21/01/2014
Thứ Ba sau Chúa Nhật
2 Quanh Năm
Thánh A-nê, Trinh nữ, Tử đạo
Bài
Ðọc I: (năm II) 1 Sm 16, 1-13
"Samuel
xức dầu cho Ðavít trước mặt các anh em ngài; và Thánh Thần ngự xuống trên
ngài".
Trích
sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Ta đã loại bỏ Saolê không cho
cai trị Israel nữa, thế mà ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ? Ngươi hãy đổ dầu
cho đầy bình và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem. Vì Ta chọn
một người con của ông ấy lên làm vua". Samuel thưa: "Làm sao mà đi được?
Vì nếu Saolê hay biết việc đó, ông sẽ giết con". Chúa nói: "Ngươi hãy
tự tay bắt một con bê trong đàn, và nói: 'Tôi đến để dâng lễ tế lên cho Chúa'.
Ngươi sẽ mời Isai đến để dự lễ tế, Ta sẽ tỏ cho ngươi biết việc phải làm, và sẽ
chỉ cho ngươi biết phải xức dầu cho ai?"
Vậy
Samuel làm như lời Chúa dạy và đi đến Bêlem. Các vị kỳ lão trong thành bỡ ngỡ
chạy đến Samuel mà nói rằng: "Ông đem bình an đến chăng?" Ông đáp:
"Phải, bình an! Tôi đến để dâng lễ tế cho Chúa. Các ông giữ mình thanh sạch
và cùng tôi đến dâng của lễ". Vậy ông làm cho Isai và con cái ông ấy được
thanh sạch và mời họ đến dâng lễ tế. Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Êliab và
nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây
không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao,
vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người
nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai gọi
Abinađab đến và dẫn đến trước mặt Samuel. Samuel nói: "Cũng không phải
Chúa chọn người này". Isai cho dẫn Samma đến. Samuel lại nói: "Nhưng
Chúa cũng không chọn người này". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra
trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những
người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải
không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel
nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào
bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có
mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi
dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó
trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi. Còn
Samuel đứng dậy trở về Rama.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 88, 20. 21-22. 27-28
Ðáp: Ta đã gặp
Ðavít là tôi tớ của Ta (c. 21a).
Xướng:
1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão
triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. -
Ðáp.
2)
Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay
Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3)
Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu
độ của tôi". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở
trần gian. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 8, 12
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh
sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 2, 23-28
"Ngày
Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Vào
một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức
thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày
Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng:
"Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ
phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào,
và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các
cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì
loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng
làm chủ cả ngày Sabbat".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Linh
hồn của Lề Luật
Nói
về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật
pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ
dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà
chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những
người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở
của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ
luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào
thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có
quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một
ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa
Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu
không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh
kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất
cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật
của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu
lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy
nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và
kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu;
không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là
nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống
chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá
trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại,
tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật
lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại
những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép
phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là
một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được
tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ
ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân,
tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và
yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ,
đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ
lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện
xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 6:10-20; I Sam
16:1-13; Mk 2:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí trọng
hơn luật lệ.
Phẩm
giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo
vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ
muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục
vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các
Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con người. Trong
Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người và phong
vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những người con của
ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã trở thành vị
vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa
Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ
các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết
luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I (năm chẵn):
Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
1.1/
Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa
Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn
người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều
không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
-
Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông nghĩ: "Đúng rồi!
Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!" Nhưng Đức
Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của
nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm
chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng."
-
Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông Samuel
nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho Samah đi
qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn."
Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel
nói với ông Jesse: "Đức Chúa không chọn những người này."
1.2/
Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông
Jesse: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Jesse trả lời: "Còn
cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Samuel liền nói với ông Jesse:
"Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó
tới đây."
-
Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó
đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các
anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.
-
Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út đang chăn
chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng Thiên
Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn cậu
làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi danh nhất của dân tộc
Israel.
2/
Phúc Âm:
Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.
2.1/
Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức
Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người
Pharisees liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia?
Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không
cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt
lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn
sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với
các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố
cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
2.2/
Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại
trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1)
Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách
sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới
thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả
thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa
Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi
phạm Lề Luật.
(2)
Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người,
chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả
ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng
trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở
thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về
ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được
nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh
Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi,
và sự chết.
-
Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa
mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố
định trong năm.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc
2,23-28
A.
Hạt giống...
Đây
là cuộc tranh luận thứ tư. Vấn đề được tranh luận là luật nghỉ làm việc trong
ngày Sabbat, được ghi trong Xh 20,8-11.
-
Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là
nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabbat,
trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về
việc làm của các môn đệ Ngài.
-
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ
con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân do thái phải làm nô lệ cực nhọc.
Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã ra luật nghỉ ngày sabbat, trước hết là nhằm
phục vụ cho chính những người do thái : họ phải được một ngày nghỉ ngơi ; kế đó
là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ : trong ngày đó những người chủ
do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà
người ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
-
Theo tinh thần ấy, Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu "nẩy lửa" : a/ Ngày
sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày
sabbat ; b/ Con Người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
B....
nẩy mầm.
1.
Một lần nữa Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề
luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo Hội, của Dòng tu, của Chủng viện đều nhằm
giúp ta thêm mến Chúa và yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và
yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản
lại luật.
2.
Noi gương Chúa Giêsu, có lẽ câu hỏi ta nên tự đặt ra để biện phân không phải là
"làm hay không làm", mà phải là "làm điều lành hay điều dữ".
3.
"Con Người là chủ của ngày sabbat". Câu này suy rộng ra là "Chúa
Giêsu là chủ của mọi lề luật". Khi tôi đang cố gắng giữ một khoản luật,
tôi có nghĩ rằng tôi đang gặp Chúa Giêsu trong khoản luật đó không ?
4.
Torah là bộ sách luật của Do thái giáo. Nó gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613
khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản
buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).
Talmud
là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo, chia thành 2 loại là Mishna và
Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).
5.
"Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người,
tình thân ấy sẽ biến thành tính trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị
là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới
làm chứng được cho Thiên Chúa" (Maurice Zundel, trong quyển "Sự hiện
diện khiêm hạ")
6.
Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương,
đang quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên
không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự
nhủ : "Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy !
"Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa
sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức
bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người
sĩ quan Anh. (Góp nhặt).
Nên
để ý : a/ Khi đó người Đức và người Anh đang là kẻ thù của nhau ; b/ Người sĩ
quan Anh đã cứu người sĩ quan Đức, đáp lại một sĩ quan Đức khác đã gắn cho người
sĩ quan Anh một tấm huân chương rất đặc biệt, đó là chiếc Thánh giá.
7.
"Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày
sabát" (Mc 2,27)
"Ngày
mai là lễ Các Thánh đấy. Con Lễ đã xưng tội rồi, còn thằng Nhân thằng Nghĩa đã
xưng tội và lễ lạy gì chưa ?" Lời mẹ nói khi tôi đang chuẩn bị đi học.
Không
hiểu vì sao lại nhiều lễ thế nhỉ ? mà lại là lễ trọng nữa chứ ! Còn cả một bài
luận chưa làm. Chiều mai lại sinh nhật của bạn nữa !…
Nhiều
lúc tôi cảm thấy ngao ngán vì đạo Chúa có quá nhiều lề luật phải giữ. Nhiều lúc
tôi nhìn Thiên Chúa như một cảnh sát, như một kẻ đè bẹp tôi mất tự do.
Hôm
nay tôi đã hiểu rằng vì Chúa thương tôi nên Ngài mới ban lề luật. Và lề luật là
quà tặng Chúa ban để giúp tôi bay cao, thăng tiến và bảo vệ tự do của chính
mình.
Cảm
tạ Chúa đã tặng ban cho con lề luật, để con học làm người tự do đích thực.
(Epphata)
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
21/01/14 THỨ BA TUẦN 2
TN
Th. Anê, trinh nữ, tử đạo
Mc 2,23-28
Th. Anê, trinh nữ, tử đạo
Mc 2,23-28
VÌ CON NGƯỜI VÀ CHO CON NGƯỜI
“Ngày Sa-bát được tạo ra cho
loài người. . . Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát.” (Mc 2,27-28)
Suy niệm: Nhân
việc người Pharisêu bắt bẻ các môn đệ bứt lúa trong ngày sabát, Chúa Giêsu minh
định ý nghĩa của ngày Sabát là “được tạo ra vì con người và
cho loài người.” Vì con người con
người để họ biết quan tâm, chăm sóc nhau để cùng mưu tìm hạnh phúc đích thực
cho con người. Cho con người để
họ hướng tới Thiên Chúa và tôn thờ Ngài, Đấng tạo dựng họ và toàn thể vạn vật.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày sabát là đưa con người đến
chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa và đem lại sự an tĩnh cho con người sau
những ngày lao động mệt nhọc. Bổn phận của con người là thánh hóa ngày ấy theo
như ý Thiên Chúa muốn vì “Con Người làm chủ luôn cả ngày
sabát.”
Mời Bạn: Vì
những ý nghĩa mang nặng tính nhân văn cũng như tính tôn giáo nên Hội Thánh mới
khuyên chúng ta nên “nghỉ việc xác” trong ngày Chúa Nhật hiện nay. Nhưng trên thực
tế có ít người tuân giữ, cứ viện cớ làm thêm để cải thiện cuộc sống. Rồi ra
chính chúng ta làm cho ngày Chúa Nhật trở thành một ngày như mọi ngày!
Chia sẻ: Hãy
suy nghĩ và đặt lại vấn đề làm thêm trong ngày Chúa Nhật, xem nó có thực sự cải
thiện cuộc sống bản thân và gia đình hay chúng ta đang đẩy ngày này đi sai mục
đích của nó.
Sống Lời Chúa: Tìm
lại ý nghĩa đích thực của điều răn thứ ba “giữ ngày Chúa Nhật.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Chủ của ngày sabát chứ không phải con. Xin cho
con biết tuân theo ý muốn của Chúa là Chủ của đời sống con. Amen.
Con
Người làm chủ ngày sabát
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta
cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Suy niệm:
Các kitô hữu gốc Do Thái
của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã
lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều
hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có
thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một
ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua
đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong
tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật
(23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của
người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư,
điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò
trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một
trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết
luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể
buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các
kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt
những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời
người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do
Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không
được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ
lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh
mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua
Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ
có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn
đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ
ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày
sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã
quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày
sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình
tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày
của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho
loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta không
còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật,
ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu
tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh
tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để
sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian
tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên
Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy
Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm
lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì
nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng
xăng,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh
Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
SUY NIỆM :
Hôm
nay Chúa Giêsu bị những người Pharisêu mắng vốn: “Ông coi, ngày Sabat
mà họ làm gì kìa? Điều ấy đâu được phép” (Mc 2, 24). Các môn đệ Chúa đã làm
gì để bị mắng vốn? Thì ra: “Vào ngày Sabat, Đức Giê su đi băng qua một
cánh đồng lúa. Dọc đường các môn đệ bắt đầu bứt lúa” (Mc 2, 23).
Lại
một lần nữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài vấp phải luật ngày Sabat. Nếu như
các môn đệ bứt lúa vào ngày thường thì không có chuyện gì xảy ra. Theo luật Do
Thái, người ta có thể tự do bứt bông lúa ngoài đồng, miễn là đừng đem lưỡi hái
theo gặt là được. Nhưng khốn nỗi, các môn đệ Thầy Giêsu lại bứt bông lúa vào
ngày Sabat. Theo luật của người Do Thái, việc làm được phân chia thành 39 đề mục
khác nhau, trong đó 4 việc đầu là: Gặt, rê, sàng và nấu. Các môn đệ bứt lúa là
hành động gặt, vò nát trong tay là hành động rê, thổi cho vỏ trấu bay là sàng,
bỏ vào miệng nhai là nấu… Chúng ta cho là quá đáng, nhưng thực sự người Do Thái
giải thích luật theo kiểu như vậy. Cho nên các môn đệ của Chúa Giêsu đã vi phạm
tất cả các luật lệ đứng đầu. Ngày nay chúng ta thấy có vẻ kỳ cục, nhưng vào thời
Chúa Giêsu, đây là vấn đề sinh tử, có thê bị kết án tử hình.
Chúa
Giêsu đã kể câu chuyện trong sách Samuel quyển thứ nhất về việc vua Đavit trong
khi chạy trốn vua Saul đã ăn bánh tiến trong đền thờ, thứ bánh chỉ dành cho các
thượng tế, vì ông quá đói. Chúa Giê su đã dùng kinh thánh để chứng mình rằng
con người phải được đặt lên trên lề luật. Hay nói cách khác: lề luật được lập
ra là vì con người.
Từ
câu chuyện hôm nay tôi nhận thấy mình hãy có được thái độ tự do nội tâm. Dĩ
nhiên tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà tự do là hành động theo chân
lý của Chúa. Nghĩa là sống hoàn toàn thoải mái, vượt lên trên lề luật, miễn là
đừng có gì nghịch lại với chân lý Chúa dạy.
Ngày
Chúa Nhật tôi không đi lễ được vì lý do tôi phải nuôi người bệnh, thì tôi cứ việc
chăm sóc cho người bệnh. Tôi sợ người khác sẽ nói tôi lười biếng, giữ đạo không
đàng hoàng.
Ngày
nào tôi cũng đến nhà Chầu viếng Thánh Thể. Hôm nay tôi có công việc đột xuất,
nhưng tôi không an tâm vì sợ người ta không thấy tôi, cho rằng tôi không trung
thành. Vì vậy cố gắng hết sức chạy thẳng đến nhà thờ, vô nhà Chầu, quỳ đó để
người ta biết rằng cứ đến giờ này là tôi vào nhà Chầu.
Thái
độ tự do nội tâm là tôi có được phong cách sống nhẹ nhàng với chính mình, với
những người xung quanh. Tự do nội tâm còn là sự nhạy bén trong đời sống đức tin
để tôi có thể nhận ra điều Chúa muốn và mau mắn thực hành. Tôi không lo lắng, sợ
hãi trước dư luận về tôi, vì trong tất cả tôi đã đặt dưới cái nhìn của Chúa.
Lạy
Chúa không lề luật nào có thể ràng buộc con ngoài giới luật yêu thương của
Chúa. Vì vậy khi con đã yêu mến Chúa hết lòng và yêu mến anh chị em hết sức thì
con không còn phải lo sợ gì nữa.
Xin
cho con đừng để cho lề luật quá đè nặng mình, nhưng biết sử dụng lề luật như
phương thế giúp con nên trọn lành.
Xin
cho con biết thông cảm với người khác khi thấy họ đi ra ngoài khuôn khổ của lề
luật.
Xin
cho con biết suy nghĩ chín chắn trước khi kết luận về một vấn đề gì, vì nhiều
khi con chỉ thấy bên ngoài, còn sự việc bên trong con không được rõ.
Lm.Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21
THÁNG GIÊNG
Những Người Thất
Nghiệp – Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi
Tôi
đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp.
Họ muốn làm việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi
vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm
hay thiếu việc làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người
ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các
gia đình và thường dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy
vừa làm suy yếu cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam
cũng như nữ, trong các gia đình.
Chúng
ta cần có những sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những
sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực
kỳ quan trọng, đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất
nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và
những người lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 21-01
THÁNH ANÊ, TRINH NỮ, TỬ ĐẠO
1Sm 16, 1-13; Mc 2, 23-28.
LỜI SUY NIỆM: “Ông coi, ngày Sa-bát mà họ làm gì kìa? Điều ấy đâu được phép”
Người Pharisêu, họ giữ Luật quá là hình thức, họ quá
nô lệ lề luật, họ dùng Luật để kết án nhau trong cuộc sống. Qua Luật, họ đánh
giá nhau. Chúa Giêsu đã nhiều lần khiển trách họ về giữ luật ngày Sa-bát; và
Chúa cho chúng ta biết không phải giữ Luật vì Luật,nhưng phải giữ Luật vì yêu mến.
Bởi Luật giúp chúng ta sống thiện. Chúng ta là con cái của Chúa, cần phải trân
trọng các diều luật của Chúa và Hội Thánh với tình yêu mến trong thờ phượng
cũng như khi sống với nhau.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con, luôn tôn trọng và yêu mến mọi lề luật của Chúa và của Hội Thánh, để
chúng con mỗi ngày được sống tốt hơn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-01: Thánh ANÊ
Đồng
trinh Tử đạo (khoảng + 304)
Một
cuộc đời được gặt bởi gươm đao. Đó là tất cả. Không có nhiều việc, không có nhiều
chuyện, nhưng danh tiếng đã nên lẫy lừng.
Một
sử gia đã chân nhận như thế theo những lời truyền khẩu. Người ta biết rằng: Anê
qua đời khoảng năm 12 tuổi. Cuộc khảo sát xương sọ cho biết như vậy. Người ta
còn biết được rằng, theo thánh Ambrosiô, vào năm 375 đã cử hành các lễ kính
thánh nữ và vị thánh trẻ trung này được trình bày như vị thánh tử đạo sau khi
đã chiến đấu để giữ mình đồng trinh.
Người
ta yêu cái tên của Ngài, Anê theo tiếng la-tinh có nghĩa là con chiên, theo tiếng
Hy Lạp có nghĩa là trong trắng. Người ta muốn rằng Ngài có nét đẹp duyên dáng
quyến rũ và thuộc gia đình quý phái. Các cô gái lập gia đình sớm. Trong số những
chàng trai ngưỡng mộ Ngài, có con trai một vị tổng trấn, nhưng Anê tự cởi lòng
đã chọn lựa vị hôn phu của mình.
Ngài
đã nghe về Chúa Giêsu, đã trở thành Kitô hữu và đã tận hiến vĩnh viễn cho Chúa
Kitô. Các trẻ em thời này hay có tư tưởng anh hùng vì đã được thấy dòng máu của
những vị tử đạo tuôn đổ. Anê từ khước lời cầu hôn của người thanh niên lương
dân và bị tố giác trước quan tổng trấn.
Theo
một trong các cuộc đối chất tuyệt vời mà cả trăm nghìn Kitô hữu cho là chính
xác, các lời hứa hẹn với những đe dọa chẳng có nghĩa lý gì đối với đức tin và
lòng can đảm của thánh nữ. Người thiếu nữ từ chối không thờ lạy thần Minerva. Một
ý tưởng quỷ quái nảy ra trong đầu óc quan tổng trấn. Ông truyền dẫn thiếu nữ đến
xóm bất lương mặc cho bọn say mê nàng xâm phạm. Ngài bị lột hết y phục. Nhưng
tóc dài phủ kín người Ngài. Hơn nữa nguồn sáng bởi trời bao quanh Ngài làm
thành một chiếc áo trắng diệu kỳ. Con của vị tổng trấn định cả gan xâm phạm tới
Ngài nhưng bị ngã chết như bị sét đánh. Anê đầy thương cảm đã xin thiên thần cứu
sống anh và anh sẽ trở lại đạo.
Điều
kỳ diệu không có giới hạn và mọi sự đều có thể cả. Bị đưa vào lò lửa, nhưng người
thiếu nữ bất khuất không bị thiêu sống. Thánh Ambrôsiô nói: - Ngài đi chịu khổ
hình một cách vui vẻ còn hơn một người đi vào loan phòng của mình, vì Ngài
không đi đến cái chết nhưng đi vào bất tử, Ngài được trang điểm không phải bằng
những trân châu ngọc báu, nhưng bằng ánh sáng siêu nhiên.
Các
ngọn lửa vây kín mà không thiêu đốt Anê. Vậy Ngài phải bị chém đầu mới được. Và
người ta thấy một thiếu nữ yếu ớt khuyến khích người lý hình tay chân run rẩy:
- Chặt đi đừng sợ gì, để tôi sớm đến được với Đấng lòng tôi yêu mến.
Tường
thuật đã được tiểu thuyết hoá và làm say mê lòng đạo đức của các tín hữu, nhưng
sẽ không đủ để tên Ngài được quí trọng như vậy, nếu không chắc chắn rằng Anê là
thánh trẻ tử đạo mà đức tin, đức mến và lòng ái mộ đức khiết trinh còn mạnh mẽ
hơn cả sự chết.
Lịch
sử thánh Anê còn được phép thêm bằng qua lời truyền khẩu về Emêrentiana, người
chị em cùng một vú nuôi với Ngài. Vài ngày sau khi Anê tử đạo, dân ngoại bắt gặp
Emêrentiana với các tín hữu khác cầu nguyện bên mộ Ngài.
Các
Kitô hữu chạy trốn nhưng Emêrentina ở lại và bị ném đá. Cha mẹ Anê chôn cất
nàng bên mộ con gái mình. đêm sau họ thức cầu nguyện và thấy Anê ở giữa các
thánh nữ đồng trinh, với con chiên trắng hơn tuyết bên phải.
Thánh
Anê nói với cha mẹ: - Đùng khóc vì con phải chết, trái lại cha mẹ hãy vui mừng
vì con được hiệp nhất ở trên trời với Đấng con đã yêu mến hết lòng khi ở dưới đất.
Để
nhớ đoạn lịch sử này, ngày 21 tháng giêng, sau thánh lễ cử hành trên mộ xác
thánh Anê, người ta dẫn tới hai con chiên, lông kết sao vàng và đeo nải trắng một
con, đỏ một con. Hai con chiên được đặt trên bàn thờ trong một giỏ mây, được
chúc lành và dâng cho Đức Thánh Cha, sau đó được gởi về tu viện thánh Cêcilia.
Nơi
đây các nữ tu nuôi chúng lớn lên, lông chúng dùng để dệt các
"Pallium", phẩm phục dệt bằng len trắng, có thêu thánh giá đen, mà Đức
giáo hoàng gửi cho các Đức Tổng giám mục mặc trên áo choàng ngoài, như dấu hiệu
tỏ sự kính trọng.
(daminhvn.net)
21
Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy
Mực
Ruskin
là một nghệ sĩ, phê bình nghệ thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế
kỷ 19.
Một
hôm, có một người đàn bà quý phái mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt
tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất
giá trị của nó.
Ruskin
không nói gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm
sau, ông trao lại chiếc khăn tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời
nào. Nhưng khi trải chiếc khăn tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì
từ một vết mực trong góc của chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức
tranh tuyệt mỹ.
Chiếc
khăn tay có vấy mực tưởng đã bị vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật
để đời.
Những
người có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ
luôn biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người
có niềm tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong
cuộc sống như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo
tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu,
vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh
đấu cho quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến
ông bị cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau
đó, ông đã viết như sau: "Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không
buồn, bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một
phần đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến
lời nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người
ta vẫn thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn
đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của
những mất mát ấy.
Qua
cái chết trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình
Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất
mát ấy. Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của
Thiên Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa
Giêsu trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày
nay, tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người
Kitô để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính
là bổ túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
(Lẽ
Sống)
Thứ Ba 21-1
Thánh Agnes
(c. 258?)
H
|
ầu như chúng ta không
biết gì nhiều về vị thánh nữ nổi tiếng này, ngoại trừ ngài rất trẻ -- khoảng 12
hay 13 tuổi khi ngài chịu tử đạo vào hậu bán thế kỷ thứ ba. Nhiều giả thuyết
được đưa ra về cái chết của ngài như bị chém đầu, bị thiêu hoặc bị xiết cổ.
Truyền thuyết nói rằng
Thánh Agnes là một thiếu nữ xinh đẹp mà nhiều thanh niên muốn kết hôn. Trong
những người bị khước từ lời cầu hôn, có một người đã đi tố cáo ngài là Kitô Hữu
với nhà chức trách. Ngài bị bắt và bị giam trong nhà gái điếm.
Truyền thuyết kể rằng có
một người bị mù vì đã nhìn ngài với ước muốn dâm dục, và sau khi được ngài cầu
nguyện cho, họ đã sáng mắt. Ngài bị kết án, bị xử tử và được chôn gần Rôma,
trong một hang toại đạo mà sau này được mang tên của thánh nữ.
Vào thế kỷ thứ tư,
Constantia, con gái của hoàng đế Constantine đã xây một đền thờ để tôn kính
thánh nữ. Huy hiệu của ngài trong các tranh ảnh là hình con chiên, vì tên của
ngài gần giống như chữ Latinh, agnus, có nghĩa là con chiên.
Lời Bàn
Cũng giống như Thánh
Maria Goretti trong thế kỷ gần đây, sự tử đạo của các thiếu nữ đồng trinh là
một ấn tượng mạnh mẽ đối với xã hội ngày nay đang nô lệ cho chủ nghĩa duy vật.
Như Thánh Agatha, là người đã chết trong hoàn cảnh tương tự, Thánh Agnes tiêu
biểu cho sự thánh thiện mà không lệ thuộc vào tuổi tác, tài năng hay sự cố gắng
cá nhân. Ðó là món quà mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
Lời Trích
"Ðây là ngày
sinh nhật của một trinh nữ; chúng ta hãy noi gương khiết tịnh của ngài. Ðây là
ngày sinh nhật của một vị tử đạo; chúng ta hãy dâng lên những hy sinh; đây là
ngày sinh nhật của Thánh Agnes: Các ông hãy cảm phục, các thiếu niên hãy hy
vọng, các bà hãy kính sợ và các thiếu nữ hãy ganh đua. Ðối với tôi, người thiếu
nữ này, dường như sự thánh thiện và sự can đảm vượt lên trên bản tính con người,
được đặt tên là Agnes (Hy Lạp: tinh tuyền) không phải do trần thế quyết định,
mà là một mặc khải từ Thiên Chúa về con người của thánh nữ" (Bài giảng của Thánh Ambrôsiô về vấn đề đồng
trinh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét