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Thiên Chúa, và yêu quý Bí Tích Thánh Thể. Ngài viết thư cho người bạn là bà Julia Scott, rằng ngài muốn đổi cả thế gian để sống ẩn dật ở "trong hang hay sa mạc. Nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi nhiều việc phải làm, và tôi hằng cầu xin và luôn luôn hy vọng được vâng theo ý Chúa hơn là ý riêng tôi." Kiểu cách nên thánh của ngài là mở lòng cho mọi sự nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành thánh ý Ngài.
Lời Trích
Thánh Elizabeth Seton nói với các nữ tu, "Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét