Ngày 2 tháng 2
Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Ðền Thánh
Lễ Kính
Bài Ðọc
I: Ml 3, 1-4
"Ðấng
Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".
Trích sách
Tiên tri Malakhi.
Này đây
Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt
Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước
mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán:
"Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể
đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của
thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái
Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa
trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa
và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1)
Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh
Người ngự qua. - Ðáp.
2) Nhưng
Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của
chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa
ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người
ngự qua. - Ðáp.
4) Nhưng
Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển
vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Dt 2, 14-18
"Người
phải nên giống anh em Mình mọi đàng".
Trích thư
gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con
trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng
thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự
chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời.
Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái
Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng
sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền
tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên
Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia:
Lc 2,32
Alleluia,
alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân
Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm:
Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt
tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ
ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem
để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai
đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật
cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu
con.
Và đây ở
Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên
Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông
đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của
Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa
Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên
cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy
Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán:
vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt
muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân
Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người.
Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ
này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy,
và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ
đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy,
cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn
thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã
tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng
sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu
cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel .
Khi hai
ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình
là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên
Chúa ở cùng Người. ]
Ðó là lời
Chúa.
Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Vào Ðền Thánh
Theo luật
Do Thái thì tất cả các con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, vì vậy cha mẹ
con trẻ phải chuộc các em bằng một con chiên hay đôi chim bồ câu. Những lễ vật
này sẽ được dâng hiến Thiên Chúa thay cho các em.
Ðức Maria
đã tự khép mình vâng theo luật. Nhưng khi dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, Mẹ
biết rằng đây không phải là chuộc lại nhưng chính là khởi đầu cho lễ hy sinh mà
Con Mẹ sẽ hoàn tất trên núi Sọ để cứu chuộc chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay,
Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta hai ý nghĩa, thứ nhất là kỷ niệm cuộc gặp
gỡ đầu tiên của Ðấng Cứu Thế với dân riêng Ngài qua ông già Simêon là đại diện;
thứ hai Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho mọi dân tộc trên mặt đất.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền
thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho
Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần
có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Đức Maria và thánh Giuse lên Giêrusalem để
thực hiện sự vâng phục, thực hành Lề Luật: mọi
con trai đầu lòng phải dâng cho Chúa (Lc
2,23). Luật buộc này dạy các đôi vợ chổng và cho toàn thế giới biết rằng tất cả cuộc sống đều được lãnh nhận từ Thiên
Chúa. Không có quà tặng nào tốt đẹp hơn là một đứa con trai.
Đức Maria và thánh Giuse lên Đền Thờ để dâng Đức Giêsu. Cử chỉ này đối với
các đấng thật tự nhiên: vâng phục đối với các ngài là niềm vui. Lên Giêrusalem
cùng với trẻ thơ đối với các ngài chỉ là kéo dài tiếng "thưa vâng" đã
khởi đầu với Đức Maria và lời đáp của thánh Giuse với thiên thần: Đừng sợ hãy đem Maria về nhà mình... Ông đã đem vị hôn
thê về nhà mình" (Mt 1,20.24).
Không có trẻ thơ nào thuộc về Thiên Chúa
theo cách này, không bao giờ một lễ vật cho Chúa lại tự nhiên như thế. Với sự
vâng phục, Đức Maria và thánh Giuse tràn đầy niềm vui vì được vâng phục Thiên Chúa, được
lắng nghe cách chăm chú và được sống theo thánh ý của
Người: Phúc cho ai biết lắng nghe
Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Lc 8,21).
Hồng y Godfried Danneels
02/02/12THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 4 TN
Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thánh
Lc 2,22-40
*****
TRONG MÁI ẤM GIA ĐÌNH
“Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở
về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê.” (Lc 2,39)
Suy niệm: Bồng ẵm trẻ Giêsu tiến dâng cho Thiên Chúa trong Đền
thánh: một hình ảnh đạo đức thật đẹp! Hai ông bà Giuse và Maria hiểu rằng Con
Trẻ này không thuộc về họ, nhưng thuộc về Thiên Chúa, Chúa muôn loài. Tiếp đến
là một hình ảnh đạo đức khác cũng đẹp không kém là bồng ẵm trẻ Giêsu về nhà! Được
tiến dâng cho Chúa trong Đền thờ, nhưng Con Trẻ không ở lại đó mà về sống dưới
mái nhà Nadarét. Khung cảnh để trẻ Giêsu lớn lên và đầy ân nghĩa trước mặt
Thiên Chúa và mọi người lại chính là mái ấm gia đình, một gia đình sống trong
lòng kính thờ Thiên Chúa và hoà thuận yêu thương nhau.
Mời Bạn: Những hình ảnh đẹp đẽ trên có làm bạn nghĩ đến bao gia
đình kitô hữu vừa lơ là việc thờ phượng Chúa, vừa thiếu sự hoà thuận yêu
thương. Số phận bao con trẻ trong các gia đình như thế sẽ đi về đâu? Đánh giá
đúng tầm quan trọng của việc giáo dục đức tin trong gia đình, để rồi bạn quan
tâm hơn đến việc thờ phượng Chúa qua các giờ đọc kinh, đọc Lời Chúa tại gia
đình mỗi ngày.
Chia sẻ: Tôi sẽ làm gì để thúc đẩy việc sống đức tin trong gia
đình mình?
Sống Lời Chúa: Sắp xếp thời gian để gia đình có thể đọc kinh tối
và chia sẻ Lời Chúa chung nếu không được hằng ngày thì ít là vài ngày trong tuần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bầu khí yêu thương tại Nadarét đã góp
phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa. Xin nhìn đến gia đình
chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương
tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ. Amen. (Rabbouni)
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02-02
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG
ĐỀN THÁNH;
Ml 3,1-4; TIN MỪNG THEO THÁNH Lc 2, 22-40.
LỜI SUY NIỆM: “Ông Simêon chúc phúc
cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé
này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu
hiệu cho người đời chống báng.” (Lc 2,34). Trong câu này Simêon cho một bản tóm
lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu
sẽ là cớ cho nhiều người vấp ngã: Khi đối diện với sự nhân từ, yêu thương của
Chúa Giêsu, nếu họ mở lòng đón nhận tình yêu đó thì họ ở trong vương quốc của
Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án.
Có nhiều người chối bỏ Ngài nhưng đồng thời không thiếu những người sẳn sàng nhận
Ngài làm chủ đời sống của họ.
Chúa Giêsu
sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy: Chính cánh tay của Chúa Giêsu đã đưa
xuống tận vực thẳm để nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống
mới, đem tội nhân khỏi vùng tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi
những nhục nhả và bước vào chốn vinh quang.
Chúa Giêsu
sẽ gặp nhiều sự chống đối: Đối với Chúa Giêsu không có sự trung lập. Hoặc chúng
ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính
kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA GIÊSU
trong
Đền Thánh
Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Gierusalem đã mừng
kính lễ này, hướng tới việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và việc thanh tẩy Đức
Trinh Nữ. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một
nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Roma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức
Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ
Maria. Đức Phaolô VI viết: "Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ
"dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú
lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu
nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một
sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn
luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy" (Lc 2,21-35)
(Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy
Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực
hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ
nữ sau khi sanh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và
trong 80 này nếu sinh con gái. Trong những ngày ấy họ không được vào đền thờ và
không được chạm đến vật dụng nào đã thánh hiến cho Thiên Chúa.
Hết những ngày kiêng cữ trên, họ đến đền thờ để
được thanh tẩy. Họ phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu hay hai con
chim gáy hoặc bồ câu non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp vượt qua đất Ai cập.
Lúc các con đầu lòng của loài người hay là của loài vật đều phải dâng cho Thiên
Chúa (Xh 13,2). Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và thánh Giuse "khi
đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem
hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa" và các Ngài "dâng làm lễ tế
một cặp chim gáy hay hai con bồ câu" (Lc 2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh diễn
ra một cách bình thường dưới mắt người đời. Nhưng trong lịch sử cứu độ, đây là
việc thực hiện lời tiên báo của tiên tri Malaki: "Thình lình sẽ đến nơi đền
thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi, và thần sứ giao ước mà các
ngươi ước nguyện, này vị ấy đến" (Ml 3,1). Chúa đã đến trong đền thờ Người.
Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ này. Nhưng như chính tiên tri
Malaki trước tự hỏi: "Ai chịu đựng nổi ngày Người đến ? Ai đứng vững được
khi Người hiện ra ?" (Ml 3,2).
Dĩ nhiên khó ai nhận biết được Thiên Chúa, bởi
vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người như chúng ta. Phải có sự soi sáng của
Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna là những người công chính và mộ đạo đã
được hường đặc ân này. Được linh cảm, Siméon "đến đền thờ, khi cha mẹ bồng
hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật dạy về Người" (Lc 2,27).
Am lấy Hài nhi trên tay, Siméon đã chúc tụng
Chúa và nói:
"Mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna, "không rời khỏi đền
thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến
bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc
của Gierusalem" (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh còn được gọi
là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép những cây nến và phân phát cho giáo dân. Cầm
nến sáng trong tay và tiến vào thánh đường, mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên
tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa
Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối chúng ta vào trong cung điện Người. Những
"cây nến phép" này sẽ được cất giữ trong các gia đình để dùng vào dịp
lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên thi hài người quá cố trong gia đình.
(Daminhvn.com)
+++++++++++++++++
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi
trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường
độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong
một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra
khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới
bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười
và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ,
tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong
phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức
sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ
nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người
bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một dòng điện
chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn
tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới,
một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó
chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây
phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến
nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như
biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn
muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà
môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi
người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người,
nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất
mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin
tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã
biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia
sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết
thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal
3:1-4; Heb 2:14-18; Lk 2:22-32.
1/ Bài đọc I:
1 Này
Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà
các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà
các ngươi đợi trông đang đến, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.
2 Ai
chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như
lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt.
3 Người
sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện
chúng như vàng, như bạc. Bấy giờ, đối với ĐỨC CHÚA, chúng sẽ là những kẻ đến
dâng lễ vật, theo lẽ công chính.
4 Lễ
vật của Giu-đa và của Giê-ru-sa-lem sẽ làm đẹp lòng ĐỨC CHÚA như những ngày xa
xưa, như những năm thuở trước.
2/ Bài đọc II:
14 Như
thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy
huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh
chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ,
15 và
đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.
16 Vì
những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu
Áp-ra-ham.
17 Bởi
thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị
Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội
cho dân.
18 Vì
bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những
ai bị thử thách.
3/ Phúc Âm:
22 Khi
đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se
đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,
23 như
đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh, dành cho Chúa,"
24 và
cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ
câu non.
25 Hồi
ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và
sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự
trên ông.
26 Ông
đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được
thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.
27 Được
Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để
chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,
28 thì
ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn
lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì
chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa
đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó
là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân
Người.
Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với Lều Hội Ngộ khi con cái Israel
vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc; sau khi ổn định trong Đất Hứa,
vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển Hòm Bia vào nơi Cực Thánh, để
con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội; khi Đền Thờ Jerusalem bị
phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn
tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi nào có nhà thờ, nơi đó có
Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận Thế.
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn
mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ để gặp gỡ dân Ngài. Trong
bài đọc I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu Ước, Malachi, nhìn thấy trước
ngày Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân Người để thanh tẩy họ khỏi mọi
tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường cho Ngài. Trong bài đọc II, tác
giả Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác
phàm của con người để ở với con người, để con người có thể trông thấy Ngài bằng
xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau khổ của kiếp người để cảm thông,
để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm Lucas,
cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Ngài đến để
gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu
độ bằng xương thịt như lời các tiên tri loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông
đang đến.
Sách tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu
Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các tiên-tri khác, tiên-tri Malachi tin triều
đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước
mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi
vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ
giả của giao ước mà các ngươi
đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời tiên-tri Malachi, một
Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường
xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin
Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng
cho những người Israel
còn sót. Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến?
Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim,
như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh
tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng
Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày
của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy
của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh
luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám
vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con
người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên án những lỗi lầm của hàng
tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là
lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch
hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế
Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng
lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah
và của Jerusalem
sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.”
1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng
Cứu Thế: “Này Ta sai ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức
Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với
con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ
đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.”
Song song bổn phận của con người đối với Thiên
Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất là những người trong gia
đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều
ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải
chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con người, trong gia đình cũng
như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người
đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn vào thế giới La-Hy, hai vấn
nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải thích cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa phải nhập thể: Đối với
người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài không có một chút vật
chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên Chúa, con người phải cố gắng
làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam hãm linh hồn con người, để chỉ
còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại, Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu
chuộc con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa phải chịu đau khổ: Người
Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ; chỉ có con người
mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu đau khổ không còn là
Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền để vượt thóat đau
khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được? Kitô Giáo cũng
đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu chết trên Thập
Giá!
Tác giả Thư Do-thái cố gắng trả lời hai vấn nạn
này như sau:
2.1/ Chúa Giêsu phải nhập thể để mang lấy thân
phận con người: Để có thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy
thân xác con người để có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có
thân xác, làm sao chết? “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu
đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu
diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì
sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ
không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu
không chết muôn đời; Ngài đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của
những người từ trong cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường,
để tất cả các anh em của Ngài cũng được đi con đường đó.
2.2/ Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương
diện: Tác giả Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên
con người về mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống
anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung
tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc
“hòan toàn trở nên con người” là để:
(1) Ngài có thể thực sự được coi là một con người:
Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và ngang qua cái chết.
(2) Ngài có thể thông cảm và đồng cảm với thân
phận con người: Nếu một người không ngang qua những kinh nghiệm đau khổ và sự
chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm những ai bị ở trong
hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ một cách hiệu
quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách
và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự sống
và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu đau khổ, ngang qua sự
chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa;
chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ của con người cho Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Các
mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
3.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên
Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và
ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật
Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho
Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy
hay một cặp bồ câu non.
3.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự
thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo,
ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông
đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được
thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm
lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ
đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt
con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường
cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
3.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này
làm duyên cớ cho nhiều người Israel
ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy,
những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được
đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc
đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ
từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng
dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng
khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ
đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ
của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ
cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa để
bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để lãnh nhận những ơn thánh cần thiết cho cuộc
sống con người.
- Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến
nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà thờ với một tâm hồn khô
khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận
những hồng ân của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét