15/01/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật
1 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (năm II) Sm
3, 1-10. 19-20
"Lạy
Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích
sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, trẻ Samuel phục vụ trước mặt Hêli. Thời ấy, ít khi Chúa phán và
hiện ra. Ngày nọ, Hêli đang nằm tại chỗ mình, mắt ông đã loà và không còn thấy
được: Ðèn chầu chưa tắt, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt hòm bia Thiên
Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến
Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta
đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần
nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi
con". Hêli trả lời: "Này con, ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi".
Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi
Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy
gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi
ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: "Lạy Chúa, xin hãy nói,
vì tôi tớ Chúa đang nghe". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần
và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa:
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần
Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào
của Chúa. Toàn dân Israel, từ Ðan tới Bersabê, đều nhận biết Samuel là tiên tri
trung thực của Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 39, 2 và 5. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng:
1) Con đã cậy trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con,
và Ngài đã nghe tiếng con kêu cầu. Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa,
không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2)
Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không
đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin
đến". - Ðáp.
3)
Như trong quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa,
và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4)
Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm
môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 1, 29-39
"Ngài
chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon
và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta
nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ
dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài.
Chiều
đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả
những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người
đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói,
vì chúng biết Người. Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một
nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi
tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy".
Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để
Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường,
trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ðộng
lực của việc tông đồ
Tin
Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những
giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện
thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài
luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái
độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu
nguyện.
Trong
Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa
Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với
rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây
không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu
nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy
Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu
nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy
trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con
không thể làm được gì".
Chúng
ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên
Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện
như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như
người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc
tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy
đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng
ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một
ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa
trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha
nhân một cách hữu hiệu hơn.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 3:1-10, 19-20;
Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thượng-tế
nhân-từ và trung-tín.
Tục
ngữ Việt Nam có câu: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Có là cha mẹ mới biết
nỗi khổ của việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và cám dỗ,
một người mới có thể giúp ai trong hoàn cảnh đó. Các Bài đọc hôm nay xoay quanh
vấn nạn tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên hoàn toàn giống như con người
về mọi phương diện, trừ tội lỗi.
Trong
Bài Đọc I, năm chẵn, thầy cả Eli dùng kinh nghiệm để dạy cho con trẻ Samuel biết
lắng nghe và nhận ra tiếng Thiên Chúa trong đêm trường tỉnh thức và cầu nguyện.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa lành cho mẹ
vợ Phêrô và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo đến kêu xin. Ngài cũng dạy
cho các tông-đồ biết thăng bằng giữa các họat động tông-đồ với đời sống cầu
nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I (năm chẵn):
"Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
1.1/
Những đức tính cần thiết của người ngôn sứ: Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, con người phải
tập để có những đức tính sau:
(1)
Tĩnh lặng: Đền
thờ là một trong những nơi Thiên Chúa nói với con người, Samuel ngủ trong Đền
Thờ với Thiên Chúa. Ngoài ra, sa mạc hay đỉnh núi cũng là chỗ Thiên Chúa tỏ
mình cho con người. Khi không có cơ hội, phòng riêng cũng là nơi tốt để cầu
nguyện. Ngược lại, ồn ào làm con người chia trí và tâm hồn không thể lắng đọng
để nghe tiếng Thiên Chúa.
(2)
Tỉnh thức: Chúa
Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững.
Cậu bé Samuel trong trình thuật hôm nay rất bén nhạy với tiếng gọi, ba lần cậu
giật mình tỉnh thức trong đêm trường. Các thánh có thói quen cầu nguyện trong
đêm tối; vì là thời gian Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Ngôn sứ cần có tỉnh
thức để nhận ra nhu cầu của con người chung quanh trước khi có thể đáp ứng nhu
cầu của họ. Những ai mê ngủ khó có thể nghe được tiếng Chúa và tiếng kêu cứu của
tha nhân.
(3)
Mau mắn vâng lời: Ba
lần nghe tiếng gọi trong đêm, ba lần Samuel mau mắn chạy tới với thầy cả Eli để
xem Thầy cần gì. Samuel không nản chí khi Thầy truyền về ngủ lại cả ba lần. Nếu
Samuel nản chí, cậu sẽ không có cơ hội được Thiên Chúa tỏ mình. Ngôn sứ không
chỉ lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng còn phải mau mắn vâng lời và làm
theo ý của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa đang thử luyện cậu bé
Samuel trước khi trao sứ vụ ngôn sứ cho cậu. Làm sao Thiên Chúa có thể trao sứ
vụ cho những người ù lỳ không thi hành những gì Ngài mong muốn.
1.2/
Kinh nghiệm của thầy cả Eli: Con người cần lắng nghe để học hỏi kinh nghiệm và vâng lời sự chỉ
dẫn của những người hữu trách, vì đó là một trong những cách thức Thiên Chúa
dùng để huấn luyện con người. Một người không chịu lắng nghe và học hỏi kinh
nghiệm của những người đi trước thường sẽ bị trả giá nặng nề. Trong trình thuật
hôm nay, thầy cả Eli truyền kinh nghiệm của mình cho Samuel để cậu có thể lắng
nghe tiếng của Ngài: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa:
"Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Sau
khi nhận được cách thức đáp lại tiếng Thiên Chúa của Thầy, Samuel về ngủ ở chỗ
của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Samuel!
Samuel!" Samuel thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe."
Kể
từ đó, Thiên Chúa thường xuyên nói chuyện với Samuel. Đức Chúa ở với ông và ông
không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu. Toàn thể Israel, từ Dan tới
Beer-Sheba, đều biết rằng ông Samuel được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của
Người.
2/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
2.1/
Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc của Phêrô: “Vừa ra khỏi hội đường Capernaum, Đức Giêsu đi đến
nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà
mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết
tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và
bà phục vụ các ngài.”
Trong
hành trình của Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là
những bệnh nhân và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ
kêu xin; và nhiều khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/
Chúa Giêsu chữa bệnh cho rất nhiều người trong thành: “Chiều đến, khi mặt
trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả
thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và
trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Sở dĩ họ phải
chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.3/
Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra
một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
(1)
Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn
kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Cả một ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được thời gian để cầu
nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải thăng bằng giữa đời sống
kết hợp với Thiên Chúa để
nuôi
dưỡng các họat động tông-đồ.
(2)
Nước Chúa cần được mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để
làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường
của họ, và trừ quỷ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Người tông-đồ của Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người:
ngây thơ, yếu đuối, bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem
họ về cho Chúa.
-
Chúng ta cần phải giữ thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động
tông đồ và có thời giờ để cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
-
Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, chúng ta cần tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện
và tránh xa mọi chia trí của cuộc sống.
-
Chúng ta cần trưởng thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách nhiệm
trong việc mở mang Nước Chúa, chứ không được hoàn toàn sống ỷ lại vào người
khác.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc 1,29-39
A.
Hạt giống...
Chuyện
này cũng diễn ra trong khung cảnh một ngày ở Capharnaum và tiếp liền chuyện hôm
qua. Sau khi làm một cuộc trừ tà ở Hội đường, Chúa Giêsu đi chữa bệnh cho nhạc
mẫu của Simon. Chúa Giêsu không nói lời nào, chỉ làm một cử chỉ nhỏ là đến gần
cầm tay bà nâng dậy. Việc khỏi bệnh xảy ra tức thì. Bà hết bệnh và lo tiếp đãi
các ngài.
Người
Do thái quen coi bệnh tật là do ma quỷ gây nên. Đặc biệt bệnh sốt là dấu chỉ
Thiên Chúa trừng phạt tội bất trung (x. Lv 26,15-16 Đnl 28,22). Vì người ta coi
bệnh này là do ma quỷ gây nên, do đó việc Chúa Giêsu cứu chữa bệnh này cũng là
một việc trừ tà (Lc 4,39), cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đến giải thoát con người
khỏi xiềng xích của sự dữ và sự chết.
Kết
thúc một ngày làm việc : "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi
ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện".
B....
nẩy mầm.
1.
Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận : giảng ở Hội
đường (câu 21) ; giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28) ; rời hội đường,
Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32) ; chiều đến chưa kịp
nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34) ;
Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoàng vắng
để cầu nguyện (c 35), và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn,
nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ đề cầu nguyện ; dù bị đám đông ồn ào bao vây
suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
2.
Nhìn lại cuộc sống đã qua, một nhà hiền triết thú nhận : Lúc thiếu thời tôi là
một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức
mạnh biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình
chưa làm gì được cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời
cầu nguyện cho thiết thực hơn : Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả
năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi".
Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng,
tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau : "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn
thay đổi chính đời sống của con". Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện
như thế thì có lẻ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích"
(Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3.
"Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.
Nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1,34)
"Tại
sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do thái hở mẹ ? Những điều kỳ diệu của
Người khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Người đủ huỷ diệt sức mạnh của
Rôma. Thế mà Người lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian
lao khó nhọc đã trở thành vô ích ? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của
Rôma và để vũ khí mà ta khổ công đúc rèn phải rỉ sét ư ?"
Ben
Hur đã thốt lên lời ấy trong thất vọng, chán chường. Anh cũng như những người
do thái khác đã thất vọng về Con Thiên Chúa. Họ chờ đợi Đấng Messia như một người
có thể đem lại cho họ phồn vinh và công lý trong trần thế. Họ chỉ muốn thấy
vinh quang Thiên Chúa trừng phạt đế quốc La mã.
Phải
chăng vì thế mà Chúa Giêsu không cho quỷ nói Người là ai ? Con đường cứu độ
không dẫn Người đến ngai vàng và vương miện trần gian. Người đến để mặc khải
tình yêu của Cha, và để mặc khải được trọn vẹn, Người đã chết thay cho mọi người,
những kẻ đã dửng dưng để cho máu của Người đổ trên đầu mình.
Lạy
Chúa Giêsu, giờ đây công cuộc cứu chuộc của Người đã hoàn tất. Xin cho con luôn
biết đón nhận con đường của Người, con đường đưa đến sự sống đời đời. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
15/01/14 THỨ TƯ TUẦN 1 TN
Mc 1,29-39
Mc 1,29-39
HẾT MÌNH VÌ THA NHÂN
Người lại gần, cầm lấy tay bà
mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các Ngài. Chiều đến khi mặt trời lặn,
người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. ...Chúa Giêsu
chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ
nói, vì chúng biết Người là ai.
(Mc 1, 31-34)
Suy niệm: Dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu như tìm đến
một thầy thuốc chữa bá bệnh, nhưng qua các phép lạ chữa bệnh, Chúa lại cho họ
thấy Ngài là Đấng Thiên Sai. Hành vi “lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy” chính là
ngôn ngữ của Tin Mừng mà Ngài loan báo. Đức Kitô giải thoát con người khỏi
những nỗi đau thể xác, để loan báo trọng tâm của chương trình cứu độ là giải
thoát con người khỏi tội lỗi, tái lập mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa
với con người.
Mời Bạn: Bạn
chia sẻ những đau khổ của con người, qua những biến cố thiên tai bão lụt, chiến
tranh tại đất nước chúng ta hay đó đây trên thế giới. Nhưng bạn chưa là chứng
nhân Tin Mừng nếu bạn dừng lại ở đó. Hành vi phục vụ, chia sẻ phải là một lời
loan báo Tin Mừng, trước hết là trong ý hướng.
Chia sẻ: Có
gì khác giữa việc chữa bệnh của thầy thuốc với việc chữa lành của Đức Kitô? Có
gì khác giữa việc phục vụ của một người tin với một người không tin?
Sống Lời Chúa: Mỗi
khi làm việc gì, bạn hãy làm với ý hướng phục vụ, và mỗi công việc phục vụ bạn
hãy định hướng nó về việc loan báo Đức Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn còn đầy dẫy sự dữ: bệnh tật,
tội lỗi, những sa đoạ trong kiếp người. Xin Chúa chữa lành chúng con để chúng
con được hưởng dư đầy ơn Chúa cứu độ. Amen.
Bà
phục vụ các ngài
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu
của người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ
cũng như ngoài xã hội.
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ
ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giêsu trở về một căn
nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh
Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của
Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần
giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi
bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh
đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một
ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một
bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm
người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt
bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự
chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được
khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại
có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi
chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm
khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu
chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân
tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh
nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề
bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy
(êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh
thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa
đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục
vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các
cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu
phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết
trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục
vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên
Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ
các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín
phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu,
Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết
nhìn nhận
vai trò quý báu của người
vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ
nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao
quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ
âm thầm.
Giữa một thế giới say mê
thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu
thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe
phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác
và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy
hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình
yêu tinh ròng,
xin
cho các Kitô hữu chúng con
trở
thành tình yêu
cho
trái tim khô cằn của thế giới.
Xin
dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết
sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết
quảng đại cho đi
và
khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi chí thánh,
xin
cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở
sâu thẳm lòng chúng con,
và
trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Bài Tin Mừng thuật
lại việc Đức Giêsu chữa lành cho bà mẹ vợ ông Simon và một số người trong
thành; nhưng dẹp tan, tiêu diệt mọi khổ đau bệnh tật không phải là mục đích
chính của Đức Giêsu ở trần gian.
Chúa Giêsu đã đạt
được rất nhiều thành công trong những ngày đầu của sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Người giảng dạy những điều mới mẻ, và đặc biệt là chữa lành nhiều bệnh tật
khiến dân chúng rất vui mừng và thích thú khi đi theo Người. Nhưng chính vì
việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho nhiều người, khiến cho dân chúng hiểu lầm về
sứ vụ của Người.
“Mọi người đều
đi tìm thầy”. Tìm thầy để thầy ở lại làng của họ luôn, để tiếp tục chữa
bệnh và làm nhiều phép lạ khi họ cần. Nhưng Chúa Giêsu đến thế gian không phải
với mục đích đó. Người đến thế gian để loan báo về một Thiên Chúa tình thương,
để loan Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người không ưu tiên cho bất cứ một người
nào, một làng nào, hay một đất nước nào.
Bài tin mừng cho
chúng ta một cơ hội để suy nghĩ về mối tương quan của chúng ta với Chúa. Chúng
ta đến với Người như một người con đến với Cha đầy tình yêu thương, hay chúng
ta đến với Người vì Người ban cho chúng ta những ơn mà chúng ta cần?
Lạy Chúa, xin
thương xót chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Chúa bằng tâm
tình của một người con hiếu thảo. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15
THÁNG GIÊNG
Đời Sống Gia Đình Củng
Cố Cấu Trúc Xã Hội
Như
chúng ta thấy, gia đình – trong tư cách là “xã hội thứ nhất” – có những đòi hỏi
tự nhiên của riêng nó và không thể bị o ép bởi các ý thức hệ hoặc bởi những đòi
hỏi cá biệt nào đó của xã hội. Thật vậy, trách nhiệm của xã hội là phải gìn giữ
và hỗ trợ gia đình bằng cách thiết lập những khoản luật và chế định những giá
trị luân lý để phục vụ cho thiện ích chung. Bất cứ điều luật hay chuẩn mực luân
lý nào không hỗ trợ cho gia đình thì cũng không thể nào là tốt cho toàn xã hội,
vì gia đình là nền móng của xã hội. Những gì phá hoại gia đình thì đồng thời
cũng phá hoại tất cả xã hội. Xã hội nào sẵn sàng xé rách gia đình rốt cục cũng
sẽ thấm thía sự thật ấy.
Các
nhà cầm quyền và những người làm công tác khoa học cần nhận thức rằng những nhu
cầu chính đáng của con người và của xã hội đòi phải có sự cộng tác giữa lĩnh vực
xã hội trần thế và lĩnh vực tôn giáo để bênh vực cho quyền lợi của gia đình.
Công Đồng Vatican II nhìn nhận: “Trong khi theo đuổi mục đích cứu rỗi của mình,
Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng
còn chiếu giãi ánh sáng của sự sống thần linh ấy trên toàn thế giới. Giáo Hội
làm công việc này, trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng
cố cơ cấu của xã hội nhân loại và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con
người một chiều hướng và một ý nghĩa sâu xa hơn.” (MV 40) Như vậy, trong khi bảo
vệ quan điểm Kitô giáo về đời sống hôn nhân và gia đình, Giáo Hội cũng đang xây
dựng và củng cố toàn thể cộng đồng xã hội trần thế bằng một nền nếp luân lý vững
chãi và tốt lành.
Thật
vậy, tinh thần vâng phục của các tín hữu đối với giáo huấn của Giáo Hội về hôn
nhân và gia đình sẽ bảo đảm rằng các nhân đức luân lý vốn có khả năng vãn hồi sự
công bằng, lòng trung tín, sự kính trọng nhân vị, tinh thần trách nhiệm và sự
hiểu biết lẫn nhau … sẽ được nhấn mạnh và đề cao vì ích lợi của toàn xã hội.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 15-01
1Sm 3,1-10.19-20; Mc 1, 29-39.
LỜI SUY NIỆM: “Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị
quỷ ám đến cho Người”.
Trên hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy
Chúa Giêsu làm phép lạ giữa đám đông lúc ban ngày, trong ngôi nhà nhỏ bé của mẹ
vợ Phêrô, trong hội đường, trong nhà ông trưởng hội đường cũng như trong nhà của
viên đại đội trưởng, kể cả lúc mặt trời đã lặn. Chúa Giêsu không giới hạn thời
gian và không gian đối với tất cả mọi người đến với Chúa bất cứ vì lý do gì, vì
mục đích gì. Là con cái của Chúa, chúng ta cần phải sống như Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Trong ngày sống của chúng con, có biết
bao cái chúng con nhìn thấy, nhưng chúng con đã từ chối, bỏ qua với nhiều lý
do. Xin cho chúng con biết hy sinh và bước ra khỏi cái “tôi” của chúng con để
chúng con sống với con tim yêu thương.
Mạnh
Phương
15
Tháng Giêng
Bình An Cho Các Con
Có
lần người ta hỏi đại thi hào Dante của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông
mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau:
"Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình
an".
Ðó
là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào, chúng ta
cũng luôn ghi lời cầu xin: xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong
cuộc sống hiện tại thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an
nghỉ? Trong những phút giây cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta:
"Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban
tặng cho các con".
Thế
giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình
thực sự. Hòa bình chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến
tranh và lo sợ.
Trước
Chúa Kitô 600 năm tai Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus,
vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước
mong của toàn dân trong đế quốc La Mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời
bình. Trong vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ này chỉ được mở
trong ba giai đoạn ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa Bình đóng mãi đối với con người ở mọi
thời đại. Thời đại nào thế giới cũng mong đợi hòa bình, thời đại nào con người
cũng mong đợi hòa bình. Khát vọng của Hòa Bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay
cả những người suốt đời chỉ gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác.
Chúng ta thích khung cảnh tịch mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình
minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta yêu thích
những cánh hoa tươi mát v.v… Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình
thản trước những hoàn cảnh xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những
dòng nhạc êm dịu, những con người hiền lành.
Chúa
Giêsu đã nói đến hai chữ bình an không biết bao nhiêu lần. Ngày Ngài sinh hạ,
các Thiên Thần loan báo sứ điệp của bình an. Ngài là Vua của những người xây dựng
Hòa Bình.
Thánh
Phaolô luôn mở đầu và chấm dứt các lá thư của Ngài bằng những lời cầu chúc bình
an nồng nhiệt nhất.
(Lẽ
Sống)
Thứ Tư 15-1
Thánh Phaolô Ẩn Tu
(233 - 345)
N
|
hững gì chúng ta thực sự
biết về cuộc đời Thánh Phaolô Ẩn Tu thì không rõ đó có phải là dữ kiện hay
truyền thuyết.
Ðược biết ngài sinh ở Ai
Cập, là nơi ngài mồ côi cha mẹ khi 15 tuổi. Ngài còn là một thanh niên có học
thức và đạo đức. Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài
buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn. Sau đó sợ rằng người anh rể
của mình sẽ đi tố cáo, ngài trốn vào sa mạc và ở trong một cái hang. Dự định
của ngài là sẽ trở về nhà sau khi việc bách hại chấm dứt, nhưng cái êm đềm của
sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định
ban đầu.
Ngài tiếp tục sống ở đó
trong 90 năm. Nước uống thì ngài lấy từ con suối gần đó, thức ăn và vải che
thân ngài lấy từ cây chà là. Sau 21 năm sống trong cô độc có một con chim hằng
ngày đem cho ngài nửa ổ bánh. Trong cuộc sống tĩnh mịch đó ngài cầu xin cho
thêá giới được tốt đẹp hơn.
Thánh Antôn làm chứng
cho cuộc đời và cái chết thánh thiện của Thánh Phaolô Ẩn Tu. Bị cám dỗ cho rằng
mình là người đầu tiên phụng sự Thiên Chúa nơi hoang dã, Thánh Antôn xin Thiên
Chúa soi sáng để được biết điều ấy và ngài đã tìm thấy Thánh Phaolô, và thú
nhận rằng Thánh Phaolô còn tuyệt hảo hơn ngài. Và chính Thánh Antôn là người đã
chôn cất Thánh Phaolô Ẩn Tu, lúc ấy ngài được 112 tuổi và được coi là vị Ẩn Tu
Ðầu Tiên.
Ngày lễ kính nhớ ngài
được cử hành trong Giáo Hội Ðông Phương và ngài còn được nhắc đến trong nghi
thức phụng vụ của Giáo Hội Coptic và Armenia.
Lời Bàn
Thánh ý và đường hướng
của Thiên Chúa được thấy trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Ðược hướng dẫn bởi
ơn sủng của Thiên Chúa, chúng ta có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài qua
những chọn lựa nhằm đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta lệ thuộc
nhiều hơn vào Thiên Chúa, là Ðấng đã dựng nên chúng ta. Có khi những lựa chọn
ấy dường như tách biệt chúng ta khỏi người thân quen. Nhưng thực sự, chúng lại
đưa chúng ta gần với nhau trong lời cầu nguyện và trong tình bằng hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét