26/11/2017
Chúa Nhật 34 thường niên năm A
CHÚA GIÊSU KITÔ, VUA VŨ TRỤ.
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 34 thường niên, năm A
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN A
LỄ CHÚA KITÔ VUA
Ed 34,11-12.15-17; 1Cr 15,20-26.28; Mt 25,31-46
ĐỨC GIÊSU
KITÔ – MỤC TỬ VÀ THẨM PHÁN
“Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt
chiên với dê” (Mt 25,32)
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, chúng ta cử hành trọng thể Lễ Chúa
Kitô – Vua Vũ Trụ. Tất cả đều quy hướng về Người và tìm thấy nơi Người sự viên
mãn. Các bài đọc hôm nay trình bày Thiên Chúa như là vị mục tử chăm lo cho đàn
chiên; mọi thế lực thù địch sẽ quy phục dưới chân Người, và Người còn là vị thẩm
phán trong ngày quang lâm.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Ed 34,11-12.15-17)
Bài đọc I được trích từ một sấm ngôn của ngôn sứ Êdêkien chống lại các mục
tử xấu nhà Israel, đúng hơn là với các vua hơn là các tư tế. Sấm ngôn này có thể
vào cuối giai đoạn các vua, trong thời gian trước lúc Đền Thờ Giêrusalem bị tàn
phá và dân bị lưu đày (x. Gr; 2V 23-25). Chính trong bối cảnh loạn lạc và bất
công này, những lời sấm rất tuyệt vời của ngôn sứ Êdêkien đã vang lên và xem
dân Israel như một đàn chiên lạc không người chăn dắt. Ngày đó, vị mục tử nhà
Israel sẽ không phải là một vị vua nào, nhưng là chính tay Đức Chúa sẽ chăn dắt
(c.11) và tập họp dân Người (c.12), và Người sẽ đưa họ nghỉ ngơi trên đồng cỏ
núi thánh Israel (c.15). Tiếp đến là lời hứa về sự can thiệp của Thiên Chúa
trong ngày đó đối với đàn chiên của Người, nhất là với những người yếm thế, và
Người cảnh báo những người trục lợi và giẫm đạp lên những người yếu hèn
(c.16-17).
2. Bài đọc II (1Cr 15,20-26.28)
Các Rabbi Do Thái tin rằng Đấng Messia đến sẽ khai mở một triều đại
Messia, và sau đó sẽ tiếp nối triều đại của Thiên Chúa. Vì thế thánh Phaolô
cũng chia sẻ ý tưởng này của các Rabbi và cho rằng triều đại Messia sẽ kéo dài
tương ứng với lịch sử nhân loại và sẽ kết thúc vào ngày sau hết. Trong viễn cảnh
này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bài đọc II hôm nay. Thánh Phaolô tin rằng Đấng
Messia, cách tiệm tiến, sẽ tiêu diệt mọi thù địch trong triều đại của Người, và
chiến thắng của Người sẽ hoàn tất khi thù địch cuối cùng, là cái chết, bị tiêu
diệt (c.25-26). Thế lực thù địch bị tiêu diệt ở đây không phải là con người,
nhưng là sự dữ, nghĩa là tất cả những gì làm cản trở con người sống trong sự
viên mãn của đời mình như: bệnh tật, nghèo đói, trần truồng, nô lệ, sợ hãi, ghen
ghét, ích kỷ, tội lỗi. Một khi những thực tại tiêu cực này biến mất, thì triều
đại Messia có thể nói là sẽ hoàn tất. Vì thế, bất cứ ai dấn thân chống lại những
điều này là cộng tác vào kế hoạch và công trình của Đấng Messia. Một khi triều
đại này được khai mở trong thế gian và những thế lực thù địch của Đức Kitô, kể
cả sự chết, bị tiêu diệt, thì chính Đấng Messia sẽ trao vương quyền lại cho
Thiên Chúa là Cha (c.24) và khai mở triều đại của Thiên Chúa và triều đại này sẽ
vô cùng tận (c.28).
3. Bài Tin Mừng (Mt 25,31-46)
Bài Tin Mừng hôm nay là một quang cảnh phúng dụ về cuộc phán xét sau
cùng. Trong Tin mừng Mátthêu, đoạn này tiếp theo sau dụ ngôn những nén bạc và kết
thúc diễn từ cánh chung, loan báo việc Con Người đến trong vinh quang. Toàn bộ
diễn từ này, đặc biệt cảnh phán xét sau cùng có nét tương đồng với bối cảnh
phán xét trong Đanien 7,13-14, trong đó, xuất hiện hình ảnh Con Người được trao
quyền trên mọi dân nước.
Có thể nói đây là một sấm ngôn về sự trở lại của Đức Kitô. Vì thế, việc
xem bản văn đơn thuần như là một dụ ngôn dạy về một bài học luân lý là chưa đủ.
Ta còn thấy tiếp sau diễn từ cánh chung và phán xét sau cùng này là trình thuật
về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc này giúp chúng ta hiểu được cuộc
Vượt qua của Chúa Giêsu như là con đường dẫn tới cuộc quang lâm của Đức Kitô.
Cuộc quang lâm này là một cuộc phán xét, và chỉ ra ai là những người thuộc về
hay không thuộc về Đức Kitô. Thánh Mátthêu trước đó cũng đã cho chúng ta những
tiêu chí thuộc về không phải là những yếu tố bề ngoài (x. Mt 7,21-23).
Mạc khải về sự trở lại của Đức Kitô bao hàm cả về sự hiện diện hoàn vũ của
Người. Sự hiện diện này đã có, nhưng bất khả thị. Vì thế, nơi những người
nghèo, những người bé mọn là một bí tích về sự hiện diện của Người. Từ đây thúc
bách chúng ta để ý nhiều hơn trong các tương quan với tha nhân, và như thế Nước
Chúa sẽ tiến triển theo cách thế này.
Khi mạc khải cho chúng ta về ngày phán xét sau cùng, có vẻ như Đức Giêsu
vượt qua cách mô tả thị kiến theo văn chương khải huyền, và đưa chúng ta đến đời
sống thật và những việc làm cụ thể. Vì thế, để chuẩn bị cho ngày đó, chúng ta
được mời gọi xem lại cách hành xử của chúng ta hôm nay. Đức Giêsu đã chiếu trước
cho chúng ta một nguồn sáng trên những gì chúng ta đang sống. Ngài hiện diện và
đồng hóa mình nơi những con người bé mọn. Đây là một mạc khải tuyệt vời, và
tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người đã đến mức cùng tận như thế này. Vì
thế, “nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mình mà họ trông thấy, thì làm sao
có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy?” (1Ga 4,20).
Đoạn Tin Mừng hôm nay chính yếu không nhằm cung cấp những thông tin chi
tiết chính xác về cuộc phán xét sau cùng xảy ra như thế nào, nhưng là lời dạy
chúng ta phải sống hôm nay ra sao trong tương quan với ngày mai. Mỗi người
chúng ta sẽ được chất vấn dựa trên tình yêu trong đời sống hiện tại, bởi lẽ
Vương quốc của Chúa là một vương quốc của tình yêu.
Hình ảnh chiên và dê được dùng ở đây rất ý nghĩa: chiên thì luôn quy tụ
với nhau thành đàn và để cho mục tử chăn dắt đến những đồng cỏ xanh rì; còn dê
là loài hay nhảy, phá phách, ăn uống ồn ào và không trật tự. Và như vậy, vấn đề
ai là chiên ai là dê trong ngày sau hết có ý nghĩa ngay từ hôm nay. Chúng ta đã
là chiên mỗi khi chúng ta biết yêu mến và quan tâm chia sẻ; chúng ta đã là dê mỗi
khi chúng ta sao nhãng những việc này với những người chung quanh mình.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ.
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương,
Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào
khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”. Lời hứa
của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Êdêkien đã hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, vị mục
tử nhân lành. Nhìn lại đời mình trong từng biến cố, tôi có cảm nghiệm được những
nẻo đường hồng ân mà Thiên Chúa đã chăm sóc và dẫn lối tôi đi trong cánh tay
yêu thương của Người?
2. “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch
dưới chân Người”. Mọi thế lực thù địch sẽ bị tiêu diệt trong triều đại của Đức
Giêsu Kitô, kể cả cái chết, và tất cả sẽ quy phục một mình Người. Vậy trong đời
sống mỗi ngày, tôi có cộng tác vào việc xây dựng Nước Chúa, biết gieo hòa bình
và tình thương, góp phần xóa bỏ những điều không tương hợp với triều đại của
Chúa, trước tiên là nơi chính bản thân tôi?
3. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thiên Chúa đã yêu thương con
người đến nỗi đồng hóa mình nơi những con người bé mọn. Vậy tôi đã làm gì trước
dung mạo của Đức Kitô là những người chung quanh, nhất là khi Ta đói… Ta khát… Ta là khách lạ… Ta
trần truồng… Ta đau yếu… Ta ngồi tù?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên
Chúa là vị mục tử nhân lành luôn chăm sóc tận tình và cũng xét xử thật công
minh từng con chiên trong đàn chiên của Người. Trong ngày mừng kính Chúa Kitô
Vua vũ trụ, chúng ta hãy ngợi khen chúc tụng Chúa và tin tưởng cầu xin.
1. Chúa Kitô là Vua nhân từ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn
trong Hội Thánh, luôn theo gương Chúa Kitô, lấy yêu thương tha thứ mà hướng dẫn
và chăm sóc đoàn chiên, để mọi người được sống an vui hạnh phúc dưới vương quyền
của Thiên Chúa.
2. Chúa Kitô là Vua hòa bình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo
trên thế giới biết trân trọng và yêu chuộng hòa bình, luôn nỗ lực xóa bỏ mọi hận
thù tranh chấp, cùng nhau cộng tác để xây dựng một xã hội văn minh cùng nền hòa
bình viên mãn cho thế giới.
3. “Con nào bị mất, Ta sẽ tìm kiếm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho những ai đã từ chối Chúa và xa lìa Hội Thánh, biết nhận ra
giới hạn và sai lầm của mình, quyết tâm trở về giao hòa với Chúa và sống hiệp
thông trong cộng đoàn Giáo Hội.
4. “Hãy đến và hãy lãnh nhận phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho
các ngươi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta,
luôn chuyên cần thực hành yêu thương, nêu cao tinh thần phục vụ, để xứng đáng
hưởng niềm vui bất tận Chúa hứa.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô là vua công
minh và mục tử nhân lành. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban tặng Thánh
Thần giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng một đời sống thấm nhuần công
bình bác ái, làm cho nhiều người nhận biết và qui phục vương quyền Chúa. Chúa hằng sống và hiển
trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHỰT 34 TN A
LỄ CHÚA KITÔ VUA
CHỦ ĐỀ :
ĐỨC GIÊSU LÀ VUA
"Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng
Nước Trời đã dọn sẵn cho các con" (Mt 25,34)
Sợi chỉ đỏ : Chủ đề hôm nay rất rõ và được khai triển trong tất cả 3 bài đọc cùng với
bài đáp ca : Đức Giêsu là Vua
- Bài đọc I : Thiên Chúa là Vua-Mục tử ân cần chăm sóc từng con chiên
mình.
- Đáp ca : Chúa là mục tử
- Tin Mừng : Đức Giêsu là Vua-Thẩm phán. Nhưng Ngài xét xử theo tình thương
yêu.
- Bài đọc II : Đức Giêsu là Vua vũ trụ, nắm toàn quyền trên mọi sự và mọi
loài.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta
thấy lúc tận cùng của thời gian Đức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi
sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những
người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị
trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng
giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền
bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
- Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
- Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Êd 34,11-12.15-17)
Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc cho Israel là đoàn
chiên của Chúa. Những người ấy là các vị vua, các tư tế và các luật sĩ. Nhưng họ
chỉ biết lợi dụng chức vị để lo cho bản thân, bỏ mặc đoàn chiên bị bơ vơ, đói
khát, bị trộm cướp và thú dữ bắt giết.
Vì thế, qua miệng ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa cho biết rằng Ngài sẽ lấy lại
đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy, và Ngài sẽ đích thân làm mục tử chăm
sóc cho đoàn chiên mình.
2. Đáp ca (Tv 22)
Thiên Chúa là một mục tử tốt : Ngài lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước
trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi.
Được làm con chiên do Chúa dẫn dắt, người tín hữu không sợ thiếu thốn gì cả
; dù đang bước đi trong thung lũng tối tăm, con chiên cũng không sợ vì biết rằng
sau đó sẽ tới chỗ an toàn ; dù đang đối diện với quân thù, con chiên cũng an
tâm vì biết có mục tử hùng mạnh bênh vực che chở mình.
3. Tin Mừng (Mt 25,31-46)
Dụ ngôn này mô tả ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu xuất hiện như một vị
Vua-Thẩm phán. Tất cả mọi người đều tập họp trước nhan Ngài để chịu xét xử.
Tiêu chuẩn mà vị Vua-Thẩm phán ấy dựa vào để xét xử là cách sống yêu thương.
Ngài cho rằng ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức
là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lai, ai không
yêu thương những người khốn khổ bé mọn cũng có nghĩa là không yêu thương Chúa
nên bị trừng trị.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,20-26a.28)
Thánh Phaolô cũng nói tới ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu sẽ làm Vua, chiến
thắng tất cả mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật. Ngài sẽ cho tất cả
những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Một vị vua lý tưởng và một
nước lý tưởng
Dựa vào các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể mô tả một vị
vua lý tưởng và một nước lý tưởng :
- Vị Vua ấy không chễm chệ ngự trị trong cung điện và trên ngai vàng, nhưng
hoà mình với dân như một người mục tử sống với chiên, lo cho chiên và đồng hành
với chiên.
- Vị vua ấy không bắt dân phải cung phụng và phục dịch mình, nhưng xả thân
chăm sóc đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho dân.
- Luật trong Nước của Vua ấy không rườm rà và khắt khe, nhưng là Luật Yêu
Thương, rất đơn giản và ngọt ngào.
- Dân trong Nước ấy không hoan hô bằng miệng, không báo cáo bằng giấy,
nhưng thực hiện Luật yêu thương một cách cụ thể bằng những việc giúp đỡ những
người khốn khổ bé mọn.
- Mọi người trong Nước ấy đối xử với nhau một cách vừa tôn trọng vừa thương
mến như đối xử với chính Chúa vậy.
Hình ảnh lý tưởng ấy không phải là hoàn toàn ảo tưởng : Vị vua lý tưởng ấy
chúng ta đã có rồi, đó là Chúa Giêsu ; Luật lý tưởng ấy chúng ta cũng đã có rồi,
đó là Luật yêu thương ; chỉ còn thiếu một điều là chúng ta phải cố gắng làm những
công dân lý tưởng như Chúa đã dạy.
2. "Thuận thiên giả tồn,
nghịch thiên giả vong"
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất
chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống
ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời
thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là "lưới trời lồng lộng
không ai thoát khỏi" và "thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả
vong" (người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất).
Dù là dân đen hay là vua chúa, dù nghèo hay giàu, dù trẻ hay già… cuối cùng
rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ
xét xử cuộc sống mỗi người. Ngài xét xử dựa trên Luật yêu thương. Người nào sống
yêu thương là "thuận thiên" và sẽ được "tồn" trong hạnh
phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ "nghịch thiên" và sẽ
"vong" vĩnh viễn trong cõi trầm luân.
3. Mở mang Nước Chúa
Nước Thiên Chúa, đó là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu nói tới nhiều
nhất, nhưng có lẽ đó cũng là một trong những điều chúng ta hiểu cách mù mờ nhất.
- Ngày xưa người do thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước
do thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.
- Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất
đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nễ phục. Hiểu
như vậy có đúng không ? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần
hình thức, phần tổ chức.
Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu thêm về Nước Thiên Chúa.
1. Lần kia các môn đệ hỏi Chúa Giêsu : "Thưa Thầy bao giờ Nước Thiên
Chúa đến ?" Chúa Giêsu đáp : "Nước Thiên Chúa không đến như một điều
gì có thể quan sát được, Người ta không thể nói Nước Thiên Chúa ở đây hay ở
kia, vì nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em" (Lc 17,20-21). Chúng ta hãy
nghe cho kỹ Lời Chúa Giêsu nói : "Nước Thiên Chúa không đến như một điều
có thể quan sát được", nghĩa là sao ? Nghĩa là đừng coi Nước Thiên Chúa
như một tổ chức, dù là tổ chức quy mô đông đảo bao nhiêu đi nữa. "Nước
Thiên Chúa đang ở giữa anh em" nghĩa là sao ? Có thể có 2 nghĩa : 1 là ở
ngay trong lòng mỗi người ; 2 là ở một người nào đó đang âm thầm sống và làm việc
giữa một tập thể đông người. Như thế Nước Thiên Chúa không phải là một tổ chức
mà là một sức sống ; sức sống ấy không thể hiện nơi những hoạt động mà thể hiện
nơi sức tác động (lặp lại).
Bởi thế trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không so sánh Nước Thiên
Chúa với hình ảnh những đạo quân hùng hậu hay với những đám người đông đảo.
Trái lại Ngài so sánh Nước Thiên Chúa với hạt cải và với nắm men, những hình ảnh
nói lên sự nhỏ bé và âm thầm. Tuy nhiên nhỏ mà lớn, âm thầm mà rất mạnh. Hạt cải
sẽ trở thành cây to, nắm men sẽ khơi dậy cả thúng bột.
Những suy nghĩ trên gợi lên ba ý nhỏ về việc xây dựng Nước Thiên Chúa :
1. Bởi vì "Nước Thiên Chúa không đến như điều gì có thể quan sát được",
cho nên chúng ta đừng quá chú trọng đến bề ngoài. Hãy xây dựng Nước Thiên Chúa
ngay bên trong.
2. Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong lòng mình : Chúa Giêsu đã nói
"Nước Thiên Chúa ở giữa anh em". "Ở giữa" theo nghĩa thứ nhất
là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho dù chúng ta có làm hết việc này tới việc nọ,
làm hết chỗ này tới chỗ khác, nhưng ngay trong lòng ta không có Nước Thiên Chúa
thì tất cả cũng chỉ là công dã tràng thôi : "Dã tràng xe cát biển đông, nhọc
nhằn mà chẳng nên công cán gì". Hãy tự vấn xem trong lòng mình đã có Nước
Thiên Chúa chưa. Nếu chưa thì hãy xây dựng. Xây dựng bằng cách sống theo Luật
Nước Chúa, tức là Luật yêu thương.
3. Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cộng đoàn của mình bằng cách góp phần
làm cho cộng đoàn mình đang sống dần dần thành một cộng đoàn yêu thương.
4. Mảnh suy tư
Mẹ Têrêsa nói : ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều
người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được
tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm,
không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là
vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để
ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người
bên cạnh.
5. Chuyện minh họa
a/ Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince,
như sau :
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết,
người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố
và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc
đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng.
Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước
mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc ? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà !
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng
quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị
chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không ?
- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?
- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh
mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem
cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền,
bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc
khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo
khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức
của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì
quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho
tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có
biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim
én nhỏ bé kia.
b/ "Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói đâu… ?"
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa
nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho
Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin
nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi
nghe tin đó, Cha Sở nọ nói : "Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco
thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách
sang trọng nhất cho Ngài rồi"
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như
thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức
tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vua toàn thể vũ trụ, nhưng là một vị vua của tình thương và
hòa bình. Với tâm tình yêu mến vị vua nhân ái, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / đặc biệt là các vị mục tử /
luôn luôn là những tấm gương yêu thương sống động.
2- Hoà bình và phát triển là hai mơ ước tha thiết của hết thảy mọi người
đang sống trên hành tinh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ước mơ trên
của con người / sớm trở thành hiện thực trong đời sống thường ngày.
3- Trong quan hệ giữa con người với nhau / nếu thiếu tình người thì
không thể có những mối liên hệ tốt đẹp được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các
kitô hữu / biết luôn cố gắng đem tinh thần bác ái yêu thương vào trong đời sống
xã hội / để mọi người yêu thương / tôn trọng và tin tưởng nhau.
4- Thánh Phaolô nói / "Sống yêu thương là chu toàn cả lề luật
Chúa" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố
gắng sống trọn vẹn đức bái ái yêu thương đối với tất cả mọi người.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chinh phục nhân loại bằng tình thương hy
sinh của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Chúa, lấy lòng bác ái mà đối
xử với nhau, và cách riêng đối với những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhờ đó
chúng con có thể giới thiệu Chúa cho những người thành tâm thiện chí. Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay,
chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
- Trước rước lễ : Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài.
Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Đây
Chiên Thiên Chúa…"
VII. GIẢI TÁN
Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại,
mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là
hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ (A)
Chúa Nhật, 26 Tháng 11, 2017
Chúa Giêsu tự nhận mình là
anh em với những kẻ bé mọn nhất
Điều kiện để được vào Nước
Trời
Mt 25:31-46
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa Thánh Thần của chân lý, Đấng được Chúa Giêsu sai đến để hướng dẫn
chúng con tìm đến sự toàn chân, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con để chúng con
có thể hiểu được lời Kinh Thánh. Ngài là
Đấng đã rợp bóng trên Đức Maria và khiến bà thành mảnh đất màu mỡ nơi Lời của
Chúa có thể nẩy mầm, xin hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi trở ngại hướng
đến Lời Chúa. Xin giúp chúng con tìm hiểu
giống như Đức Maria xưa kia với trái tim trinh khiết và tốt lành để lắng nghe Lời
Chúa nói với chúng con trong cuộc sống và trong Kinh Thánh, để chúng con có thể
tuân giữ Lời Chúa và sinh sản được hoa trái tốt tươi qua sự kiên trì của chúng
con.
2. Bài Đọc
a) Bối cảnh:
Bài Tin Mừng của chúng ta là một phần của Bài Giảng thời cánh chung (Mt
24:1-25, 46) của Chúa Giêsu trên núi Cây Dầu giảng riêng cho các môn đệ của Người
(24:3). Bài giảng bắt đầu với lời công bố
về sự phá hủy đền thờ Giêrusalem để nói về ngày tận thế. Hai sự kiện trở thành lẫn lộn y như thể chúng
là một. Phần này của bài giảng kết thúc
với cuộc quang lâm của Con Người với sự uy nghi và vinh hiển. Người sẽ sai các thiên sứ của Người tập hợp
những kẻ được Người tuyển chọn (24:30-31).
Ở đây, thứ tự thời gian của các sự kiện được công bố bị gián đoạn bởi việc
chen vào của một số dụ ngôn cần thiết hầu cảnh giác để khỏi bị mắc lừa bởi cuộc
quang lâm của Con Người (24:24-25, 30).
Bài giảng về thời cánh chung đạt đến tột đỉnh văn học và thần học của nó
trong đoạn Tin Mừng của chúng ta. Phần
Tin Mừng này liên quan với các câu Mt 24:30-31 và nói một lần nữa về cuộc quang
lâm của Con Người cùng với các thiên thần hầu cận của Người. Việc tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn ở
đây có hình thức của ngày phán xét cuối cùng.
b) Phúc Âm:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết
thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người,
và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở
bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những
người bên hữu rằng: ‘Hãy đến hỡi những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các
ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta
đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các
ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các ngươi
đã viếng thăm, Ta vị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.’ Khi ấy người lành đáp lại rằng: ‘Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Chúa đói
mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng tôi thấy Chúa là lữ khách mà tiếp
rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng tôi thấy Chúa yếu đau hay bị tù
đày má chúng tôi đến viếng Chúa đâu?’
Vua đáp lại: ‘Quả thật, Ta bảo
các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho
một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.’
Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: ‘Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta
mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn, Ta
khát, các ngươi không cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước, Ta
mình trần, các ngươi không cho đồ mặc, Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng
thăm Ta!’ Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: ‘Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa
đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng tôi chẳng giúp đỡ
Chúa đâu?’ Khi ấy Người đáp lại: ‘Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong
các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính
Ta.’ Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực
hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu.’”
3. Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu
hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Chúa Giêsu dùng tiêu chuẩn nào
để phân loại người ta?
b) Ai là những anh em bé mọn nhất
của Chúa Giêsu mà chính Người tự nhận?
c) Chúa Giêsu đã cho thấy sự ưu
ái đến những kẻ bé mọn trong đời sống của Người như thế nào?
d) Ai là những anh em bé mọn nhất
của Chúa Giêsu mà tôi đã gặp?
e) Tôi có đủ khả năng để nhìn thấy,
yêu thương và phục vụ Chúa Giêsu trong họ không?
5. Chìa khóa dẫn
đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
Con Người:
Con Người là một lối nói của người Do Thái mà chỉ đơn giản có nghĩa là
người phàm (xem ví dụ sự tương đương giữa “phàm nhân” và “con người” trong
Thánh Vịnh 8:5). Sách tiên tri Êgiêkien
thường xử dụng chữ này với ý nghĩa này khi Thiên Chúa nói với ông như “con người”
(2:1,3,6,8; 3:1,2,4,10,16+) để nhấn mạnh khoảng cách giữa Thiên Chúa là Đấng
siêu việt và ngôn sứ chỉ là một phàm nhân.
Tuy nhiên, trong sách tiên tri Đanien 7:13-14, từ ngữ này có một ý nghĩa
đặc biệt. Vị tiên tri nhìn thấy “trong đám mây trên trời, có ai như con người
đang ngự giá mà đến”, Đấng nhận lãnh từ Thiên Chúa “quyền thống trị, vinh quang
và vương vị”. Tuy nhiên, văn bản này vẫn
còn nói về một người phàm được đưa vào trong phạm vi của Thiên Chúa. Văn bản đã được giải thích trong cả hai ý
nghĩa cá nhân và tập thể, nhưng luôn luôn trong một ý nghĩa thiên sai. Do đó, bất kỳ chúng ta đang đề cập tới một
người hoặc tới tất cả Dân Chúa, Con Người là Đấng Mêssia, Đấng đem lại Vương Quốc
Thiên Chúa, một vương quốc trường cửu và phổ quát.
Việc dùng chữ “Con Người” để nói đến Đức Giêsu như được áp dụng trong
sách tiên tri Đanien, các câu 7:13-14, thì rất là phổ biến trong các sách Tin Mừng. Chúng ta cũng tìm thấy trong sách Tông Đồ
Công Vụ câu 7:56 và sách Khải Huyền các câu 1:13 và 14:14. Các học giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã tự cho
mình danh hiệu này. Trong sách Tin Mừng
theo Mátthêu, từ ngữ này được dùng để nói về Chúa Giêsu đặc biệt khi Người nói
về cuộc thương khó của mình (17:12, 22; 20:18, 28), sự phục sinh của Chúa như
là một biến cố có tính cánh chung (17:19; 26:64) và cuộc trở lại vinh hiển của
Người (các câu 24:30 và 25:31, phần đầu của bài Tin Mừng chúng ta).
Chúa Giêsu vua, vị quan tòa và
người mục tử:
Tác giả Mátthêu cũng trao cho Chúa Giêsu tước hiệu vua (1:23; 13:41;
16:28; 20:21). Vương quyền của Thiên
Chúa là một chủ đề rất thân thiết với Kinh Thánh. Bởi vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người ngự
trị cùng với Chúa Cha. Trong bài Tin Mừng
của chúng ta, nhà Vua là Đức Giêsu, nhưng Người thực hiện vương quyền của mình
trong mối quan hệ chặt chẽ với Chúa Cha.
Những kẻ được tuyển chọn là “những kẻ được Cha Ta chúc phúc” và vương quốc
mà họ được mời vào là vương quốc đã được chuẩn bị cho họ bởi Thiên Chúa, như động
từ ở trong thể thụ động cho thấy. Thể
này của động từ, được gọi là sự thụ động thiêng liêng, thường được thấy trong
Kinh Thánh và luôn luôn có Thiên Chúa là chủ thể hàm ý của nó. Trong đoạn Tin Mừng này, vương quốc chỉ về sự
sống đời đời.
Như trong sách tiên tri Đanien chương 7 (đặc biệt các câu 22, 26, và
27), trong bài Tin Mừng của chúng ta, địa vị hoàng tộc của Con Người được kết nối
với sự phán xét. Nhà vua, đặc biệt trong
thời cổ sơ, đã luôn luôn được coi là quan tòa tối cao. Sự phán xét mà Đức Giêsu thi hành là sự phán
xét chung, cuộc xét xử có liên quan đến mọi dân tộc (câu 32). Nhưng nó không phải là một sự phán xét tập thể. Không phải là sự phán xét của các dân tộc mà
là sự phán xét của từng cá nhân.
Trong cùng một cách, biểu tượng mục vụ được liên kết với tư cách vương
quyền. Trong thời cổ đại, nhà vua thường
được xem như là người chăn chiên cho dân tộc mình (xem ví dụ Thánh Vịnh 23; Is
40:11; Êd 34) và Tân Ước cũng áp dụng danh vị này cho Chúa Giêsu (Mt 9:36;
26:31; Ga 10). Trong thời Chúa Giêsu, những
người mục tử tại vùng Đất Thánh chăn dắt các đàn chiên và dê hỗn hợp. Tuy nhiên, vào ban đêm, chúng được tách rời
ra bởi vì chiên thì ngủ ngoài trời trong khi dê thì ưa ngủ trong chuồng. Trong bài Tin Mừng của chúng ta, các con
chiên đại diện cho những người được chọn bởi vì chúng có giá trị hơn dê và bởi
vì màu lông trắng của chúng thường có nghĩa là sự cứu rỗi trong Kinh
Thánh.
Các anh em bé mọn nhất của Ta:
Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được giải thích với ý nghĩa rằng Đức
Giêsu đã tự nhận mình với những kẻ nghèo hèn và bị rẻ rúng. Chúa Giêsu sẽ phán xét tất cả mọi người, và đặc
biệt những ai đã không có cơ hội để biết Tin Mừng của Người, theo lòng thương
xót mà họ đã dành cho những người khốn khổ.
Tất cả mọi người đều có cơ hội chào đón hoặc từ chối Chúa, nếu không phải
là chính Người, thì ít nhất là trong con người của kẻ cùng khốn nhất mà Chúa
Giêsu đã tự đồng hóa mình với họ.
Chú giải Kinh Thánh hiện đại có xu hướng đọc văn bản với một ý nghĩa
giáo hội học hơn: Nó được đặt bên cạnh
các câu của Mt 10:40-42 và các nhà chú giải Thánh Kinh nhấn mạnh rằng đó không
phải là một vấn đề về công tác từ thiện mà là một sự đáp trả với Tin Mừng Nước
Trời được rao truyền qua những người anh em của Chúa Giêsu, ngay cả bởi những kẻ
bé mọn nhất trong bọn họ, không cứ chỉ bởi những người lãnh đạo Giáo Hội mà
thôi.
Vì thế các dân tộc, đó là các dân ngoại, được mời gọi để đón chào các
môn đệ của Chúa Giêsu là những người đi rao giảng Tin Mừng cho họ và chịu khó
nhọc vì lợi ích của việc ấy, giống như họ đang tiếp đón chính Đức Giêsu. Về phần các Kitô hữu, họ được mời gọi thực
hành việc quảng đại hiếu khách đối với anh em của họ là những người đi đây đó
rao giảng Tin Mừng và chịu sự bách hại (xem 2Ga 5-8). Theo cách này, họ sẽ bày tỏ tính xác thật của
sự quyết tâm làm môn đệ của mình.
Trong bối cảnh Tin Mừng của Mátthêu, lối giải thích thứ hai này có lẽ
chính xác hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh
của toàn bộ Kinh Thánh (xem ví dụ Is 58:7; Gr 2:1-9; 1Ga 3:16-19) lời giải
thích thứ nhất không thể bị loại bỏ hoàn toàn.
6. Thánh Vịnh
47
Đức Mêssia-Vua khuyến khích công lý và hòa bình
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn!
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất!
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự!
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại!
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã thiết lập Đức Giêsu, Con của Chúa, làm
vua và là quan tòa vũ trụ. Người sẽ đến
vào ngày tận thế để phán xét tất cả mọi dân tộc. Người đến với chúng con mỗi ngày trong hàng
ngàn cách và đòi hỏi chúng con chào đón Người.
Chúng con gặp Người trong Lời Chúa và trong việc bẻ bánh. Nhưng chúng con cũng gặp Người trong anh chị
em khốn cùng của chúng con, trong những người đói khổ, bị áp bức, bất công, bệnh
tật và bị sỉ nhục của xã hội chúng con.
Xin Chúa hãy mở lòng chúng con để chúng con có thể chào đón Người trong
đời sống chúng con ngày hôm nay hầu chúng con có thể được Chúa chào đón vào
trong vương quốc đời đời của Người.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô là Chúa của chúng con. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét