Thứ Bảy sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) St 3,9-21
"Chúa
đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất".
Bài
trích sách Sáng Thế.
Thiên
Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi ở đâu?"
Ông
đã thưa: "Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì
tôi trần truồng và đang ẩn núp".
Chúa
phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng
phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?"
Ađam
thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi
trái cây và tôi đã ăn".
Và
Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều
đó?"
Người
phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn".
Thiên
Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa
mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất
mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa
miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì
rình cắn gót chân người".
Chúa
phán bảo cùng người phụ nữ rằng: "Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực
khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và
chồng sẽ trị ngươi".
Người
lại phán bảo Ađam rằng: "Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất
bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà
ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng.
Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì
ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất".
Và
Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Thiên
Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.
Và
Người phán: "Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác.
Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời
đời".
Và
Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất
ra.
Ðó
là Lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv. 89, 2, 3-4, 5-6, 12-13
Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ
trải qua đời kia. (1)
Xướng
1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra,
tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.
2)
Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm
thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy
trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
3)
Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh
tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. -
Ðáp.
4)
Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn
ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương
tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 12, 26-32; 13, 33-34
"Giêroboam đúc hai con bò
vàng".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Giêroboam nói
trong lòng rằng: "Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này
lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ
mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam". Bấy giờ,
ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng:
"Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần
minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và
một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để
thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong
dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là
ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ
để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel,
ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những
nơi cao.
Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những
không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao
hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và
xoá khỏi mặt đất.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 19-20. 21-22.
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng tôi đã phạm tội cũng
như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ
chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.
- Ðáp.
2) Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb,
và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy
hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ
mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu
trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
* * *
Alleluia: Tv. 94, 8ab
Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8,1-10
"Họ ăn no nê".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Trong những ngày ấy, dân chúng theo
Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo:
"Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có
gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ
xa mà đến".
Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang
địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".
Và người hỏi các ông: "Các con có
bao nhiêu bánh?"
Các ông thưa: "Có bảy chiếc".
Người truyền dân chúng ngồi xuống đất,
rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân
phát.
Các ông chia cho dân chúng.
Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.
Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền
cho các ông phân phát.
Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm
những miếng còn thừa lại được bảy thúng.
Số người ăn độ chừng bốn ngàn.
Rồi Người giải tán họ, kế đó Người
cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.
Ðó
là Lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ðức
Giêsu làm phép hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ðức Giêsu xót thương dân:
Thương dân ngu dốt, thiếu hiểu biết, thương dân nghèo, bần cùng, thương dân bệnh
tật khổ đau. Cuộc đời Ðức Giêsu tất bật chỉ vì những lo toan cho dân.
Cầu
Nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã luôn yêu thương lo lắng cho chúng con. Chúa
không cam lòng khi thấy chúng con thiếu thốn cực khổ. Tình yêu dâng cao khiến
Chúa sẵn sàng tự hiến, tự hủy hoàn toàn để đem hạnh phúc cho chúng con. Như cơm
bánh nuôi đám dân nghèo. Mình Máu Chúa cũng đã trở nên lương thực nuôi sống
linh hồn chúng con. Xin cho chúng con biết dùng lương thực thiêng liêng để làm
vững mạnh tâm hồn chúng con. Amen.
Suy Niệm:
Lòng
quảng đại của Chúa
Tin
Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ
Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy
chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng
kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi
đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn,
trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào những ý
đồ ích kỷ, vụ lợi.
Một
khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật của
chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một
cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém
đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cái và mấy con
cá nhỏ. Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục
phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các
kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ
được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như "cầm lấy bánh", "dâng lời
tạ ơn", "bẻ ra, trao cho các môn đệ". Như vậy, phải hiểu Bí tích
Thánh Thể là một hành vi cứu giúp người đói khát, là sự nối dài hành vi quảng đại
của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã
cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ.
Ngày
hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm
lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát
triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế
hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng
cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các
Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn
phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối
phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu
không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến
trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình
và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi
ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy
chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn
cỗi của riêng chúng ta.
Xin
cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung
quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
Suy niệm:
Thân xác có những nhu cầu cơ bản của nó.
Nó biết đói, biết khát, biết mệt và có thế bị xỉu vì kiệt sức.
Khi Đức Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi dân,
ngài cho thấy mình chẳng hề duy linh hay duy tâm chút nào.
Nó biết đói, biết khát, biết mệt và có thế bị xỉu vì kiệt sức.
Khi Đức Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi dân,
ngài cho thấy mình chẳng hề duy linh hay duy tâm chút nào.
Tin mừng Mác-cô kể lại hai phép lạ bánh hóa nhiều.
Lần đầu năm cái bánh và hai con cá cho năm ngàn người (Mc 6, 32-44).
Bài Tin mừng hôm nay nói đến một phép lạ bánh hóa nhiều khác,
bảy cái bánh và mấy con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn.
Lần đầu năm cái bánh và hai con cá cho năm ngàn người (Mc 6, 32-44).
Bài Tin mừng hôm nay nói đến một phép lạ bánh hóa nhiều khác,
bảy cái bánh và mấy con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn.
Lần đầu Đức Giêsu chạnh lòng thương
vì dân chúng bơ vơ như chiên không người chăn dắt (Mc 6, 34).
Lần này ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ không có gì ăn (Mc 8,1).
Đức Giêsu đã giải thích cặn kẽ các lý do khiến ngài thương họ :
vì họ đã ở với ngài ba ngày rồi mà không có gì ăn (c.2),
vì ngài sợ họ sẽ bị xỉu dọc đường nếu nhịn đói mà về nhà,
vì có một số người từ xa đến (c.3).
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến sức khỏe của đám đông.
Họ đã theo ngài, ở với ngài và được ăn bánh tinh thần trong mấy ngày qua.
Nhưng họ cũng cần tấm bánh vật chất cho thân xác.
Có thực mới vực được đạo.
Chính Đức Giêsu, chứ không phải các môn đệ, đã nhận ra điều ấy.
Ngài gọi họ lại để nhắc họ về nhu cầu của đám đông (c.1).
vì dân chúng bơ vơ như chiên không người chăn dắt (Mc 6, 34).
Lần này ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ không có gì ăn (Mc 8,1).
Đức Giêsu đã giải thích cặn kẽ các lý do khiến ngài thương họ :
vì họ đã ở với ngài ba ngày rồi mà không có gì ăn (c.2),
vì ngài sợ họ sẽ bị xỉu dọc đường nếu nhịn đói mà về nhà,
vì có một số người từ xa đến (c.3).
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến sức khỏe của đám đông.
Họ đã theo ngài, ở với ngài và được ăn bánh tinh thần trong mấy ngày qua.
Nhưng họ cũng cần tấm bánh vật chất cho thân xác.
Có thực mới vực được đạo.
Chính Đức Giêsu, chứ không phải các môn đệ, đã nhận ra điều ấy.
Ngài gọi họ lại để nhắc họ về nhu cầu của đám đông (c.1).
Bảy cái bánh được Đức Giêsu bẻ ra và trao cho các môn đệ.
Các môn đệ lại làm cử chỉ như vậy cho đám đông.
Bẻ ra và trao đi là những hành vi của bác ái, chia sẻ.
Bẻ ra là chấp nhận bị vỡ, chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Trao đi là chấp nhận mất mát, chẳng còn giữ lại gì cho mình.
Nhưng chỉ khi dám bẻ ra và trao đi mới đem lại hạnh phúc dư dật.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ các kitô hữu làm mỗi ngày,
khi họ dám bẻ ra và trao đi tấm bánh của đời họ.
Họ bỗng thấy mình sung mãn khi người khác được no nê.
Các môn đệ lại làm cử chỉ như vậy cho đám đông.
Bẻ ra và trao đi là những hành vi của bác ái, chia sẻ.
Bẻ ra là chấp nhận bị vỡ, chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Trao đi là chấp nhận mất mát, chẳng còn giữ lại gì cho mình.
Nhưng chỉ khi dám bẻ ra và trao đi mới đem lại hạnh phúc dư dật.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ các kitô hữu làm mỗi ngày,
khi họ dám bẻ ra và trao đi tấm bánh của đời họ.
Họ bỗng thấy mình sung mãn khi người khác được no nê.
Sắp đến ngày lễ Valentine, lễ hội của những người yêu nhau.
Xin Thiên Chúa là Tình Yêu viết hoa
giúp các bạn trẻ biết chấp nhận những đòi hỏi và hy sinh của tình yêu
để yêu đối với họ thực sự là bẻ ra và trao đi.
Xin Thiên Chúa là Tình Yêu viết hoa
giúp các bạn trẻ biết chấp nhận những đòi hỏi và hy sinh của tình yêu
để yêu đối với họ thực sự là bẻ ra và trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu,
Xin cho con biết nhậy cảm trước nỗi đau của con người,
những trẻ em bất hạnh, những phụ nữ bị bạo hành,
những người trẻ mất niềm hy vọng, những người già neo đơn.
Trong cơn khủng hoảng hiện nay trên toàn cầu,
có bao người thất nghiệp, bao người lâm cảnh đói ăn.
Xin cho con biết nhậy cảm trước nỗi đau của con người,
những trẻ em bất hạnh, những phụ nữ bị bạo hành,
những người trẻ mất niềm hy vọng, những người già neo đơn.
Trong cơn khủng hoảng hiện nay trên toàn cầu,
có bao người thất nghiệp, bao người lâm cảnh đói ăn.
Xin cho tim con chạnh lòng thương như Chúa,
dám chấp nhận sống nghèo để giúp nhiều người thoát cảnh nghèo,
dám chấp nhận liên đới và chia sẻ để thế giới được công bằng hơn.
Ước gì khi thế giới ngưng chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang,
khi nước giàu chia sẻ cho nước nghèo,
khi bất công và thù hận không còn thống trị,
chúng con được hạnh phúc vì thấy Nước Chúa đã gần bên.
dám chấp nhận sống nghèo để giúp nhiều người thoát cảnh nghèo,
dám chấp nhận liên đới và chia sẻ để thế giới được công bằng hơn.
Ước gì khi thế giới ngưng chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang,
khi nước giàu chia sẻ cho nước nghèo,
khi bất công và thù hận không còn thống trị,
chúng con được hạnh phúc vì thấy Nước Chúa đã gần bên.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
11/02/12 THỨ BẢY TUẦN 5 TN
Đức Mẹ Lộ Đức. Ngày Quốc tế Bệnh
nhân
Mc 8,1-10
*****
THẾ GIỚI KHÔNG CÓ NGƯỜI ĐÓI
“Thầy chạnh lòng thương đám đông vì họ ở
luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn.” (Mc 8,2)
Suy niệm: Đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu đã ba ngày nay để
nghe Ngài giảng. Có lẽ thời gian kéo dài vượt quá dự kiến, chút lương khô đi đường
cũng đã cạn. Họ đói. Thế là Chúa lại chạnh lòng thương và Ngài ngưng công việc
giảng dạy để lo chuyện ăn uống cho họ trước khi giải tán họ về nhà. Chúa không
muốn cho ai phải đói; vì thế “cho kẻ đói ăn” để cho mọi người có điều kiện sống
xứng hợp với nhân phẩm, đó là công việc của lương tri và còn là mệnh lệnh của
tình bác ái nữa.
Mời Bạn: Mới đây Hội nghị Quốc Tế An Ninh Lương Thực cho biết cứ
năm giây có một trẻ em chết đói. Tổ chức Lương Nông Quốc Tế vừa công bố số người
đói trên thế giới vừa giảm xuống dưới một tỷ người trong năm 2010 dự kiến sẽ lại
tăng lên trong năm 2012 này. Nước ta chưa giàu, vẫn còn đó biết bao người cơm
không đủ ăn áo không đủ mặc, tiền không có để đi học; thế mà vẫn có những người
ăn uống xa xỉ phung phí; có quan chức “đánh bạc triệu đô,” đánh cờ tướng ăn
thua vài tỷ bạc một ván. Sự chông chênh đó có làm bạn nhức nhối? Chung quanh bạn
có ai đang túng thiếu hơn bạn mà bạn chưa tìm cách chia sẻ không?
Chia sẻ: Làm thế nào để việc bạn cho đi không trở thành việc của kẻ
trên bố thí cho kẻ dưới, hoặc cho tay này lấy lại tay kia, nhưng là một sự chia
sẻ trong yêu thương, cảm thông và tôn trọng?
Sống Lời Chúa: Luôn dành một khoản trong số thu nhập của bạn để
dành vào việc giúp những ai lầm than cơ nhỡ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con biết nhận ra khuôn mặt của Chúa
nơi những anh chị em đói nghèo bất hạnh.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Đức Mẹ Lộ-Đức, Ngày Quốc Tế Bệnh Nhân;
1V 12, 26-32;13,3334; Mc 8, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy chạnh lòng thương
đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải
tán, để họ nhịn đói mà về, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những
người từ xa đến.” (Mc 8,2-3).
Lòng thương cảm của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rất nhiều lần và rất nhiều nơi,
Chúa Giêsu chạnh lòng thương con người, đặc biệt đối với những con người đau khổ,
bệnh tật và đang sống cuộc sống bị thiệt thòi, bị bỏ rơi. Trong hai câu này
chúng ta thấy Chúa ân cần quan tâm đến đám đông: khi họ đã ba ngày liền, đi
theo Chúa, không có gì ăn, sợ họ về xỉu dọc đường và trong đó có nhiều người từ
xa đến. Trong đời sống đạo của mỗi chúng ta cũng phải tập cho được đức tính biết
quan tâm đến mình và người khác cũng như những biến cố xãy ra cho chính mình hoặc
những người chung quanh chúng ta. Nhất là quan tâm đến người khác. Khi chúng ta
có quan tâm đến, chúng ta mới thấy được những hoàn cảnh của người anh em, mới
đánh động, thúc bách tâm trí chúng ta có hành động, đề chúng ta phải
biết làm những gì và làm bằng cách nào cho người anh em.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-02
ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Lộ Đức (Lourdes )
là một tỉnh nhỏ khoảng 6000 dân nằm giữa thung lũng Pyrênê, gần suối Gave. Hôm ấy
là ngày 11 tháng 2 năm 1858. Trời lạnh lẽo. Vào buổi trưa, Bernadetta, cô gái
14 tuổi vui tươi, thiếu ăn và quê mùa cùng với mấy người bạn đi lượm củi khô ở
bờ suối Gave.
Bỗng một bà mặc đồ trắng hiện ra với cô, trên một
tảng đá bao quát cả hang Massabielle. Vừa sợ lại vừa vui, cô lần chuỗi và không
dám tới gần theo lời Bà mời.
Chẳng ai muốn tin cô. Bị rắc
rối chính cha mẹ cô không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng có một sức hấp
dẫn lạ kỳ nào đó. Cô trở lại hang đá. Các cuộc thị kiến vẫn tiếp diễn. Bà lạ
nói chuyện và kêu gọi cầu nguyện, rước kiệu và xây dựng một đền thờ tại đây.
Các bậc khôn ngoan chống đối.
Dân chúng lại xúc động. Công an thẩm vấn Bernadetta. Cô bình thản trả lời và không hề nao
núng trước những lời đe dọa. Cô cũng không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của
người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng bất bình. Nhưng Bernadetta vẫn khiêm tốn
lịch sự .
Ngày 25 tháng 2, một đoàn người cảm kích theo cô
sau khi cầu nguyện, Bernadetta đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rổi
quì xuống. Theo lệnh bà lạ, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt
lên. Cứ 24 tiếng đồng hồ là có khỏang 120.000 lít nước chảy ra.
Ông biện lý cho gọi Bernadetta tới. Ông chế giễu,
tranh luận và đe dọa cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: - Cô hứa với tôi là sẽ
không tới hang đá nữa chứ ?
Nhưng Bernadetta bình tĩnh trả lời cách rõ ràng.
- Thưa ông, cháu không hứa như vậy.
Cha sở lo âu, Ngài cấm các linh mục không được tới
hang. Bernadetta tới gặp Ngài và nói: - Bà lạ nói: Ta muốn gặp người ta rước kiệu
tới đây.
Ngài liền quở trách và gằn từng tiếng: - Con hãy
nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những
buổi rước kiệu và một nhà nguyện à ? Trước hết bà phải cho biết tên là gì và
làm một phép lạ đã chứ.
Làm xong nhiệm vụ, Bernadetta bình thản ra về.
Đã có những phép lạ nhãn tiền: một người thợ đẽo
đá mù lòa đã thấy được ánh sáng, một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục, báo
chí công kích dữ dội và cho rằng: đó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn
lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước. Một em bé hai tuổi bệnh
hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà
hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: - Nó chết rồi.
Người mẹ chỗi dậy. Không nói một lời bào, bà ôm
đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng
cho rằng bà đã điên lên vì buồn khổ. Tắm em bé trong 15
phút xong, bà ẵm em về nhà. Sáng hôm sau, em hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực
chuyện lạ này.
Bernadetta vẫn giản dị vui
tươi tự nhiên. Hàng ngày cô trở lại hang đá.
Ngày 25 tháng 3 cô quì cầu
nguyện và khuôn mặt bỗng rỡ nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt:
- Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội
Vài phút sau, lời Đức Trinh
Nữ đã được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu
khẩn: - Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ
chạy đến cùng Đức Mẹ.
Bernadetta hỏi một người chị
bạn thân: - Vô nhiễm thai là gì nhỉ ?
Và cũng không bao giờ cô
phát âm đúng chính xác từ ngữ này.
Luôn giữ mình khiêm tốn,
Bernadetta đã ẩn mình trong một tu viện. Lúc 3 giờ chiều ngày 16 tháng năm
1879, cô từ trần, được 36 tuổi.
Dòng nước ở hang Massablle
vẫn chảy. Người ta lũ lượt tuôn đến cầu nguyện và không biết bao nhiêu ơn lành
Đức Mẹ đã ban cho các tâm hồn thiết tha cầu khẩn. Đức Giáo hoàng Leo XIII cho
phép mừng việc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ đức, vào ngày 11 tháng 2, để ghi nhớ 18 lần
mẹ đã hiện ra với Bernadetta, kể từ ngày 11 tháng 2 tới ngày 16 tháng 7 năm
1858.
Năm 1907, Đức Piô X cho
phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này. Cùng với Giáo hội, chúng ta kính nhớ biến cố
Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và đừng quên chạy đến Mẹ là nguồn suối chảy tràn muôn
ơn phúc.
(Daminhvn.com)
+++++++++++++++++
11 Tháng Hai
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức,
một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette
Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để
nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa
mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi
vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp.
Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành,
nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được
đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều
cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette
không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó
mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt
củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô
tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng
mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm
cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy,
Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng
trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn
lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân
côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi
người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi
ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì
xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình
trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được,
Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu
nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ
Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là
lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào
ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp
Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ
hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách
hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó,
dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để
đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một
cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu
nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện
ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không
phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi
với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn
luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Bảy Tuần V TN2
Bài
đọc: Gen 3:9-24; I Kgs 12:26-32; Mk 8:1-10.
1/
Bài đọc I (năm lẻ):
9 Đức Chúa là Thiên
Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu?"
10 Con người thưa:
"Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên
con lẩn trốn." 11 Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng?
Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"12 Con người thưa:
"Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con
ăn." 13 Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm gì thế?"
Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn."
14 Đức Chúa là Thiên
Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất
trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất
mọi ngày trong đời mi. 15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống
người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
16 Với người đàn bà,
Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén;
ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ
thống trị ngươi."
17 Với con người, Chúa
phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng:
"Ngươi đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải
cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. 18 Đất đai sẽ trổ sinh
gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. 19 Ngươi sẽ phải đổ mồ
hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy
ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất." 20 Con người đặt tên
cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh.
21 Đức Chúa là Thiên
Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ. 22 Đức Chúa là Thiên
Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều
thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và
được sống mãi." 23 Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất
đai, từ đó con người đã được lấy ra. 24 Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ
giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh.
2/
Bài đọc I (năm chẵn):
26 Vua Gia-róp-am nghĩ
bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà Đa-vít mất thôi! 27 Nếu dân này cứ lên tế
lễ tại Đền Thờ Đức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, thì lòng họ lại quay về với chủ mình
là Rơ-kháp-am vua Giu-đa, và họ sẽ giết ta để trở về với Rơ-kháp-am vua
Giu-đa." 28 Sau khi quyết định, vua làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân:
"Các ngươi lên Giê-ru-sa-lem như thế là đủ rồi! Này, Ít-ra-en, Thiên Chúa
của ngươi đây, Đấng đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập." 29 Vua đặt một tượng ở
Bết Ên, còn tượng kia ở Đan.
30 Đó là nguyên cớ gây
ra tội, vì dân đi tới mãi tận Đan để thờ một trong hai tượng đó.
31 Vua thiết lập những
nơi cao và đặt các tư tế lấy từ đám thường dân, không thuộc hàng con cháu
Lê-vi. 32 Vua Gia-róp-am còn lập một lễ vào ngày mười lăm tháng tám, giống như lễ vẫn
mừng ở Giu-đa, và vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm như thế tại Bết Ên mà dâng lễ
tế cho các con bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở Bết Ên các tư tế để phục vụ tại
các nơi cao mà vua đã thiết lập.
3/
Phúc Âm:
1 Trong những ngày ấy,
lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su gọi các môn đệ lại
mà nói: 2 "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi
mà không có gì ăn! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường.
Trong số đó, lại có những người ở xa đến."
4 Các môn đệ thưa Người:
"Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?"
5 Người hỏi các ông:
"Anh em có mấy chiếc bánh? " Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc."
6 Người truyền cho họ
ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra,
trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông.
7 Các ông cũng có mấy
con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn cả cá ra.
8 Đám đông đã ăn và được
no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ!
9 Mà đám đông có khoảng
bốn ngàn người. Người giải tán họ.
10 Lập tức, Đức Giê-su
xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đan-ma-nu-tha.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lợi
ích và tai hại của thức ăn
Có
những thức ăn nuôi dưỡng và làm cho con người được sống khỏe; có những thức ăn
gây bệnh (cao đường, cao máu, cao mỡ) và làm con người phải chết. Một con người
bình dân sẽ không biết những hậu quả của thức ăn, nếu không được những nhà
chuyên môn cho biết hậu quả của nó. Để sống khỏe, con người cần tuân theo sự chỉ
dẫn của các nhà chuyên môn. Nếu ngoan cố ăn bậy theo ý mình, con người sẽ phải
lãnh hậu quả tai hại của nó.
Các
Bài Đọc hôm nay liên quan đến những lợi ích và tai hại của thức ăn. Trong Bài Đọc
I, năm lẻ, cả ma quỉ và tổ tiên con người phải lãnh nhận các hậu quả trầm trọng,
vì đã bất tuân sự chỉ dẫn của Thiên Chúa để ăn trái của Cây Biết Thiện Ác.
Trong
Bài Đọc I, năm chẵn, vua Jeroboam không chịu nghe lời Thiên Chúa để được chúc
lành thịnh vượng, nhà vua có kế hoạch riêng của mình để được phồn thịnh cho dù
phải phản bội Thiên Chúa.
Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê. Vì của ăn này, tất cả
dân chúng trở nên mạnh khỏe và không bị ngất xỉu dọc đường.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Hình phạt của tội lỗi
1.1/
Sự thật được tiết lộ: Mọi hành động của con người đều cho hậu quả tốt hoặc xấu.
Hậu quả của việc bất tuân Thiên Chúa qua việc ăn trái cấm làm con người sợ hãi,
xấu hổ, và trốn tránh sự thật. Sớm hay muộn, con người cũng phải đối diện với sự
phán xét của Thiên Chúa.
Khi
được hỏi vì lý do tại sao phạm tội, con người không dám nhận trách nhiệm, nhưng
đổ lỗi vòng quanh cho người khác: Ông Adong đổ lỗi cho Bà Evà, và còn ám chỉ phần
lỗi của Thiên Chúa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con.” Bà Evà đổ lỗi cho con rắn
"Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn." Nếu Bà vâng lời Thiên Chúa, con
rắn đâu cám dỗ được. Con người có tự do hành động; và vì thế, con người phải chịu
trách nhiệm về hành động của mình.
1.2/
Thiên Chúa ra hình phạt cho tất cả:
(1)
Hình phạt của Con Rắn: Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm
điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã
thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống
đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."” Mối thù giữa ma quỉ và
con người, giữa dòng giống ma quỉ và dòng giống con người. Mối thù này được chiến
thắng bởi Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
(2)
Hình phạt của Bà Evà: Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải
cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi
sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi." Điều truyền này nói
lên vai trò gia trưởng trong gia đình của người đàn ông.
(3)
Hình phạt của Ông Adong: Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi và sẽ trổ sinh gai góc
cho ngươi. Con người phải làm việc vất vả mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng
ăn từ đất mà ra; vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ đuổi con người ra khỏi vườn Eden.
Hình phạt nặng nhất là sự chết: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”
1.3/
Con người bị ngăn cản không cho đụng đến Cây Trường Sinh: Trình thuật hôm nay củng
cố sự kiện có 2 cây Thiên Chúa đặt chính giữa vườn: Cây Trường Sinh và Cây Biết
Thiện Ác. Vì con người đã ăn trái cây của Cây Biết Thiện Ác, nên họ biết điều
thiện và điều ác. Nhiều người giả sử nếu Ông Bà ăn quả của Cây Trường Sinh, con
người sẽ được sống mãi. Để ngăn cản không cho con người ăn trái cây này, Thiên
Chúa phán: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều
thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái Cây Trường Sinh mà ăn và
được sống mãi. Người trục xuất con người, và ở phía Đông vườn Eden, Người đặt các
thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến Cây Trường Sinh.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Nếu dân này cứ lên tế lễ tại Đền
Thờ Đức Chúa ở Jerusalem, thì lòng họ lại quay về với chủ mình là Rehoboam vua
Judah mất thôi.
2.1/
Lý do chính trị: Khi con người được sống trong danh vọng quyền bính, họ không
bao giờ thỏa mãn với những gì đang sở hữu; nhưng luôn có tham vọng bành trướng
thế lực. Jeroboam đã quên hẳn lý do nhà vua được cai trị vương quốc của mình là
Thiên Chúa đã giật 10 chi tộc miền Bắc ra khỏi tay của vua Solomon và trao quyền
điều khiển vào tay nhà vua, khi ông vẫn còn là một thợ xây cất của Solomon.
Thiên Chúa cũng đã giao ước với ông: "Nếu ngươi vâng nghe tất cả những điều
Ta truyền cho ngươi và bước đi theo đường lối của Ta, thi hành điều chính trực
trước nhan Ta mà tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta như David tôi tớ Ta
đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền vững như Ta đã
xây cho David, và Ta sẽ trao Israel cho ngươi."
(1)
Mối lo sợ của nhà vua: Khi thấy dân chúng của mình cứ tuôn về Jerusalem mỗi
ngày lễ để thờ phượng Thiên Chúa và đóng góp ngân quĩ cho Đền Thờ theo như Lề
Luật truyền, vua Jeroboam nghĩ bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà
David mất thôi! Nếu dân này cứ lên tế lễ tại Đền Thờ Đức Chúa ở Jerusalem, thì
lòng họ lại quay về với chủ mình là Rehoboam vua Judah, và họ sẽ giết ta để trở
về với Rehoboam vua Judah."
(2)
Quyết định chính trị điên rồ của nhà vua: Để giải quyết mối lo sợ hão huyền,
vua quyết định cho làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: "Các
ngươi lên Jerusalem như thế là đủ rồi! Này, Israel, Thiên Chúa của ngươi đây, Đấng
đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập." Nhà vua cho đặt hai tượng bò vàng: một ở
đàng đầu tại Dan, giáp ranh giới với Syria miền Bắc, một ở đàng chân tại Bethel
giáp ranh giới với vương quốc Judah miền Nam.
2.2/
Thay đổi tôn giáo: Vua biết không thể tiêu diệt tôn giáo, nên hướng lòng dân
vào tà thần. Sở dĩ dân chúng tin tưởng những gì vua nói, vì truyền thống
Do-thái tin Thiên Chúa luôn nói với họ qua các nhà lãnh đạo của dân chúng. Bên
cạnh việc đúc hai thần bò vàng, vua Jeroboam còn: "đặt các tư tế lấy từ
đám thường dân, không thuộc hàng con cháu Lêvi... lập một lễ vào ngày mười lăm
tháng tám, giống như lễ vẫn mừng ở Judah, và vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm
như thế tại Bethel mà dâng lễ tế cho các con bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở
Bethel các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà vua đã thiết lập." Mục đích
của những hành động này là vua muốn triệt hạ tận gốc những thói quen thờ phượng
của dân chúng, để tiện bề cho việc điều khiển.
Nhưng
gieo gió sẽ gặt bão, sóng gió sẽ xảy tới dồn dập cho triều đại của nhà vua và
các người kế vị sau này; không những thế, dân chúng cũng chịu thiệt hại vì những
quyết định điên rồ của nhà vua.
3/ Phúc Âm: Chúa làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê.
3.1/
Phản ứng của Chúa Giêsu và của các môn đệ:
(1)
Chúa Giêsu biết mọi nhu cầu của con người: phần hồn cũng như phần xác. Những
chi tiết của trình thuật nói lên sự quan tâm và lòng thương xót của Ngài:
"Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà
không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc
đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến."
(2)
Phản ứng của các tông-đồ rất thực tế: Trong nơi hoang vắng này, làm sao tìm được
bánh cho bằng ấy người? Lấy tiền đâu mà mua nhiều bánh như vậy? Đó là trách nhiệm
của họ, đâu phải là của chúng ta! Rất nhiều người lãnh đạo phần hồn dựa vào những
lý do như thế để từ chối giúp đỡ giáo dân về phần xác; nhưng bổn phận bác ái là
cho hết mọi người, đâu trừ những nhà rao giảng. Hơn nữa, nhiều người tin vào
Chúa không do những lời giảng cao siêu, nhưng do tấm lòng thương xót của người
rao giảng.
3.2/
Phép lạ hóa bánh ra nhiều: Cần lưu ý có hai phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin
Mừng của Marcô:
(1)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5,000 người (Mk
6): Tất cả 4 Thánh-ký đều tường thuật phép lạ này (Mt 14:15-21, Mk 6:34-44, Lk
9:12-17, Jn 6:1-14).
(2)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 7 chiếc bánh và vài con cá để nuôi 4,000 người: Chỉ
có trong Marcô trong trình thuật hôm nay, và được nhắc lại trong Mt 16:10.
-
Những điều giống nhau trong 2 phép lạ: Công thức chúc lành như khi lập BT Thánh
Thể trong Bữa Tiệc Ly: “Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra,
trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông.” Lời
thắc mắc của các tông-đồ: "Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra
bánh cho họ ăn no?"
-
Những điều khác nhau trong 2 phép lạ: Số người hiện diện, số bánh, và số cá. Số
bánh còn dư lại: 7 giỏ cho 4,000 và 12 giỏ cho 5,000. Địa điểm phép lạ xảy ra:
gần Capernaum, vùng của Do-thái, cho 5,000; và vùng Decapolis, lãnh thổ của Dân
Ngoại, cho 4,000.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tuân theo sự chỉ dẫn của
Thiên Chúa và các nhà chuyên môn, vì có rất nhiều điều chúng ta không biết, hay
vượt quá sự hiểu biết của con người chúng ta.
- Vâng lời những lệnh truyền của Thiên
Chúa không hạn chế sự tự do của chúng ta; nhưng giúp chúng ta đạt những hậu quả
tốt, và vượt qua những cám dỗ của ma quỉ và thế gian.
- Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành và thấu suốt
mọi sự. Chúng ta cần tin tưởng tuyệt đối và tuân giữ những gì Ngài truyền. Vì
không một ai trên đời này khôn ngoan hơn Thiên Chúa, chúng ta phải tuân theo những
Lời Ngài dạy hơn là những lời của người đời hay của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 11
Đức Maria Lộ Đức
Ngày quôc tế cầu cho bệnh nhân
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Maria cầu
nguyện. Trước khi sinh Đức Giêsu, chúng ta đã thây Mẹ đã sẵn sàng để đón nhận lời
thiên thần. Khi sinh con, Mẹ đã cẩn thận gìn giữ tâ't cả biến cô' và suy niệm
trong lòng"(Lc 2,19). Đức Maria, con người đầu tiên, đã cầu nguyện với
Chúa Cha ngang qua Con của mình.
Không có gì phải ngạc nhiên, khi Giáo hội
trưng ra cho các tín hữu một gương mặt đức tin như mẫu gương. Làm thế nào có thể
dõi theo một mẫu gương quá âm thầm như thê? Chỉ vì Đức Maria không nói gì nhiều
trong Phúc Am. Một câu hay hai, vào lúc truyền tin, nơi tiệc cưới Cana... Người
ta còn muôn biết nhiều hơnề.. Nhưng ngay lúc truyền tín, Đức Maria
đã ra khỏi ưu tư của mìnhẵVà một lời cầu nguyện đã đến trên môi miệng
của Mẹ: bài ca vĩ đại Magnificat. Một thánh thi đầy tình yêu dâng lên
tình yêu, một lời cầu nguyện nói lên việc Mẹ hoàn toàn kết họp với ý muôn của
Chúa Cha.
Đức Maria mời gọi chứng ta cầu nguyện
cùng vói Mẹ. Đó là điều Phúc Âm đã nói, đó cũng là điều Mẹ luôn luôn nói khi hiện
ra. Với Bernadette ở Lộ Đức: "Hãy cầu nguyện với Thiên Chúa cho các tội
nhân" và "Hãy đi nói với các linh mục, họ nên đi kiệu đến đây và xây
một nhà nguyện tại đây." Trong bất cứ lần hiện ra nào, lời kêu gọi vẫn vang
lên một cách khẩn câp.
Anne de
Lỉllỉac — Pèlerin
Đức Mẹ Hiện Ra Tại Lộ Đức (Lourdes ).
Năm 1858
Lộ đức là một thành phố nhỏ thuộc miền tây
nam nước Pháp. Lộ đức ngày nay được nhiều người trên thế giới biết đến là nhờ
cuộc hiện ra của Đức Mẹ Chúa Trời với một em nhỏ cách nay hơn 150 năm.
1. Sự tích hiện ra: Hôm đó là ngày 11 tháng 2 năm
1858, trời mùa Đông ở miền núi, lạnh kinh khủng. Bernadette Soubirous
cùng với 2 bạn khác ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi.
Bernadette lúc đó 15 tuổi mà chưa biết đọc biết viết, vì nhà nghèo, em phải làm
việc để phụ vào với gia đình.
Sau khi vào tu Dòng, Benadette được học và cô
tả lại trong lá thư trình bề trên như sau: "Hôm
ấy tôi đi kiếm củi với 2 đứa bạn ở bờ sông Gave. (Khi ra tới bờ sông, em kia đi xa hơn,
còn Benađette tìm củi quanh hang Massabiel. Bất ngờ), tôi nghe có tiếng động. Tôi ngoái
nhìn về phía đồng cỏ. Không thấy cây cối rung động gì cả. Tôi ngẩng đầu nhìn
lên hang. Tôi thấy một Bà mặc áo trắng (bà
còn trẻ lắm, chừng 16, 17 tuổi, hai tay chắp lại, đeo tràng hạt trên cánh tay
phải. Bà đẹp vời Benadette
tiến lại gần hơn và mỉm cười với em). Áo
bà trắng nhưng thắt lưng lại xanh, và mỗi bên bàn chân có một bông hồng vàng. Mầu
chuỗi hạt của Bà cũng vàng nữa.
Khi thấy như vậy, tôi vội chùi mắt vì tưởng
mình lầm. Rồi thọc tay vào áo, tôi thấy có chuỗi hạt. Tôi muốn giơ tay làm dấu
thánh giá, nhưng không đưa nổi tay lên trán. Tay tôi rớt xuống. Còn hình Bà kia
thì lại làm dấu thánh giá. Tay tôi run quá. Tôi thử làm dấu lại và làm được.
Tôi bắt đầu lần chuỗi. Hình kia cũng lần chuỗi của Bà, nhưng không hề máy môi. Tôi lần chuỗi xong thì hình kia cũng biến mất tức thì.
(Khi gặp lại hai đứa bạn kia )"Tôi hỏi
hai đứa không thấy gì sao? Chúng bảo không. Và chúng hỏi tôi thấy gì vậy, và buộc
tôi phải nói cho chúng nghe. Tôi kể rằng tôi đã thấy một Bà mặc áo trắng, nhưng
tôi không biết Bà đó là gì, và không cho chúng được kể lại với ai. Chúng bảo
tôi không nên trở lại đó nữa. Tôi bảo không. Đến ngày Chúa nhật, tôi trở lại đó
lần thứ hai vì cảm thấy bị thúc đẩy ở trong lòng.
Đến lần thứ ba, Bà kia mới nói với tôi. Bà hỏi
tôi có bằng lòng trở lại đây trong 15 ngày liên tiếp không. Tôi bằng lòng. Bà bảo
tôi phải về nói với các linh mục xây một nhà thờ tại chỗ này. Rồi Bà bảo tôi phải
đi uống nước ở suối. Tôi không thấy có suối nào cả, nên tôi ra đi uống nước ở
sông Gave. Bà bảo tôi không phải ở đó, và Bà lấy ngón tay chỉ cho tôi chỗ suối
nước. Tôi đến, nhưng chỉ thấy một chút nước dơ. Tôi thò tay xuống nhưng không múc
được. Tôi liền cào đất ra, và tôi đã múc được nước, nhưng tôi lại hất đi ba lần,
đến lần thứ bốn tôi mới dám uống. Thế rồi hình kia biến đi và tôi cũng ra về.
Trong 15 ngày liên tiếp, tôi đã trở lại nơi
đó. Ngày nào tôi cũng thấy hình kia hiện ra, trừ ngày thứ Hai và thứ Sáu. Bà
nói đi nói lại với tôi rằng:" Tôi phải thưa các linh mục xây cho Bà một đền
thờ tại đây. Tôi phải đến rửa ở suối nước, và tôi phải cầu nguyện cho tội nhân
trở lại.
Nhiều lần tôi đã hỏi Bà là ai? Nhưng Bà chỉ
cười. Rồi bỏ tay thõng xuống, Bà ngước mắt lên trời và bảo tôi Bà là Đấng đầu
thai Vô nhiễm.
Trong khoảng thời gian 15 ngày đó, Bà nói với
tôi 3 điều bí mật, nhưng bắt tôi giữ kín, không được nói với ai, và cho đến nay
tôi vẫn trung thành giữ như vậy".
2. Sứ điệp Đức Mẹ muốn nhắn nhủ con cái Người qua Benađette
là:
"Hãy cầu nguyện cho kẻ
có tội ăn năn trở lại"
"Hãy nói với các linh mục xây nhà thờ
kính Mẹ ở đây, và để dân chúng đến đây rước kiệu"
Đức Mẹ đã nói với Bênadeta khi hiện ra với cô là: " Mẹ không hứa cho con hạnh
phúc đời này, nhưng là hạnh phúc đời sau.
3. Ta là Đấng Vô nhiễm: Khi linh mục xứ muốn biết tên Bà,
Bênađêta đã hỏi thì ngày 25 tháng 3 năm 1858, Đức Mẹ xưng mình là: "Ta là Đấng Vô nhiễm Nguyên tội".
Nhưng Bênađêta không hiểu. Khi cô nói lại với cha xứ ngài mới nhận ra bà lạ đó
là Đức Mẹ hiện ra.
Để chứng tỏ Đức Mẹ hiện ra thật, Đức Mẹ
bảo Bênađêta bới đất chỗ cô qùy, một
giòng nước bắt đầu chảy racho cô
uống và sau đó chữa mọi thứ bệnh phần
hồn phần xác cho những người tin tưởng đến đây cầu xin cùng Đức Mẹ.
Sau này, đức giám mục giáo phận đã gửi
Bênađêta đi tu tại Nevers, cách
xa Lộ đức cả mấy ngày đường xe.
Bênađêta sống rất khiêm tốn ở đây. Cô bị nhiều
xỉ nhục nơi các chị em dòng, bị nhiều bệnh đau đớn cho tới chết, nhưng lúc nào
Tràng hạt Mân côi cũng là niềm an ủi của cô. Chính kinh Mân côi đã là đường
lối nên thánh của cô.
Lời cuối cùng cô thốt lên trước khi nhắm mắt
xuôi tay là: Thánh Maria Đức Mẹ Chua Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi
nay...
4. Lộ đức ngày nay đã trở nên một trung tâm hành
hương lớn nhất thế giới. Hàng năm có tới 4 triệu người đến kính viếng và xin ơn
Đức Mẹ.
*Giáo hội đã đặt lễ kính Đức Mẹ hiện ra tại Lộ
đức vào ngày 11 tháng 2 hàng năm.
*Từ năm 1992, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã
chỉ định ngày lễ Đức Mẹ Lộ đức là
ngày Thế giới cầu cho các bệnh nhân.
(Theo tài liệu của Lm. Hồng Phúc, Mẹ Maria
trang 189-208 và Dictionary of Mary p. 178)
5. Đức Thánh cha Gioan Phaolô 2 viếng Lộ đức:
Ngày 14 và 15 tháng 8 năm 2004, Đức thánh cha
Gioan Phaolô 2 đã viếng Đức Mẹ Lộ đức. Đây là chuyến đi để kỉ niệm 150
năm Giáo hội Công giáo tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, là chuyến
đi thứ 104 ra ngoài Vatican của đức thánh cha, là lần thứ 7 ngài tới nước Pháp.
Lần trước ngài tới Lộ đức vào
tháng 8 năm 1997 để dự Ngày giới trẻ toàn cầu. Đức thánh cha Gioan Phaolô 2 chủ
ý viếng nơi Đức Mẹ đã hiện ra với Bênađêta, và ngày 25 tháng 3 năm 1858, Đức Mẹ
xưng mình :" Ta là Đấng Vô nhiễm Nguyên tội", bốn năm sau khi Đức
Thánh cha Piô thứ 9 công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Ngày lễ kính Đức Mẹ Lên
trời, Đức thánh cha sẽ dâng lễ
lúc 10 giờ sáng tại đền thánh. Sau trưa, ngài sẽ cầu nguyện âm thầm trước hang
đá nơi Đức Mẹ hiện ra. 6 giờ chiều, Đức
thánh cha sẽ về lại Rôma.
Theo ước lượng của các giám mục, sẽ có chừng hơn 300 ngàn người tham dự,
gồm 2 ngàn nhà báo đã ghi tên tới Lộ đức trong dịp này
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét