Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

05-01-2014 : CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH năm A (phần II)

CHÚA NHẬT Ngày 5 tháng Giêng năm 2014
Lễ Hiển Linh
(phần II)


Giáo Lý Phúc Âm Lễ Hiển Linh A, B & C
LỄ HIỂN LINH, NĂM A, B & C

Sách Ngôn Sứ Isaia 60.1-6;
Thư Thánh Phaolô Tông Đồ gửi Giáo Đoàn Êphêsô 3.2-3; 5-6,
Phúc Âm Thánh Matthêô 2.1-12
I. Giáo Huấn Phúc Âm :
Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại chứng tỏ rằng: Ngài là cứu Chúa muôn loài.
Muốn  tìm thấy Chúa phải rời bỏ quê hương, can đảm lên đường và theo sự soi dẫn của Chúa qua vì sao lạ như ba Đạo Sĩ Phương Đông.

II. Vấn nạn Phúc Âm
           
            Hêrôđê cả.

            Gọi Hêrôđê cả đúng hơn là đại đế, vì Do Thái bị La Mã thống trị từ năm 63 trước Công Nguyên. Do Thái thành một tỉnh bang của Đế Quốc La Mã, nằm dưới sự đô hộ của Hoàng Đế La Mã đồng thời trực thuộc đại diện của Hoàng Đế La Mã được gọi là Tổng Trấn, như Quirinô làm tổng trấn khi Chúa Sinh và Philatô làm tổng trấn khi Chúa chết. Chúng ta có thể so sánh những vị vua của thuộc quốc nầy giống như những vua Thành Thái, Bảo Đại của triều đình Huế thời Pháp thuộc. Những vị vua do đế quốc thống trị đặt lên và dưới quyền thống trị của mẫu quốc.

            Theo bách Khoa Tự Điển Wikipedia thì “Hêrôđê cả sinh trưởng trong một gia đình quyền quý có cha là Antipater the Idumaean. Mẹ ông là công nương Cypros của vùng Petra Nabatea (nay là một phần của Jordan). Gia đình ông có quan hệ thân thiết với nhiều nhân vật quyền quý ở La Mã thời bấy giờ, trong đó có Pompey và Cassius. Nhờ mối quan hệ này, năm 47 TCN cha của Hêrôđê cả được cất nhắc làm quan tổng trấn của vùng Giuđêa, và Hêrôđê được làm thống đốc Galilêa. Sau khi cha bị đầu độc vào năm 43 TCN, Hêrôđê cả lên nắm tất cả quyền bính của cha và truất phế người vợ đầu và con cả để lấy công nương Mariamne của hoàng tộc cai trị Giuđêa trước đó. Năm 40 TCN, khi người Hasmonea và Parthia xâm chiếm Giuđêa, Hêrôđê cả chạy trốn sang La Mã. Tại đó ông được Hội đồng Trưởng lão La Mã bầu làm Vua Do Thái. Nhưng phải đến năm 37 TCN ông mới thức sự thống trị được Giuđêa”

            Hêrôđê cả trong Tân Ước

            Hêrôđê cả chính là người đã tỏ ra bối rối khi nghe các đạo sĩ Phương Đông hỏi thăm là “Vua Người Do Thái mới sinh ra ở đâu?” Bối rối và sợ mất ngôi. Ông đã khôn khéo cho vời các Đạo Sĩ vào hoàng cung hỏi thăm xem ngày giờ ngôi sao xuất hiện để tìm cách giết Hài Nhi Giêsu. Sau khi thăm Chúa Hài Nhi và dâng cúng lễ vật. Ba đạo sĩ được sứ thần báo mộng tìm đường khác về quê thay vì trở lại gặp Hêrôđê.

            Hêrôđê cả cũng chính là người đã cho giết chết những trẻ thơ vô tội ở Bêlem từ hai tuổi trở xuống với hy vọng là trừ diệt được “vua mới sinh” như được tường thuật trong Phúc Âm Thánh Matthêô 2.13-18. Hêrôđê cả được kế thừa bởi những người con làm quận vương như sau:

            Hêrôđê Archelaus được phân chia cai trị miền Giuđêa, Samaria và Idumea cũng gọi là Edom từ năm 4 trước Công Nguyên cho đến năm 6 sau Công nguyên.

            Hêrôdê Antipas làm vua cai trị Galilêa từ năm thứ 4 trước Công Nguyên cho đến năm 39 sau Công Nguyên. Hêrôđê Antipas là người lấy Hêrôđia, vợ của anh trai mình là Philip. Gioan Tẩy Giả tố cáo ông là loạn luân. Ông cầm tù Gioan và cho lính vào ngục chém đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm mang cho con gái bà Hêrôdia (Matthêô 14.3-12; Matcô 6.17-29 và Luca 3.19-20) Ông cũng chính là kẻ mà sau này Chúa Giêsu gọi là "con cáo già" (Lc 13,32).

            Hêrôđê Philip cũng là con của Hêrôđê cả và Clêopâtre (không phải hoàng hậu Ai Cập), tức là anh em cùng cha khác mẹ với Hêrôđê Antipas. Làm quận vương xứ Iturê và Trakhônitô, cũng như gồm cả Auranitô, Batanêa, Gaulinitô. Philip cai quản năm 4 trước Công nguyên cho đến chết vào năm 34 sau Công nguyên. Vì không có con nối ngôi, vua Tibêriô sáp nhập phần đất này vào miền Syria. Hêrôđia là vợ của Philip và bị Hêrôdê Antipa chiếm đoạt.

            Lễ Hiển Linh.

            Nguyên ngữ Hy Lạp là epiphaneia, có nghĩa là tỏ mình hay xuất hiện ra bên ngoài. Trong tiếng Hy Lạp cỗ cũng gọi là Τheophaneia, có nghĩa là thị kiến Thiên chúa, tức thấy Chúa. Lễ Hiển Linh rơi vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm được coi như là Lễ Con Thiên Chúa thành con người trong Chúa Giêsu Kitô. Giáo Hội Công Giáo Tây Phương cử hành Lễ Hiển Linh trong ý nghĩa chính yếu là việc Chúa tỏ mình ra cho Ba Đạo Sĩ tử Phương Đông đến thờ lạy Chúa.

            Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cử hành lễ hiển linh qua các biến cố: Giáng Sinh – Chúa tỏ mình cho Ba Đạo Sĩ Phương Đông – Chúa lãnh phép rửa ở Sông Giođan và cả việc Chúa làm phép lạ đầu tiên cho nước lã hoá thành rượu. Tất cả là hiển linh trong quan niệm thần học của Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.

            Trong ý nghĩa Thần Học Hiển Linh rất bao quát nầy, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương chỉ cử hành ba lễ lớn trong Năm Phụng Vụ: Phục Sinh – Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và Lễ Hiển Linh. Lễ Hiển Linh thường vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm chứ không có lễ Giáng Sinh ngày 25.12 như Giáo Hội Công giáo Tây Phương.

III. Thực hành Phúc Âm :


            Dân ngoại đi tìm Chúa:

            Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là nguồn sáng thật, Ngài đã tỏ mình cho dân ngoại, cho ba đạo sĩ tử phương đông lặn lội đi tìm Chúa. Ba đạo sĩ không có Kinh Thánh. Ba đạo sĩ ở thật xa. Nhưng ba đạo sĩ chiêm ngắm vì sao và theo sự hướng dẫn của ánh sáng vì sao tìm thấy Chúa.

            Vua Hêrôđê và dân chúng trong thành Giêrusalem là những người thuộc nằm lòng Kinh Thánh. Họ được tiên báo trước là Đấng Cứu Thế Sinh ra ở Bêlem. Họ ở chỉ cách Bêlem có chừng sáu cây số. Nhưng họ không có ánh sáng soi đường. Nên họ không thấy Chúa Hiển Linh.

            Càng tìm hiểu về Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, tôi càng cảm phục cách mang ánh sáng Kitô giáo đến cho lương dân của Ngài. Bà Lucia Huỳnh thị Nghĩa kể lại rằng: Khi biết có xác chết trôi sông, Cha cho người vớt lên bờ và chôn cất trong Đất Thánh. Cách nay 70 năm. Người công giáo nguội lạnh hay rối rắm chết không được chôn trong đất thánh huống chi kẻ chết trôi sông! Cha Diệp đã đưa lương dân vào Đất Thánh. Anh em lương dân cũng cần thấy Chúa.

            Đa số người đến kính viếng mộ phần và cầu nguyện với Chúa qua Cha Trương Bửu Diệp là người không công giáo. Giáo dân Công Giáo, có Kinh Thánh trong tay nhưng không có ánh sáng hiển linh Chúa soi dẫn. Có một vài người Công Giáo khi nghe nói đến chương trình tuyên phong Chân Phước cho Cha Diệp thì đã mỉa mai rằng: Toàn chuyện lạ khó tin, không chắc gì được Toà Thánh nhìn nhận đâu. Có lẽ những anh chị em nầy cần về Việt Nam vả đi viếng mộ Cha Trương bửu Diệp để được người ngoại giáo hướng dẫn đi tìm Chúa chăng?

Lm. Phê-rô TRẦN THẾ TUYÊN


Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra 
Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.

R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Lectio Divina: Chúa Hiển Linh (A)
Chúa Nhật, 5 Tháng 1, 2014
Hành trình đức tin của ba vị Đạo Sĩ
Việc bái thờ Chúa Giêsu Hài Đồng là Vua và là Chúa
Mt 2:1-12


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Cha nhân từ, Chúa đã gọi con để gặp gỡ Chúa trong lời của Tin Mừng, bởi vì Chúa muốn con được có sự sống, Chúa muốn ban cho con chính bản thân Chúa.  Con cầu xin Chúa, xin Chúa hãy sai Chúa Thánh Thần xuống trên con để con được dẫn dắt trên con đường thiên liêng của đoạn Kinh Thánh này.  Hôm nay, nguyện xin cho con có thể ra khỏi nhà tù của chính mình để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm kiếm Chúa.  Xin cho con có thể nhận ra ánh sao mà Chúa đã thắp sáng như một dấu hiệu tình yêu của Chúa trên cuộc hành trình bước theo nó không hề mệt mỏi, một cách mạnh dạn, dấn thân cả đời con. Cuối cùng, xin cho con được bước vào nhà Chúa và ở đó được trông thấy tôn nhan Chúa, xin cho con biết cúi lạy cách khiêm tốn để bái thờ trước nhan Chúa và dâng lên Chúa cuộc sống của con, cả con người con và tất cả những gì con có.  Lạy Chúa, nhờ vào ân sủng Chúa, xin cho con có thể trở về bằng một con đường mới, mà không bao giờ đi qua những con đường cũ của tội lỗi.  

2.  Bài đọc

a)  Bối cảnh của đoạn Tin Mừng

Đoạn Tin Mừng này thuộc về hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu, tạo thành lời mở đầu cho toàn bộ tác phẩm.  Ở đây chúng ta được giới thiệu về nguồn gốc lịch sử của Đấng Cứu Thế là con cháu của vua Đavít, cũng như nguồn gốc thiên tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.  Ngay lập tức, thánh Mátthêu dẫn chúng ta vào trong một sự suy niệm sâu lắng và lôi cuốn, đặt trước chúng ta một sự chọn lựa chính xác qua con người mà ông giới thiệu trong câu chuyện:  chúng ta hoặc nhận ra và chào đón Chúa là Đấng vừa được sinh ra, hay là chúng vẫn lãnh đạm thờ ơ, thậm chí còn muốn loại trừ và giết bỏ Người.  Đoạn Tin Mừng này cống hiến cho chúng ta một câu chuyện đẹp về cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ, những người đến từ phương xa bởi vì họ muốn tìm kiếm và chào đón, yêu thương và tôn thờ Chúa Giêsu.  Nhưng cuộc hành trình dài và miệt mài tìm kiếm của họ, việc hoán cải tâm hồn của họ là sự kiện đang nói về chúng ta, sự kiện đã được ghi lại trong cuốn sách câu chuyện thiêng liêng của chính chúng ta.

b)  Phần phụ chú để giúp cho việc đọc bài Tin Mừng:

Đoạn Tin Mừng này có thể được chia ra làm hai phần chính, được xác định theo nơi câu chuyện xảy ra: phần thứ nhất (đoạn 2:1-9a) xảy ra tại Giêrusalem, trong khi phần thứ hai lại tập trung xung quanh thành Bêlem (đoạn 2:9b-12).

Mt 2:1-2:  Đoạn Tin Mừng bắt đầu với những dấu hiệu chính xác như nơi chốn và thời gian chào đời của Chúa Giêsu: tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê.  Trong lời mô tả khá rõ ràng này, các nhà Đạo Sĩ đột nhiên xuất hiện, những người đến từ phương xa, tìm đến Giêrusalem dưới sự hướng dẫn của một ánh sao.  Chính họ là những người loan báo sự ra đời của vị Vua Thiên Chúa.  Họ hỏi thăm xem Người hiện đang ở đâu bởi vì họ muốn đến để triều bái Người.
Mt 2:3-6:  Khi nghe những lời của các vị Đạo Sĩ nói, vua Hêrôđê, và tất cả thành Giêrusalem cùng với nhà vua, bối rối và sợ hãi.  Thay vì chào đón Chúa và chọn Người, họ tìm cách trừ khử Người.  Vua Hêrôđê triệu tập tất cả các thượng tế Do Thái và Kinh Sư trong dân.  Chính các nhà Đạo Sĩ, nhờ sự giúp đỡ của các ngôn sứ thuở xưa, là những người nói và mặc khải Bêlem là nơi để tìm thấy Đấng Mêssia.
Mt 2:7-8:  Vua Hêrôđê ngầm cho vời các nhà Đạo Sĩ bởi vì nhà vua muốn dùng họ cho mục đích xấu xa của mình.  Việc hỏi han cặn kẽ của nhà vua hoàn toàn nhắm vào việc loại trừ Đức Kitô.  
Mt 2:9a:  Các nhà Đạo Sĩ, được thúc đẩy bởi sức mạnh đức tin và được hướng dẫn bởi ánh sao, lại lên đường và hướng về thành Bêlem.
Mt 2:9b-11:  Ngôi sao lại xuất hiện, đi với các vị Đạo Sĩ và dẫn họ đến đúng nơi chỗ Chúa Hài Đồng Giêsu ở.  Tràn đầy niềm vui mừng, họ tiến vào nhà và phủ phục sụp lạy Người; họ dâng tiến Người lễ vật quý giá vì họ nhận biết Người là vua và là Chúa.
Mt 2:12:  Khi đã chiêm ngắm và thờ lạy Chúa, các vị Đạo Sĩ nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa; chính Chúa nói với họ.  Các ông là những con người mới; họ có trong mình một trời mới đất mới.  Các vị Đạo Sĩ đã thoát khỏi sự lừa dối của vua Hêrôđê, và do đó, họ quay trở lại với đời sống mình bằng một nẻo đường hoàn toàn mới.   

c)  Phúc Âm:


Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói:  “Vua người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?  Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.”  
3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ.  5 Họ tâu nhà vua rằng:  “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng:  “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ và Đức Maria, mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người.  Rồi, mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật:  vàng, nhũ hương, và mộc dược.
12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Tôi lắng nghe thật sâu tiếng nói thì thầm của Chúa và để cho hơi thở của Chúa Thánh Thần đến với tôi và truyền cho tôi.  Trong sự thinh lặng này, tôi đi tìm kiếm Chúa và lặp lại trong lòng tôi:  “Lạy Thiên Chúa của con, Chúa đang ở đâu?”

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

a)  Tôi dùng những lời đầu tiên xuất phát từ miệng các nhà Đạo Sĩ và làm cho chúng trở thành của riêng tôi:  “Vua dân Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?”  Tôi có thực sự cảm thấy bị lôi cuốn đến nơi Chúa ở bởi vì tôi mong ước được ở bên cạnh Người không?  Tôi có sẵn sàng lìa bỏ nơi tối tăm và cũ kỹ của thói quen của tôi, của sự thoải mái của tôi, để thực hiện một cuộc hành trình đức tin trong việc tìm kiếm Đức Giêsu không?
b)  “Chúng tôi đến để triều bái Người.”  Ở đây Lời Chúa kiểm định tôi, đặt tôi qua một thử thách:  tôi có thực sự sống trong một mối quan hệ yêu thương với Thiên Chúa không?  Tôi có thể nào rộng mở cuộc sống tôi trong sự hiện diện của Người và để cho Người ngự vào trong mỗi nhịp đập của tim tôi không?
c)  “Vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”  Tôi có khả năng đặt và dâng trọn xác hồn tôi cho sự hướng dẫn của Chúa, tin cậy nơi Ngài, tin vào tình yêu của Ngài, trong sự hiện diện rất thật của Ngài dù rằng Ngài vẫn vô hình không?
d)  “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ.”  Đó chính là bởi vì họ chấp nhận bước vào trong nhà, bước vào sự hiệp thông, dâng trọn vẹn và thật sự con người họ để mắt họ có thể trống thấy, chiêm ngưỡng và nhận ra.  Tại sao tôi không nhận thức được thực tế là khi tôi càng ở bên ngoài, thì tôi càng xa cách với cuộc sống anh chị em tôi và tôi càng trở nên u buồn và trống trải?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Tôi tìm một số chữ chính, một số chủ đề căn cản, để có thể hướng dẫn và giúp tôi hiểu thấm hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, để cho đời tôi có thể được soi sáng và thay đổi bởi Lời của Chúa.

*  Hành trình:  Đoạn Tin Mừng này dường như trải qua với chủ đề lớn của một cuộc hành trình, một cuộc xuất cư, một chuyến đi.  Các vị Đạo Sĩ, những nhân vật bí ẩn, ra đi, đi xa khỏi miền đất của họ và đi tìm kiến vị vua, Chúa.  Thánh Mátthêu trình bày dữ kiện này bằng một số các động từ song song với sự phát triển của sự kiện:  tìm đến, chúng tôi đến, phái đi, đi, lên đường, đi trước họ, tiến vào, đừng trở lại, trở về.  Cuộc hành trình thể lý của các vị Đạo Sĩ ẩn dấu một cuộc hành trình rất quan trọng và có ý nghĩa hơn, cuộc hành trình đức tin.  Đây là sự chuyển động của tâm hồn được nảy sinh từ lòng ước ao gặp gỡ và biết Chúa.  Đồng thời, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi và lôi cuốn chúng ta với quyền năng của Người; chính Người là Đấng nâng chúng ta dậy và chuẩn bị cho chúng ta lên đường, Đấng ban cho chúng ta các dấu chỉ và không ngừng đồng hành với chúng ta.  Kinh Thánh cho chúng ta nhiều ví dụ quan trọng và những điều đó giúp chúng ta bước vào con đường của ân sủng và phúc lành này.  Thiên Chúa đã phán bảo ông Abraham rằng:  “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:1).  Ông Giacóp cũng là một người hành hương của đức tin và sự hoán cải; trên thực tế, Thánh Kinh đã viết về ông:  “Giacóp ra khỏi Bơ-e-Seba và đi về Kharan” (St 28:10) và “Giacóp cất bước đi về đất con cái Phương Đông” (St 29:1).  Nhiều năm sau đó, Đức Chúa đã phán với ông rằng:  “Hãy trở về quê cha đất tổ, về với họ hàng ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (St 31:3).  Ông Môisen cũng là người đi trên một cuộc hành trình; chính Thiên Chúa đã chỉ cho ông đường đi, cuộc Xuất Hành, trong tâm hồn ông, trong cõi lòng ông, và được làm bằng cả cuộc đời ông cho cuộc hành trình dài của ơn cứu độ cho ông và cho dân tộc ông:  “Bây giờ, ngươi hãy đi!  Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-Cập!” (Xh 3:10).  Dân riêng mới của Chúa cũng thế, chúng ta là con cái của lời hứa và giao ước mới, hằng được gọi để lên đường và ra đi trên cuộc hành trình theo chân của Chúa Giêsu.  Cuộc xuất hành không bao giờ ngừng; cuộc giải phóng xuất phát từ đức tin thì vẫn luôn năng động.  Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vào các vị tông đồ của Người, vào thánh Phaolô:  không ai đứng yên tại chỗ, không ai lẩn tránh.  Tất cả các nhân chứng này nói với chúng ta ngày nay bằng những hành động của họ và họ lặp lại:  “Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84:6).

*  Ngôi sao:  Đây là một yếu tố trọng tâm và rất quan trọng trong đoạn Tin Mừng này bởi vì ngôi sao có vai trò hướng dẫn các vị Đạo Sĩ đi đến nơi họ định đến, nó là sự soi sáng cho họ trong những đêm trên cuộc hành trình, nó chỉ đúng nơi có sự hiện diện của Chúa, nó cho một niềm vui tuyệt vời trong tim họ. Khắp suốt bộ Kinh Thánh, ngôi sao xuất hiện như là dấu chỉ của sự chúc phúc và vinh quang, gần như là một hiện thân của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi dân Ngài, và đồng thời, sự nhân cách hóa của dân tộc đã không quên Thiên Chúa của họ và chúc tụng Ngài (xem Tv 148:3; Br 3:34).  Từ ngữ ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trong Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký 1:16, khi mà vào ngày thứ tư, câu chuyện về Thiên Chúa sáng tạo trời đất cho chúng ta biết về sự xuất hiện trên vòm trời: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, như là các dấu hiệu và ánh sáng, để thiết lập trật tự và cho ánh sáng.  Thuật ngữ của người Do Thái về chữ “ngôi sao” (kokhab) rất tuyệt đẹp và đầy ý nghĩa.  Thật ra, những mẫu tự tạo nên chữ mặc khải sự bao la của sự hiện diện mà các yếu tố thiên thể đi kèm với chúng.  Chúng ta thấy hai chữ caf, có nghĩa là “bàn tay” và kèm theo chữ waw, có nghĩa là con người, được hiểu trong cấu trúc sự sống của anh ta, trong nghị lực, giúp cho anh ta đứng vững, giúp anh ta hướng lên trời, tiếp xúc với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng của anh ta.  Do đó, bên trong các ngôi sao có hai bàn tay, mẫu tự caf và caf, được giữ cách yêu thương trong mẫu tự “waw”, con người:  đó là đôi bàn tay của Thiên Chúa không bao giờ ngừng nắm lấy chúng ta, nếu chúng ta chỉ cần phó thác cho đôi bàn tay ấy.  Sau đó xuất hiện mẫu tự bet, có nghĩa là nhà.  Do đó, các ngôi sao nói với chúng ta về cuộc hành trình hướng về nhà chúng ta, về cuộc di cư liên tục từ đó và trở về, một khi chúng ta đã đến, từ ngày tạo thiên lập địa và thậm chí từ đời đời. Thiên Chúa thường so sánh con cháu của Abraham với sao trên trời, như thể mỗi người là một vì sao, được sinh ra để cho ánh sáng vào ban đêm:  “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không” Và rồi Người lại thêm rằng:  “dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5).  Đức Giêsu là một vì sao, một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp (Ds 24:17), rằng bắt nguồn từ trên cao, là Sao Mai sáng ngời, như sách Khải Huyền đã viết (22:16).  Thật ra, trong Người tình yêu vô hạn của Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt, mà chiếu hướng về phía chúng ta, con cái của Người, và mở rộng vòng tay để tụ tập và chào đón chúng ta.  Chỉ có tình yêu như vậy mới có thể ban cho sự yếu đuối vô hạn của chúng ta khả năng và lòng dũng cảm, sự kiên trì và niềm hân hoan của việc chấp nhận ra đi, đi trên cuộc hành trình dài và gian khổ của đức tin, dẫn chúng ta đến Bêlem, đến nơi Thiên Chúa xuất hiện cho chúng ta.
  
*  Tôn thờ triều bái:  Hành động tôn thờ triều bái thì xưa như chuyện nhân loại, bởi vì ngay từ đầu, mối quan hệ với Thiên Chúa đã được đi kèm theo với nhu cầu của sự yêu thương, của sự khiêm nhường, của sự tận hiến.  Trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta, những con người bé nhỏ, cảm nhận và khám phá ra rằng chúng ta không là gì, một hạt bụi, một giọt nước trong biển khơi.  Trong Cựu Ước, cử chỉ tôn thờ xuất hiện như một hành động của tình yêu sâu sắc đối với Chúa, một cử chỉ đòi hỏi sự tham dự của cả bản thân: tâm trí, ý muốn chọn lựa, tình yêu tràn đầy ước vọng và một bản thân cúi lạy và thậm chí còn phủ phục dưới đất.  Người ta nói rằng ở một vài nơi cử chỉ tôn thờ triều bái được kèm theo cả việc phủ phục dưới đất; khuôn mặt của một người, ánh mắt, hơi thở của người ấy sẽ trở về bụi đất một khi người đó có nguồn gốc và tại đó người ấy nhìn nhận mình là tạo vật của Thiên Chúa, như hơi thở đến từ Thiên Chúa.  “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv 95:6):  đây là lời mời của Kinh Thánh cho chúng ta mỗi ngày, chỉ cho chúng ta thấy đường đi để chúng ta có thể nhiều lần trở lại với chân lý và để sống trọn vẹn.
Tân Ước còn đi sâu hơn trong sự suy niệm tinh thần về sự kiện này và dường như còn muốn cùng đồng hành với chúng ta trên cuộc hành trình sư phạm của sự hoán cải và trưởng thành trong đời sống nội tâm của chúng ta.  Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy các môn đệ, nam và nữ, thờ lạy Chúa Giêsu sau khi Người sống lại (Mt 28:9; Lc 24:52), bởi vì họ nhận ra Người chính là Thiên Chúa.  Lời của Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaritanô cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc vào sự thật của cử chỉ này, đó là, sau cùng, liên quan đến cả cuộc đời và là thái độ của con tim:  việc thờ lạy là dành cho Chúa Cha và không xảy ra đây đó mà là trong Chúa Thánh Thần và trong chân lý, đó là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Đức Giêsu.  Chúng ta không được phép tự lừa dối mình; đó không phải là việc đi hết nơi này sang nơi nọ, cũng chẳng phải vì tìm kiếm một nhân vật thần thánh này hay nhân vật khác để chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa.  Việc di chuyển, cuộc hành trình là một chuyến đi nội tâm và xảy ra trong nơi tận cùng sâu thẳm nhất của chúng ta và là sự hàng phục hoàn toàn chính mình, đời sống chúng ta, cả con người chúng ta, vào đôi cánh của Chúa Thánh Thần và trong vòng tay của Chúa Giêsu, đang mở rộng trên thập giá và luôn sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ đến với Người.  Thánh Phêrô đã nói rõ ràng:  “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3:15). Cử chỉ cúi mình trên đất, phủ phục trước mặt Chúa đến từ trái tim.  Nếu chúng ta để cho Chúa đụng chạm vào tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta cho phép Chúa đi vào lòng mình, không gian thiêng liêng, thì Người sẽ thay đổi chúng ta hoàn toàn, biến đổi toàn bộ con người chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên những con người mới.      

6.  Cầu nguyện:  Thánh Vịnh 84

Một bài Thánh Vịnh về lòng tin tưởng của con người trên cuộc hành trình tiến về nhà Thiên Chúa  

Đáp ca:  Lạy Chúa, con đã thấy ngôi sao của Chúa,
Và con đã đến để thờ lạy Chúa!
Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài xiết bao khả ái.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.

Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!

Phúc thay người ở trong thánh điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.

Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.

Lúc trẩy qua thung lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.

Càng tiến lên, họ càng mạnh bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.

Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.

Lạy Chúa là khiên mộc chở che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.

Một ngày tại khuôn viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.

Lạy Chúa Tể càn khôn, phúc thay người tin tưởng vào Chúa!

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa, là Cha của chúng con, con đã thực sự nhìn thấy ngôi sao của Chúa, con đã mở mắt ra với sự hiện diện tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa và con đã lãnh nhận ánh sáng của sự sống.  Con đã lặng ngắm bóng đêm biến đổi thành ánh sáng, nỗi đau khổ trở nên niềm hân hoan, nỗi cô đơn thành sự hiệp thông; vâng, tất cả những điều này đã xảy ra trước nhan thánh Chúa, trong Lời Chúa.  Chúa đã dẫn con qua sa mạc; Chúa đã đưa con đến nhà Chúa và mở cửa cho con bước vào.   Ở đó con trông thấy Chúa, , Đức Giêsu Con Một Chúa, Đấng Cứu Độ của đời con; con đã cầu nguyện và thờ lạy, con đã khóc và tìm thấy nụ cười của Chúa, con giữ im lặng và học nói.  Trong nhà Chúa, là Cha nhân từ, con đã tìm được sự sống một lần nữa!
Và giờ đây con sắp trở lại, con tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng đường đi không phải là con đường mà con đã đi trước đây và cuộc sống con không phải là cuộc sống như trước đó nữa.  Lời Chúa đã để lại trong con một quả tim mới, có khả năng mở ra để yêu thương, để lắng nghe, để chào đón và trở thành mái ấm cho nhiều anh chị em mà Chúa đã đặt để họ trên đường con đi.  Lạy Chúa, con đã không biết, nhưng Chúa đã làm cho con trở nên trẻ thơ một lần nữa, Chúa đã sinh ra con với Chúa Giêsu.  Lạy Cha, xin cảm tạ Cha, ôi Cha của con!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét